Văn mẫu lớp 9: Phân tích đoạn trích Con chó Bấc gồm dàn ý, cùng 5 bài văn mẫu, giúp các em học sinh lớp 9 tham khảo, hiểu sâu sắc hơn về đoạn trích để viết bài phân tích Con chó Bấc hay hơn.
Đoạn trích Con chó Bấc của Giắc Lân-đơn được trích trong tác phẩm Tiếng gọi nơi hoang dã, đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn:
Phân tích đoạn trích Con chó Bấc của Giắc Lân-đơn
Dàn ý phân tích bài Con chó Bấc
1. Mở bài
- Khái quát về tác phẩm Tiếng gọi nơi hoang dã.
- Đoạn trích Con chó Bấc kể lại quãng thời gian chung sống cùng với người chủ Thooc-tơn đã để lại trong tâm hồn Bấc nhiều kỷ niệm, đó là thứ tình cảm thiêng liêng và tốt đẹp, khiến Bấc cảm nhận được tình yêu thương ấm áp nhất trong cuộc đời.
2. Thân bài
* Cuộc sống của Bấc trước khi gặp Thooc-tơn:
- Luôn cảm thấy cô đơn, lạnh lẽo
- Bấc mang trong mình nhiều nỗi hoang mang, sợ hãi vì bị bỏ rơi, bị mang đi làm thú kéo xe trượt tuyết.
- Với những người chủ cũ Bấc chỉ là thứ để phục vụ làm ăn, để ra oai hộ vệ, khá khẩm hơn thì Bấc chỉ được hưởng thứ tình cảm "trịnh trọng và đường hoàng".
* Tình cảm của Thooc-tơn với Bấc:
- Sau khi gặp Thooc-tơn Bấc mới hiểu thế nào là một tình yêu thương thực sự và nồng nàn.
- Anh luôn coi Bấc như con cái trong nhà mà chăm sóc, luôn âu yếm vuốt ve và thì thầm với Bấc như đối với một người bạn, tỏ ra tôn trọng Bấc.
* Tình cảm của Bấc với Thooc-tơn:
- Bấc rất yêu quý chủ, đó là thứ tình cảm tôn thờ và tôn trọng vô cùng
- Bấc không săn đón sự yêu thương mà luôn chú ý quan sát chủ một cách tỉ mỉ, cẩn thận bằng ánh mắt trong sáng, yêu thương mãnh liệt.
- Khẳng định tình cảm bằng việc "cắn yêu".
- Bấc vì quá yêu thương và sung sướng khi được sống với Thooc-tơn nên nó thường bị ám ảnh bởi quá khứ, nó sợ rằng Thooc-tơn cũng sẽ rời bỏ nó, điều đó khiến nó luôn hoang mang và không yên giấc.
3. Kết bài
- Tình cảm thiêng liêng, đẹp đẽ của Bấc và Thooc-tơn
- Bài học về cách đối xử và yêu thương vật nuôi.
Phân tích đoạn trích Con chó Bấc - Mẫu 1
Giắc Lân-đơn (1876 – 1916) là nhà văn Mĩ, tên thật là Giôn Gri-phit Lân-đơn, sinh ở bang San Phran-xi-xcô. Ông trải qua thời kì thơ ấu rất vất vả, từng phải làm nhiều nghề để kiếm sống. Lân-đơn bắt đầu sự nghiệp sáng tác bằng những truyện ngắn đăng trên một tờ báo của sinh viên. Thời kì phát triển cao nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông là vào đầu thế kỉ XX.
Tiếng gọi nơi hoang dã (1903) là tiểu thuyết ra mắt bạn đọc sau khi ông đi theo những người tìm vàng đến miền Clân-đai-cơ trở về. Con chó Bấc là một đoạn trích trong cuốn tiểu thuyết đó. Tác phẩm kể về Bấc, một con chó bị bắt cóc đưa lên vùng Bắc cực để kéo xe trượt tuyết cho những người đi tìm vàng. Bấc đã qua tay nhiều ông chủ độc ác. Chỉ riêng Giôn Thoóc-tơn là người đã có lòng nhân từ đối với nó. Sau khi Thoóc-tơn chết, nó rời bỏ con người, đi theo tiếng gọi nơi hoang dã và trở thành một con chó hoang.
Trong đoạn trích, nhà văn Lân-đơn đã có những nhận xét tinh tế và trí tưởng tượng tuyệt vời khi đi sâu vào đời sống “tâm hồn” của con chó Bấc, đồng thời bộc lộ tình cảm yêu thương của mình đối với loài vật. Bài văn được chia làm ba phần. Phần một. Từ đầu đến… nói khơi dậy lên được: Quan hệ của Bấc đối với gia đình chủ cũ. Phần hai. Tiếp đến… hầu như biết nói đấy! Tình cảm yêu mến của Thoóc-tơn đối với Bấc. Phần ba. Đoạn còn lại: Tình cảm gắn bó của Bấc đối với Thoóc-tơn,
Qua cách miêu tả và kể chuyện, ta thấy nhà văn chủ yếu muốn thể hiện lòng biết ơn và tình cảm yêu thương của con chó Bấc đối với người chủ giàu lòng nhân ái. Ở đoạn thứ nhất, tác giả kể về quan hệ của con chó Bấc đối với gia đình thẩm phán Mi-lơ là chủ để lấy đó làm cơ sở so sánh tình cảm của Bấc đối với Thoóc-tơn: Với những cậu con trai của ông Thẩm, trong những buổi đi săn hoặc đi lang thang đây đó, tình cảm ấy chỉ là chuyện làm ăn cùng hội cùng phường; với những đứa cháu nhỏ của ông Thẩm, là trách nhiệm ra oai hộ vệ. Còn đối với bản thân ông Thẩm, đó là thứ tình bạn trịnh trọng và đường hoàng.
Mức độ tình cảm của Bấc đối với Thoóc-tơn lại hoàn toàn khác những tình thương yêu sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến tôn thờ, thương yêu đến cuồng nhiệt thì phải đến Giôn Thoóc-tơn mới khơi dậy lên được. Với con chó Bấc thì Giôn Thoóc-tơn là một ông chủ lí tưởng: Các ông chủ trước chăm sóc nó chỉ là vì nghĩa vụ và lợi ích kinh doanh (trông nhà hoặc kéo xe trượt tuyết để đi tìm vàng) chứ không thực sự yêu thương nó.
Trước hết, ta hãy xem tình cảm của Thoóc-tơn đối với con chó Bấc. Thoóc-tơn đối xử với bầy chó của anh như thể chúng là con cái của anh vậy. Riêng đối với Bấc, trong ý nghĩ và trong tình cảm, dường như anh không coi nó chỉ là một con chó, mà còn là một người bạn thân thiết: Con người này đã cứu sống nó đó là một lẽ; nhưng hơn thế nữa, anh là một ông chủ lí tưởng. Những người khác chăm nom chó của họ xuất phát từ ý thức về nghĩa vụ và về lợi ích kinh doanh; còn anh chăm sóc chó của mình như thể chúng là con cái của anh vậy, bởi vì anh không thể nào không chăm sóc. Và anh còn chăm sóc nhiều hơn nữa kia. Anh không bao giờ quên chào hỏi thân mật hoặc nói lời vui vẻ và ngồi xuống chuyện trò lâu với chúng (mà anh gọi là (tầm phào), điều mà cả anh và chúng đều thích thú.
Anh có thói quen dùng hai bàn tay túm chặt lấy đầu Bấc rồi dựa đầu anh vào đầu nó, hoặc lắc nó đẩy tới đẩy lui, vừa lắc vừa khe khẽ thốt lên những tiếng rủa mà đối với Bấc lại là những lời nói nựng âu yếm. Bấc thấy không có gì vui sướng bằng cái ôm ghì mạnh mẽ ấy và những tiếng rửa rú ri bên tai ấy và theo mỗi cái lắc đẩy tới đẩy lui, nó lại tưởng chừng như quả tim mình nhảy tung ra khỏi cơ thể vì quá ngây ngất. Và khi được buông ra, nó bật vùng dậy trên hai chân, miệng cười, mắt long lanh, họng rung lên những âm thanh không thốt nên lời, và cứ như vậy trong tư thế đứng yên bất động…Tình cảm của Thoóc-tơn biểu hiện rõ rệt nhất khi anh kêu lên, trân trọng: Trời đất ! Đằng ấy hình như biết nói đấy ! Anh coi Bấc như một người bạn tri âm, tri kỉ.
Trong đoạn văn này, mục đích chủ yếu của Lân-đơn là tập trung miêu tả những biểu hiện tình cảm của con chó Bấc. Trước đó, nhà văn kể về tình cảm của Thoóc-tơn đối với bầy chó của anh nói chung và đối với con chó Bấc nói riêng, nhằm nhấn mạnh tình cảm đặc biệt mà con chó Bấc dành cho anh. Không phải đối với bất cứ ông chủ nào con chó Bấc cũng yêu quý như với Thoóc-tơn vì Bấc đã qua tay nhiều ông chủ độc ác, chỉ riêng Thoóc- tơn là có lòng nhân từ với nó.
Đọc những dòng miêu tả Bấc, chúng ta sẽ thấy tài quan sát và sự hiểu biết của nhà văn đối với loài chó: Bấc có cái tài biểu lộ tình thương yêu gần giống như làm đau người ta. Nó thường hay há miệng ra cán lấy bàn tay Thoóc-tơn rồi ép răng xuống mạnh đến nỗi vết răng hằn vào da thịt một lúc lâu. Và cùng như Bấc hiểu các tiếng rủa là những lời nói nựng, con người cũng hiểu cái cắn vờ ấy là cử chỉ vuốt ve.
Lân-đơn có những nhận xét tinh tế, tỉ mỉ khi miêu tả từng con chó trong bầy chó kéo xe. Những biểu hiện tình cảm của chúng là đặc điểm chung của loài chó nhưng nhà văn chú trọng đến nét riêng của mỗi con để làm nổi bật nét khác biệt của Bấc so với những con chó khác trong bầy. Bấc có tình cảm đặc biệt đối với Thoóc-tơn. Có lúc nó bày tỏ thái độ âu yếm qua những cái cắn vờ hoặc theo sát Thoóc-tơn không rời một bước : Tuy nhiên, tình thương yêu của Bấc phần lớn được diễn đạt bằng sự tôn thờ. Mặc dù nó sung sướng đến cuồng lên mỗi khi Thoóc-tơn chạm vào nó hoặc nói chuyện với nó, nhưng nó không săn dồn những biểu hiện ấy. Khác với cô ả Xơ-kít có thói quen thọc cái mũi của nó vào dưới bàn tay của Thooc-tơn rồi hích, hích mãi cho đến khi được vỗ về, cũng khác với Ních thường chồm lên tì cái đầu to tướng của cu cậu lên đầu gối của Thoóc-tơn,
Bấc chỉ tôn thờ ở xa xa một quãng. Nó thường nằm phục ở chân Thoóc-tơn hằng giờ, mắt háo hức, tỉnh táo, ngước nhìn lên mặt anh, chăm chú xem xét, hết sức quan tâm theo dõi từng biểu hiện thoáng qua, mọi cử động hoặc thay đổi trên nét mặt. Hoặc cũng có lúc nằm ra xa hơn, về một bên hoặc đằng sau anh, quan sát hình dáng của anh và từng cử động của thân thể anh. Và thường thường, như mối giao cảm giữa họ với nhau, sức mạnh ánh mắt của Bấc làm cho Giôn Thoóc-tơn quay đầu sang và nhìn lại nó, không nói năng gì, đôi mắt anh tỏa rạng tình cảm tự đáy lòng, trong khi tình cảm của Bấc ngời ánh lên qua đôi mắt nó tỏa rạng ra ngoài.
Tình cảm của con chó Bấc được tác giả miêu tả cụ thể và tinh tế. Nhà văn không nhân cách hóa con chó Bấc theo kiểu của La Phông-ten trong thơ ngụ ngôn. Lúc muốn bày tỏ tình cảm với chủ, họng nó chỉ rung lên những âm thanh không thốt nên lời… Thoóc-tơn cảm thấy Bấc hầu như biết nói và anh thấu hiểu thế giới tâm hồn phong phú của nó: Trước kia, nó chưa hề cảm thấy một tình thương yêu như vậy…, Bấc thấy không có gì vui sướng bằng cái ôm ghì mạnh mẽ ấy…, nó lại tưởng chừng như quả tim mình nhảy tung ra khỏi lồng ngực…
Nhà văn kể rằng: Một thời gian dài sau khi được cứu sống, Bấc không muốn rời Thoóc-tơn một bước. Từ lúc anh ra khỏi lều cho đến lúc anh quay trở về, Bấc luôn bám theo gót chân anh. Việc thay thầy đổi chủ xoành xoạch từ khi nó đến vùng đất phương bắc đã làm nảy sinh trong lòng nó nỗi lo sợ là không người chủ nào có thể gắn bó lâu dài. Nó sợ Thoóc-tơn cũng lại biến khỏi cuộc đời nó như Pê-rôn và Phơ-răng-xoa và anh chàng người lai Ê-cốt đã đi qua rồi biến mất trước đây.
Ngay cả ban đêm, trong giấc mơ, nó cũng bị nỗi lo sợ này ám ảnh. Những lúc ấy, nó vội vùng dậy không ngủ nữa, trườn qua giá lạnh đến tận mép lều, đứng đấy, lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ…
Đoạn văn trên vừa phản ánh trí tưởng tượng tuyệt vời của nhà văn, vừa nói lên tình yêu thương loài vật của ông. Điều mà ông muốn nhắn gửi tới chúng ta là hãy hết lòng thương yêu loài vật, nhất là những loài vật có nghĩa, có tình.
Phân tích đoạn trích Con chó Bấc - Mẫu 2
Viết về loài vật bằng cả trái tim yêu thương G. Lân- đơn đã thể hiện cảm động tình cảm giữa chú chó Bấc với người chủ Giôn Thoóc - tơn của mình. Dù chỉ là một loài vật nuôi nhưng ở Bấc luôn có sự trung thành cùng những tình cảm thương yêu, kính trọng với ông chủ của mình. Qua việc miêu tả con chó Bấc, Lân- đơn đã thể hiện được những tình cảm đáng quý ở những loài vật nuôi, trong cái nhìn của Lân- đơn thì chúng không phải là những con vật vô tri, vô giác mà ngược lại chúng có cảm xúc, tình cảm như ở con người vậy, phải có sự thương yêu đối với con vật Lân- đơn mới có thể miêu tả con chó Bấc trong những trang văn của mình thành công và chân thực đến vậy.
Trích đoạn “Con chó bấc” là một đoạn trích trong tác phẩm “Tiếng gọi hoang dã” của nhà văn Lân - đơn. Qua tác phẩm này, nhà văn đã tái hiện một cách sinh động không khí của vùng Bắc cực lạnh giá với những cánh đồng tuyết mênh mông, hiện lên trên đó là những con người với quyết tâm tìm kiếm kho báu của Bắc cực, đó là những mỏ vàng. Nhưng điều đặc biệt nhất trong tác phẩm này không phải là hành trình tìm kiếm vàng, cũng không chỉ đơn thuần miêu tả không gian của vùng Bắc cực mênh mông, rộng lớn mà đó chính là những trang văn viết về con chó Bấc, cũng như mối quan hệ gắn bó giữa Bấc với người chủ của mình. Ở trong tác phẩm này, Bấc không chỉ miêu tả nó như một loài động vật thông thường mà đi sâu vào khám phá, khai thác thế giới nội tâm của nó, nhìn nhận nó ở những khía cạnh rất nhân văn, rất con người.
Những trang văn viết về chú chó Bấc cũng là những trang văn ngọt ngào, cảm động đầy chất trữ tình mà Lân - đơn đã kì công miêu tả, khắc họa. Con chó Bấc là một con chó bị bắt cóc lên vùng núi Bắc cực để làm kéo xe, làm những công việc nặng nhọc nhằm phục vụ cho mục đích tham lam của những người chủ. Bấc đã trải qua rất nhiều đời chủ, nhưng những người chủ đó cũng chỉ coi nó là một công cụ để tìm kiếm vàng, là một con vật không hơn, không kém. Hàng ngày Bấc phải kéo những xe tuyết nặng nhọc, phải đương đầu với cái lạnh buốt của thời tiết ở Bắc cực, vốn những công việc nặng nhọc này đâu có phải dành cho một chú chó như nó. Nhưng vì lòng tham thì những người chủ vẫn nhẫn tâm ép buộc nó làm những công việc vốn không phải dành cho mình này.
Vì là một chú chó có tình cảm, cảm xúc nên Bấc có thể nhận thức được mọi việc cũng như nhận biết được sự đối xử của những ông chủ này với mình là bất công, là tàn nhẫn. Bởi tuy là người giúp họ vận chuyển, là người bạn đồng hành nhưng họ đâu coi nó là vật nuôi, không dành cho nó một chút tình cảm nào mà ngược lại coi nó là một công cụ biết đi không hơn, không kém. Hàng ngày nó phải làm việc cực nhọc để có được miếng ăn, miếng ăn của nó cũng đánh đổi bằng những hàng hóa nặng nhọc, bằng những trận đòn roi của người chủ, việc nuôi nó cũng chỉ là trách nhiệm cũng chỉ là sự bố thí của những người chủ đang lợi dụng nó để thực hiện lòng tham của mình. Vì bị đối xử bất công, tàn nhẫn nên có cũng thấm thía được thế nào là tình người, cũng có lẽ vì vậy mà khi gặp Giôn Thooc- tơn, một người chủ thực sự , được sống những ngày tháng tươi đẹp nhất.
Chó Bấc được Giôn- thooc tơn cứu sống và đối xử vô cùng ân cần, dịu dàng với nó, khác hẳn với những người chủ trước đây, từ khi gặp và sống bên Thooc- tơn, Bấc cảm thấy hạnh phúc, cảm nhận được cuộc sống ý nghĩa hơn “Một tình yêu thương thực sự và nồng nàn, lần đầu tiên phát sinh ra bên trong nó”. Nếu như trong gia đình của Thẩm phán mi- lơ, Bấc chỉ là một con chó săn, một con vật giữa nhà và là một vật để làm cảnh. Nhưng với ông chủ Giôn Thooc- tơn thì không như vậy. Vì ông chủ mới này không chỉ là một người chủ tốt bụng mà còn là một người bạn tri kỉ của nó, người đầu tiên cũng là duy nhất có thể khơi dậy, nhen nhóm lên trong lòng của Bấc những tình cảm yêu thương, kính trọng mà trước nay chưa từng có, đó là thứ tình cảm “…sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến mức tôn thờ, thương yêu đến mức cuồng nhiệt… “
Nếu với những người chủ khác, quan hệ của Bấc với họ là công cụ để họ thực hiện lòng tham của mình, tức cũng là xuất phát từ mục đích thực dụng, dùng Bấc để làm chó săn, kéo xe trượt tuyết để tìm kiếm vàng thì với Thooc- tơn, ông coi Bấc như con, như cái. Không chỉ là người cứu Bấc mà còn là “ông chủ lí tưởng” nhất trong lòng Bấc. Như vậy sự biến chuyển tình cảm trong lòng Bấc có sự thay đổi rõ rệt, nó đã gặp được người chủ thật sự của mình. Giây phút Bấc cảm thấy hạnh phúc nhất, thích thú, cảm động nhất chính là lúc được ông chủ vuốt ve.
Giôn Thoóc - tơn có thói quen “…túm chặt lấy đầu của Bấc rồi dựa đầu anh vào đầu của nó, hoặc lắc nó đẩy tới đẩy lui, vừa lắc vừa khe khẽ thốt lên những tiếng rủa mà đối với Bấc là những lời nói nựng âu yếm”. Khi ấy, chú chó Bấc cảm thấy không gì hạnh phúc hơn “không có gì vui sướng bằng cái ôm ghì mạnh mẽ”, sự vui mừng, hạnh phúc của Bấc cũng như tình cảm gắn bó của Bấc với ông chủ khiến cho người đọc cảm thấy đồng cảm, mừng thay cho Bấc, vì cuối cùng sau bao nhiêu gian khổ, thăng trầm thì Bấc đã tìm được một người chủ thực sự tốt bụng, một người xứng đáng để chú trung thành, yêu thương.
Như vậy, trong đoạn trích Con chó Bấc, nhà văn Lân- đơn đã thể hiện một cách cảm động tình cảm của chú chó Bấc đối với người chủ tốt bụng của mình Giôn Thoóc - tơn. Đó cũng là tình cảm thật đẹp giữa con người và những loài vật nuôi. Qua tác phẩm nhà văn Lân- đơn như muốn truyền tải những thông điệp nhân văn, đó là những loài động vật cũng có những tình cảm, cảm xúc, và những xúc cảm ấy cũng rất đáng được tôn trọng, và nhân vật ông chủ Giôn Thooc- tơn cũng là nhân vật tư tưởng để nhà văn kí thác những quan điểm đó, ông biết yêu thương, quý trọng với những con vật, những người bạn đồng hành của mình.
Phân tích đoạn trích Con chó Bấc - Mẫu 3
Đọc Tiếng gọi nơi hoang dã của Lân-đơn, ta như được đi theo đoàn người đi đào vàng lên vùng A-lax-ca, Bắc cực mênh mông tuyết trắng, với những cảnh, những con người với bao ấn tượng mạnh mẽ, dữ dội không cùng. Đặc biệt những trang viết về con chó Bấc, viết về mối quan hệ cảm động giữa Giôn Thoóc-tơn với con chó Bấc là hay nhất, cảm động nhất. Nhà văn không miêu tả ngoại hình, sinh hoạt bản năng của con chó Bấc mà đi sâu vào thế giới bên trong, thế giới tâm hồn của con vật, hình như mang nặng tình người hiếm có, cảm động. Đoạn văn Con chó Bấc là một đoạn văn ngọt ngào chất thơ khi nói về một tình thương giao cảm thắm thiết giữa người với vật nuôi.
Có lẽ vì đã trải qua những tháng ngày kéo xe trượt tuyết nặng nhọc, gặp phải những ông chủ độc ác, con chó Bấc mới hiểu sâu sắc thế nào là tình người. Miếng ăn của nó kiếm được là roi vọt, là sự bố thí của những con người tàn nhẫn và đang khát vàng. Cho nên từ ngày con chó Bấc được Giôn Thoóc-tơn cứu sống, nó mới được sống trong “một tình yêu thương thực sự vù nồng nàn lần đầu tiên phát sinh ra bên trong nó". Nó cũng đã một lần ít ỏi được hưởng hương vị của tình thương khi chưa bị bắt cóc lên bắc cực, đó là những ngày sống trong nhà ông Thẩm phán Mi-lơ giữa thung lũng Xan-ta Cla-ra mơn man ánh nắng.
Con Bấc chẳng bao giờ quên những ngày tháng êm đẹp và ngắn ngủi ấy. Những lần đi săn, đi lang thang với mấy cậu con trai ông Thẩm “tình cảm của Bấc cũng chỉ là thứ tình cảm làm ăn cùng hội cùng phường”. Với các cháu nhỏ ông Thẩm “đó là một thứ trách nhiệm hộ vệ trong niềm kiêu hãnh tự cao tự đại”. Còn với ông Thẩm “là thứ tình bạn trịnh trọng và đường hoàng”.Lân-đơn đã có một cách nói rất đặc sắc về mối quan hệ của Bấc với những thành viên trong gia đình Thẩm phán Mi-lơ. Bấc chỉ là một con chó săn, một con chó giữ nhà, và là một con chó cảnh. Thế thôi!
Còn từ ngày nó được sống với Giôn Thoóc-tơn, nó được ông chủ, ông bạn mới “khơi dậy” lên trong lòng Bấc những tình thương yêu, những tình cảm chưa hề được hưởng, chưa hề có: “sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến mức tôn thờ, thương yêu đến cuồng nhiệt... "Tình cảm vui, buồn, thương yêu, giận dữ cũng tựa như dòng nước có độ tràn, có hẹp và mênh mông, có sức chảy nhanh, chậm. Mọi dòng nước đều có nguồn cũng như mọi tình cảm đều có nguồn. Cái nguồn tình cảm sâu xa mà Bấc tìm thấy ở Giôn Thoóc-tơn là anh đã “cứu sống nó”, anh là “ông chủ lý tưởng”.
Những người khác nuôi Bấc là xuất phát từ nghĩa vụ và lợi ích kinh doanh để Bấc đi săn, giữ nhà, là vật nuôi làm cảnh và để kéo xe trượt tuyết đi tìm vàng. Còn Giôn Thoóc-tơn đã coi Bấc là “con cái của anh” vậy. Cái nguồn gốc ấy mới sâu sắc và cao quý, vì nó đã vượt hẳn mối quan hệ con vật với con người, đi tới mối quan hệ của tình thương, tình người. Mối quan hệ tình cảm ấy, con Bấc đã cảm nhận được bằng trực giác, bằng cảm xúc, bằng sự tinh nhạy, khôn ngoan mà chỉ có những con chó như con Bấc mới có.
Giôn Thoóc-tơn "đã chăm sóc”, lúc là một lời chào “hớn hở’’, lúc là một cử chỉ “thân ái", lúc là anh ngồi xuống rất lâu “nói chuyện” với Bấc mà cả hai đều tương thân, đều đồng cảm, đều “thích thú”. Giôn Thoóc-tơn “có thói quen túm chặt lấy đầu Bấc rồi đưa đầu anh vào đầu nó, hoặc lắc nó đảo qua đảo lại, vừa lắc vừa khe khẽ thốt lên những tiếng rủa mù đối với nó lại là những lời nói nựng âu yếm". Với con Bấc, đó là những giây phút thần tiên mà chỉ có Giôn Thoóc-tơn mới trao cho nó trong sự vuốt ve, yêu thương. Lúc đó, con Bấc cảm thấy “không có gì vui sướng bằng cái ôm ghì mạnh mẽ", "tiếng rủa rủ rỉ bên tôi”. Sự vui sướng của Bấc đến cực độ, có lúc nó cảm thấy “quả tim mình nhảy tung ra khỏi lồng ngực”.
Tình yêu thương giữa người và vật nuôi cũng có “cho" có "nhận” trong mối giao cảm, giao hòa, tương tác. Đây là một đoạn văn tuyệt bút nói về mối quan hệ sâu sắc, đẹp đẽ và hiếm có ấy: “Khi được buông ra, nó bật đứng dậy thẳng lên, miệng cười, mắt hùng hồn diễn cảm, họng rung lên những âm thanh không thốt nên lời, và cứ như vậy trong tư thế đứng yên bất động. Những lúc ấy, Giôn Thoóc-tơn lại kêu lên, trân trọng: “Trời đất! Đằng ấy hầu như biết nói đấy!”.Bấc như một đứa trẻ giàu tình cảm, nó “có một kiểu biểu lộ tình thương yêu gần giống như làm đau người ta”. Nó hay cắn vào tay Giôn Thoóc-tơn "ép răng xuống mạnh đến nỗi vết răng hằn vào da thịt một lúc sau mới mất”. Và chỉ có anh mới cảm nhận một cách hạnh phúc rằng “cái cắn vờ ấy là cử chỉ âu yếm, yêu thương”.
Lân-đơn với tình yêu thương loài vật, với cái tài quan sát và diễn tả, đặc biệt ông đã phát hiện ra, đã “sống" với những rung động, với những biến thái tâm tình, ông đã tả, hiểu được” ngôn ngữ riêng của một vật nuôi đã được thuần dưỡng và gắn bó lâu đời với con người, một vật nuôi khôn nhất, trung thành nhất và giàu tình cảm nhất, để nói lên một cách xúc động về mối quan hệ “sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến mức tôn thờ, thương yêu đến mức cuồng nhiệt” giữa Giôn Thoóc-tơn và con Bấc.
Nếu như phần đầu, nhà văn đã lấy mối quan hệ giữa con Bấc với gia đình Thẩm phán Mi-lơ để làm nổi bật mối tình yêu thương đặc biệt giữa con Bấc với Giôn Thoóc-tơn, thì ở phần giữa ông lại so sánh cách biểu hiện tình cảm của con Bấc và những con chó khác đối với chủ, mỗi con một vẻ. “Xơ-kit có thói quen thọc cúi mũi của nó vào dưới bàn tay của Thoóc-tơn rồi hích, hích mũi cho đến khi được vỗ về. Lúc thì tựa cái đầu to lớn của nó lên đầu gối của Thoóc- tơn”. Còn Bấc thì diễn đạt tình thương yêu bằng "sự tôn thờ”, sung sướng đến “cuồng lên ” khi được Thoóc-tơn “vuốt ve” hoặc "nói chuyện ” với nó. Thế giới loài vật được Lân-đơn nhìn nhận và miêu tả như thế giới con người tràn ngập tình yêu thương và biết sống trong sự giao cảm đầy hạnh phúc!
Con Bấc “thường nằm phục ở chân Thoóc-tơn hàng giờ, mắt hau háu, tỉnh táo, linh lợi, ngước nhìn thẳng vào mặt anh, chăm chú vào đấy, xem xét kỹ nét mặt, theo dõi với một mối quan tâm đặc biệt từng biểu hiện thoáng qua, mọi cử động hoặc đổi thay trên thần sắc”. Có lúc con Bấc ngắm nhìn chủ từ phía sau, và bằng linh cảm, giao cảm giữa người và chó, anh quay đầu nhìn lại, đôi mắt Thoóc-tơn “tỏa rạng tình cảm tự đáy lòng”, còn “tình cảm của Bấc cũng ngời ánh lên qua đôi mắt nó. Cách ngồi, cái ngước nhìn, cái lắng nghe và theo dõi cặp mắt và ánh mắt của con chó Bấc hiện lên trên trang văn như một linh hồn người, trong biểu cảm có chiều sâu lí trí, trong tâm hồn có cả chiều cao của tư duy. Con chó Bấc không chỉ có tình yêu thương mà còn có cả những suy nghĩ sống bên “Ông chủ lí tưởng”.
Con chó Bấc cũng có nỗi lo. Cuộc đời ba chìm bảy nổi đã qua, luôn luôn ám ảnh nó, "nó không muốn rời Thoóc-tơn ra một bước". Nó luôn luôn sợ, Thoóc-tơn cũng lại biến khỏi cuộc đời của nó như Pê-rôn và Phơ-răng-xoa và anh chàng người lai Ê-cốt đã đi qua rồi biến mất trước đây. Cả trong giấc mơ, nó cũng bị nỗi lo sợ này ám ảnh. Đêm nào nó cũng tỉnh giấc giữa chừng, rồi trườn qua giá lạnh đến đứng ở mép lều "lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ". Chi tiết ấy là một nét vẽ cảm động gợi lên trong lòng ta nhiều cảm thương xót xa. À ra thế đó, không chỉ riêng ở con người, mà cả những vật nuôi như con chó Bấc tinh khôn, tình cảm này cũng sợ ly biệt! Nhà văn Lân-đơn đã nói được điều đó và diễn đạt bằng những hình ảnh giàu giá trị nhân bản.
Tóm lại, Lân-đơn đã lấy tình thương đổ tả loài vật. Ông đã miêu tả sống động, hấp dẫn con chó mang tình người. Nó đã sống tình nghĩa thủy chung như con người. Chúng ta học lập ở Lân-đơn nghệ thuật tinh tế, biểu cảm trong miêu tả loài vật. Con chó Bấc nhân hậu, tình nghĩa đã làm cho thế giới tâm hồn chúng ta trở nên phong phú đối với những vật nuôi trong gia đình. Biết sống trong tình người, trong tình thương là cách sống đẹp nhất.
Phân tích đoạn trích Con chó Bấc - Mẫu 4
Tiếng gọi nơi hoang dã là một trong những tác phẩm thành công nhất của nhà văn người Mĩ, Jack London, người vẫn thường được so sánh với nhà văn vĩ đại của Nga - M. Gorki. Tác phẩm khác biệt ở chỗ nhân vật chính không phải là một con người mà là một chú chó có tên là Bấc, nó đã từng được thuần hóa và có một thời gian sống chung với con người, có những lúc chú đã rất hạnh phúc vì được cưng chiều. Nhưng bất hạnh thay cuộc đời của Bấc không mãi bằng phẳng, nó đã phải trải qua nhiều biến cố gian nan, vất vả phải vật lộn với cái lạnh, cái rét giữa vùng đất tuyết Alaska để kéo xe cho những người đào vàng. Và cuối cùng cuộc sống thiên nhiên hoang dã đã thức tỉnh bản năng của loài chó sói bên trong Bấc, nó quyết định từ bỏ cuộc sống thuần chủng trở về với mẹ thiên nhiên, sống chung với loài sói.
Đoạn trích Con chó Bấc kể về giai đoạn hạnh phúc nhất trong cuộc đời của Bấc khi nó gặp được người chủ nhân từ, hết lòng yêu thương cưng chiều, sau những tháng ngày qua tay nhiều chủ khác nhau. Hình ảnh Bấc được nhà văn xây dựng khéo léo và xúc động, thể hiện một tâm hồn nhạy cảm, đầy yêu thương cũng như nhiều lo âu của một con vật từng bị tổn thương quá nhiều.
Trước khi gặp Thooc-tơn, Bấc mang thân phận là một chú chó thuần chủng, nhưng tâm hồn của nó luôn ám ảnh một cô đơn, lạnh lẽo và trống trải, bởi từ khi sinh ra đã phải gặp nhiều những thăng trầm trong cuộc sống, từ việc đổi chủ nhiều lần khiến nó không tài nào thích nghi được, đến việc phải kéo xe giữa trời tuyết giá lạnh đến độ suýt chết. Chính bởi điều nó đã nảy sinh trong tâm hồn của Bấc những nỗi sợ vô hình về việc không có người chủ nào có thể gắn bó lâu dài với nó, thành ra Bấc cũng không dám đặt quá nhiều tình cảm, bởi nó sợ mất mát, sợ cảm giác trống trải đến ám ảnh cả trong mơ.
Chỉ đến khi gặp Thooc-tơn Bấc mới lại dần mở lòng mình ra lần nữa và lần này nó thực sự yêu quý và muốn gắn bó mãi mãi với người chủ nhân từ, bao dung và hết mực yêu thương nó cho nó cảm giác về một mái ấm, cho nó "tình yêu thương, một tình yêu thương thực sự và nồng nàn". Thứ tình cảm ấy khác hẳn với những gì mà nó từng nếm trải trong đời, đó không phải là kiểu tình cảm "làm ăn cùng hội cùng phường, là "trách nhiệm ra oai hộ vệ", hay thứ tình cảm có phần lịch sự xa cách "trịnh trọng và đường hoàng".
Trước khi gặp Thooc-tơn Bấc không biết và cũng không hiểu thế nào là một gia đình, bởi những người chủ trước đó đã không cho nó được hơi ấm, được tình yêu thương cũng như sự cưng chiều trân trọng như một người bạn, người thân thiết, họ chỉ đơn giản coi nó là một con vật nuôi dùng vào những mục đích khác nhau. Chính vì thế nên Bấc phải chịu cảm giác cô đơn trống trải trong một thời gian dài, có lẽ vì xót thương cho con vật có tâm hồn tổn thương và mất mát thế nên thượng đế đã để nó gặp được Thooc-tơn, người chủ cuối cùng, cho nó một quãng thời gian thật hạnh phúc, được đếm trải thứ tình cảm mới lạ, "sôi nổi, nồng cháy, yêu thương đến tôn thờ, thương yêu đến cuồng nhiệt".
Bấc không được miêu tả rõ ràng về hình dáng, kích thước hay bộ lông thay vào đó tác giả lại tập trung làm nổi bật tâm hồn Bấc và cách mà Bấc yêu thương chủ, từ đó có thể thấy rằng Bấc là một chú chó vô cùng thông minh và có linh tính. Bấc thấu hiểu tất cả những tình cảm mà Thooc-tơn đã dành cho mình, sự cưng chiều che chở, tấm lòng yêu thương của Thooc-tơn đối với nó không chỉ đơn giản là của một người chủ đối với thú cưng mà nó đã vượt qua giới hạn giống loài, giữa Bấc và Thooc-tơn tồn tại một thứ gọi là tình cảm gia đình mà ở đó, Bấc là đứa con bé bỏng ngoan ngoãn được nâng niu, quý báu. Bấc đủ khôn ngoan để nhìn nhận được sự tử tế, nhân từ và tấm lòng yêu thương vô bờ bến của người chủ mới thế nên dần dà trong tâm hồn nó đã có những biến đổi nhất định, nó cũng muốn đáp lại, đối xử với Thooc-tơn như cái cách mà anh đã làm với nó.
Dĩ nhiên rằng Bấc không thể bày tỏ tình cảm bằng những lời mắng yêu, những câu trò chuyện thì thầm mà Thooc-tơn vẫn thường dành cho nó mỗi ngày, nhưng Bấc biết cách dùng hành động để chứng minh tình cảm của mình với người chủ yêu quý. Sống bên cạnh Thooc-tơn cứ mỗi lần được âu yếm là Bấc lại cảm thấy "quả tim mình nhảy tung ra khỏi cơ thể vì quá ngây ngất", và để đáp lại thứ tình cảm tuyệt vời lâng lâng ấy Bấc dùng tư thế đặc biệt của loài chó để hưởng ứng "nó bật dậy bằng hai chân, miệng cười, mắt long lanh, họng rung lên những âm thanh không thốt nên lời", dường như thể nó đang muốn nói lời gì đó với Thooc-tơn rằng nó đang xúc động, đang quá đỗi sung sướng, nó chưa từng được hạnh phúc như thế này vậy.
Sự thông minh và ngoan ngoãn vượt bậc của Bấc cũng khiến Thooc-tơn phải bật thốt lên rằng "Trời đất, đằng ấy cứ như biết nói ấy!", biểu lộ rằng anh cũng hiểu những gì Bấc muốn nói, điều đó lại càng khiến Bấc hạnh phúc hơn. Rồi có lẽ xuất phát từ cuộc đời cô đơn và lạnh lẽo quá lâu thế nên khi gặp Thooc-tơn Bấc được hưởng quá nhiều niềm vui thế nên nó lại càng trân trọng, càng sợ mất đi, nó vẫn thường "cắn yêu" vào đôi bàn tay của, đến mức hằn cả vết răng vừa như một cách đánh dấu chủ quyền, vừa là cách Bấc bộc lộ Thooc-tơn về tình cảm sâu nặng mà nó dành cho anh. Hoặc cũng có khi là Bấc muốn nắm lấy đôi bàn tay ấm áp và bao dung của người chủ đáng kính không xa rời.
Nhưng nổi bật hơn cả ngoài những hành động "quá trớn" do quá xúc động thì bình thường Bấc lại dành phần lớn thời gian để dành cho Thooc-tơn thứ tình cảm tôn thờ. Bấc thông minh và biết điều, nó biết ơn người chủ đã ra tay cứu nó khỏi cái chết, cái đói, cái lạnh lẽo, cái mệt mỏi của của sống đày ải ở Alaska, thế nên trong mắt nó có lẽ Thooc-tơn không chỉ là một người chủ mà đích thực là người đã tái sinh cuộc đời của nó thêm lần nữa. Thế nên mọi tình cảm của Bấc chỉ muốn xoay quanh chủ, sống và tôn thờ chủ không rời một phát giây, nhưng nó không dám đòi hỏi quá nhiều, phần lớn thời gian Bấc dùng để yên lặng bên cạnh Thooc-tơn. Không phải là nó không muốn được vuốt ve nhưng nó đã kiềm mình lại để không săn đón tình cảm của Thooc-tơn, nó không muốn chủ của mình thấy phiền chán, dường như ta cảm nhận được bên cạnh một tâm hồn yêu thương, sung sướng cuồng nhiệt là một tâm hồn cẩn thận và có chút dè dặt, tinh tế của Bấc.
Nó luôn biết cách khiến chủ hài lòng, nó luôn ngoan ngoãn, tôn trọng chủ, luôn nằm phục dưới chân Thooc-tơn hàng giờ, "mắt háo hức, tỉnh táo, ngước lên mặt anh, chăm chú xem xét, hết sức quan tâm theo dõi từng biểu hiện thoáng qua, mọi cử động hoặc thay đổi trên nét mặt". Điều đó có thể thấy rằng Bấc vô cùng trân trọng khoảng thời gian được ở bên Thooc-tơn bằng một tâm hồn nhạy cảm, bằng một thứ tình cảm thiêng liêng, gắn bó đặc biệt như một gia đình. Tuy nhiên cuộc sống quá hạnh phúc cũng khiến Bấc trở nên nhạy cảm, lo được lo mất nhiều hơn, bởi nó ý thức được rằng có lẽ không còn ai có thể yêu thương và đối xử với nó tốt như vậy ngoài Thooc-tơn. Thế nên ngay cả trong mơ Bấc vẫn luôn lo sợ về một cuộc sống cô độc, lạnh lẽo sẽ lặp lại lần nữa, điều ấy khiến ta càng thương xót cho một chú chó thông minh nhưng gặp nhiều trắc trở trong cuộc đời.
Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật tài tình, đặc biệt là cách khắc họa nội tâm của một nhân vật đặc biệt - chú chó Bấc, nhân vật không hề có một lời thoại nào John London đã thành công ghi vào lòng người đọc ấn tượng về một chú chó thông minh, ngoan ngoãn,với tâm hồn nhạy cảm, tinh tế. Đồng thời qua đó tác giả đề cao thứ tình cảm vượt qua giới hạn giống loài của Thooc-tơn và Bấc, họ đã đối xử với nhau như những người bạn tri âm, tri kỷ, dành cho nhau những tình cảm thiêng liêng đáng quý, thấu hiểu lẫn nhau tựa như một gia đình.
Phân tích đoạn trích Con chó Bấc - Mẫu 5
Tiếng gọi nơi hoang dã (1903) là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Giắc Lân-đơn. Truyện là kết quả của những chuyến đi cùng với cùng với các nhóm tìm vàng lên tận miền bắc Ca-na-đa gần Bắc cực. Tiếng gọi nơi hoang dã kể về số phận con chó Bấc. Bấc là một chú chó nhà khỏe mạnh tinh khôn. Nó bị bắt cóc đưa lên vùng Bắc cực để kéo xe trượt tuyết cho những người đi tìm vàng. Bấc đã phải qua tay nhiều ông chủ tàn bạo, độc ác. Chỉ có Giôn Thoóc-tơn là ông chủ duy nhất thương yêu nó và cảm hoá được nó. Nhóm tìm vàng của Thoóc-tơn cùng lũ chó tiến sâu mãi vào núi rừng miền Bắc hoang vu, lạnh lẽo. Sống giữa thiên nhiên hoang dại, khắc nghiệt, tiếng gọi của rừng thẳm, của tổ tiên hoang dã cứ thức dậy trong lòng Bấc. Dần dần nó đã trở thành một con chó to lớn hung dữ, ranh ma, chỉ thờ phụng riêng mình Thoóc-tơn.
Nhưng rồi Thoóc-tơn và cả nhóm chết thê thảm trong rừng. Không có gì có thể níu giữ Bấc với con người, nó mãi mãi đi theo tiếng gọi hoang dã của bầy sói rừng và trở thành một con sói thần khủng khiếp. Truyện hấp dẫn người đọc bởi cảnh thiên nhiên miền Bắc hoang dã, khắc nghiệt, dữ dội, đầy bí ẩn, bởi "xã hội" những người đi tìm vận may ở vùng đất bốn mùa tuyết phủ. Một xã hội có cả người mạnh mẽ, tự tin, dũng mãnh và nhân từ như Thoóc-tơn, có cả những kẻ tham lam, ngu xuẩn và độc ác như Han. Nhưng truyện còn đặc biệt hấp dẫn bởi những trang miêu tả đời sống tình cảm loài chó vừa sát thực, vừa sinh động. Do đâu mà tác giả có được những trang miêu tả đời sống "tâm hồn" con chó Bấc như đoạn trích trong sách giáo khoa Ngữ văn 9 chính là do khả năng quan sát tinh tế của nhà văn.
Giắc Lân-đơn không nhân cách hoá các con chó của ông. Ông chỉ miêu tả chúng một cách chính xác, tinh tế, tỉ mỉ. Những biểu hiện tình cảm của các con chó trong đoạn trích là của chung loài chó, nhưng nhà văn, với tài quan sát của mình vẫn thấy chúng khác nhau. Xơ-kít, Ních, Bấc đều yêu mến, trung thành với Thoóc-tơn, nhưng mỗi con có một biểu hiện riêng. Cô ả Xơ-kít thì thích được chủ vuốt ve, âu yếm. Nó "có thói quen thọc cái mũi của nó vào dưới bàn tay của Thoóc-tơn rồi hích, hích mãi cho đên khi được vỗ về". Còn con Ních biểu lộ tình cảm sôi nổi vụng về hơn "thường chồm lên, tì cái đầu to tướng của cu cậu lên đầu gối Thoóc-tơn.
Đặc biệt, mọi hành động, mọi biểu hiện của Bấc được tác giả quan sát và miêu tả vô cùng tỉ mỉ, tinh tường. Dường như Bấc cũng có các cung bậc tình cảm như con người. Khi thì Bấc "bật dậy trên hai chân, miệng cười, mắt long lanh, họng rung lên những âm thanh không thốt nên lời...". Ấy là lúc chú ta sung sướng ngây ngất khi được Thoóc-tơn đùa với nó, mắng yêu nó. Cũng có khi Bấc bộc lộ tình cảm như một đứa trẻ con: "Nó thường hay há miệng ra cắn lấy bàn tay Thooc-tơn rồi ép răng xuống mạnh đến nỗi vết răng hằn vào da thịt một lúc lâu". Ấy là những lúc tình cảm của Bấc dành cho Thoóc-tơn phá bờ tràn ra mãnh liệt. Thật thú vị khi ta đọc những câu miêu tả sự tôn thờ của Bấc đối với Thoóc-tơn. Sự miêu tả ấy đúng hành động của loài chó mà chúng ta thường thấy, nhưng không nhận ra hết ý nghĩa của nó.
Chỉ đến khi đọc đoạn trích Con chó Bấc chúng ta mới hiểu được "loài khuyển mã chí tình" này : "Nó thường nằm phục ở chân Thoóc- tơn hàng giờ, mắt háo hức tỉnh táo nhìn lên mặt anh, chăm chú xem xét, hết sức quan tâm theo dõi từng biểu hiện thoáng qua, mọi cử động hoặc thay đổi trên nét mặt.", và "tình cảm của Bấc ngời lên qua ánh mắt toả rạng ra ngoài". Đặc biệt, tác giả đã hết sức nhạy cảm, tinh tế khi nhận xét : "Bấc không muốn rời Thoóc-tơn một bước. Từ lúc anh ra khỏi lều cho đến lúc anh quay trở về" chính là xuất phát từ nỗi sợ hãi bản năng, như là một dự cảm mơ hồ của Bấc về những nỗi hiểm nguy, về cả cái chết có thể ập đến với ông chủ bất cứ lúc nào.
Đó là nỗi sợ hãi mất Thoóc-tơn (mà sau này là sự thật thê thảm): "Việc thay thầy đổi chủ luôn xoành xoạch từ khi nó đến vùng đất phương bắc đã làm nảy sinh trong lòng nó nỗi lo sợ là không người chủ nào có thể gắn bó lâu dài. Nó sợ Thooc-tơn lại cũng biến khỏi cuộc đời nó như Pê-rôn và Phơ-răng-xoa và hai anh chàng người lai Ê-cốt đã đi qua rồi biến mất trước đây. Ngay cả ban đêm, trong các giấc mơ, nó cũng bị nỗi lo sợ này ám ảnh. Những lúc ấy, nó vội vùng dậy không ngủ nữa, trườn qua giá lạnh đến tận mép lều, đứng đấy, lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ".
Đoạn trích Con chó Bấc thể hiện óc quan sát tinh tế, tài miêu tả loài vật của G. Lân-đơn. Nhưng sức hấp dẫn người đọc của đoạn trích, cũng như của toàn bộ tiểu thuyết Tiếng gọi nơi hoang dã không phải là ở đó mà là con chó Bấc kì lạ làm thức dậy trong lòng ta những tình cảm con người trong sáng vị tha. Ai có lòng thương yêu bao dung loài vật chân thành, người đó ít có khả năng làm điều ác, sẽ sống cao đẹp, lương thiện với con người.