Phân tích 4 câu đầu Chí khí anh hùng trích Truyện Kiều của Nguyễn Du gồm 3 bài văn mẫu hay. Qua đó giúp các bạn lớp 10 có thêm nhiều gợi ý tham khảo, biết được hướng giải quyết vấn đề nêu ra trong đề bài. Từ đó nhanh chóng biết cách viết bài văn hay, hoàn chỉnh.
Qua 4 câu thơ đầu đoạn trích Chí khí anh hùng giúp chúng ta cảm nhận được nỗi khổ mà những người phụ nữ phải chịu trong thời kỳ phong kiến xưa cùng hình ảnh người anh hùng phải hi sinh thân mình, tình cảm đôi lứa riêng tư để sống vì đất nước. Vậy sau đây là 3 bài văn mẫu phân tích 4 câu thơ đầu, mời các bạn cùng đón đọc.
Phân tích 4 câu đầu bài Chí khí anh hùng hay nhất
Phân tích 4 câu đầu Chí khí anh hùng - Mẫu 1
Truyện Kiều là kiệt tác của nền văn học Việt Nam. Nguyễn Du đã rất thành công khi xây dựng nhân vật Thúy Kiều nhưng phải đến khi Từ Hải xuất hiện người đọc mới thấy đây là hình tượng nhân vật lí tưởng gửi gắm ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường. Đoạn trích “Chí khí anh hùng” cho ta cái nhìn chân thực nhất về vẻ đẹp của người anh hùng Từ Hải
Từ Hải xuất hiện vào lúc Thúy Kiều chán chường, tuyệt vọng, đau khổ tột cùng khi lần thứ hai bước chân vào lầu xanh. Chàng giống như một vị cứu tinh, cứu vớt cuộc đời Kiều, hơn hết đó là tri kỉ gặp tri kỉ để được tri âm. Từ Hải đã nhận ra phẩm chất cao quý của Thúy Kiều và ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên Kiều đã thầm khẳng định Từ Hải là người duy nhất có thể tát cạn bể oan cho mình. Hai người, một là gái giang hồ, một đang làm “giặc”, đều thuộc hạng người bị xã hội phong kiến khinh rẻ nhất, đã đến với nhau tâm đầu ý hợp trong một mối tình tri kỉ. Từ Hải đánh giá Kiều rất cao, còn Kiều nhận ra Từ là đấng anh hùng. Nhưng tình yêu không thể giữ chân Từ Hải được lâu. Đã đến lúc Từ Hải ra đi để tiếp tục tạo lập sự nghiệp. Đoạn trích này cho thấy chân dung Từ Hải sắc nét và chân thực nhất với chí khí của một anh hùng trong thiên hạ.
Trước sau đối với Từ Hải, Nguyễn Du vẫn dành cho chàng thái độ trân trọng và kính phục, ở chàng, nhất cử nhất động đều thể hiện rõ chí khí, cốt cách anh hùng. Cuộc hôn nhân hạnh phúc với Thúy Kiều không làm chàng mải mê mà quên đi nghiệp lớn. Dù thời gian không quá dài, sáu tháng vui hưởng hạnh phúc bên Thúy Kiều, Từ Hải đã lại động lòng bốn phương, dứt khoát lên đường, tiếp tục sự nghiệp lớn lao đang còn dang dở:
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.
Từ Hải được tác giả miêu tả là con người đa tình, nhưng trước hết Từ Hải là một tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ. Chí là mục đích cao cả hướng tới, khí là nghị lực để đạt tới mục đích, ở con người này, khát khao được vẫy vùng giữa trời cao đất rộng như đâ trở thành một khát vọng bản năng tự nhiên, không có gì có thể kiềm chế nổi.
Dù Nguyễn Du không nói cụ thể là Từ Hải ra đi làm gì nhưng nếu theo dõi mạch truyện và những câu chàng giải thích để Thúy Kiều an lòng thì người đọc sẽ hiểu cả một sự nghiệp vinh quang đang chờ chàng ở phía trước. Từ Hải không phải là con người của những đam mê thông thường mà là con người của sự nghiệp anh hùng. Chữ “trượng phu” trong
Truyện Kiều chỉ xuất hiện một lần dành riêng đã nói về Từ Hải. Điều đó cho thấy Nguyễn Du dựng lên chân dung người anh hùng lí tưởng là Từ Hải. Chữ “thoắt” thể hiện quyết định nhanh chóng, dứt khoát của chàng. Bốn chữ “động lòng bốn phương” nói lên được cái ý Từ Hải “không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương”. (Hoài Thanh). Con người phi thường như chàng chẳng thể giam hãm mình trong một không gian chật hẹp. Một thanh gươm, một con tuấn mã, chàng lên đường hoàn thành sự nghiệp và cũng chính là hoài bão lớn nhất của cuộc đời. sự kiên định, vững vàng trong tư thế ra đi ngạo nghễ, hiên ngang ấy là bởi khát vọng tự do luôn sôi sục trong tâm trí của người anh hùng.
Trong cảnh tiễn biệt, tác giả tả hình ảnh Từ Hải: thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong trước rồi mới đế cho Từ Hải và Kiều nói những lời tiễn biệt. Có người cho rằng nếu như vậy thì Thúy Kiều còn nói sao được nữa? Chàng ngồi trên yên ngựa mà nói những lời tiễn biệt với Thúy Kiều. điều đó đã hiện được sự quyết đoán và cốt cách phi thường của Từ Hải.
Qua phân tích 4 câu thơ đầu trong đoạn trích Chí khí anh hùng để để cho ta thấy nỗi khổ mà những người phụ nữ phải chịu trong thời kỳ phong kiến xưa cùng hình ảnh người anh hùng phải hy sinh thân mình, tình cảm đôi lứa riêng tư để sống vì đất nước.
Phân tích 4 câu đầu bài Chí khí anh hùng - Mẫu 2
Truyện Kiều là truyện thơ kinh điển trong nền văn học Việt Nam. Nó xuất sắc không chỉ bởi ngôn ngữ nghệ thuật, mà còn nhờ ý nghĩa nội dung độc đáo, sâu sắc. Qua đó, Nguyễn Du đã phản ánh hiện thực xã hội phong kiến đương thời – xã hội phong kiến cổ hủ, thối nát đã vùi dập ông – hay nàng Kiều và vô vàn những số phận tài hoa khác. Chính vì vậy Truyện Kiều thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Việc đưa Từ Hải vào như một nét sáng tạo trong cốt truyện, để Nguyễn Du đã làm sáng lên hình ảnh của những bậc anh hùng thời bấy giờ - con người tài năng và ý chí san phẳng mọi bất bình, vươn lên bởi nghĩa khí và tài năng cá nhân. Hình ảnh nhân vật Từ Hải được thể hiện rõ nét nhất qua đoạn trích Chí khí anh hùng.
Xem thêm: Phân tích bài Chí khí anh hùng
Rơi vào lầu xanh lần thứ 2, Kiều gặp Từ Hải và được cứu vớt ra khỏi cuộc sống tủi nhục. Hai người đến với nhau bởi sự hòa hợp về tâm hồn, để rồi :
“Trai anh hùng gái thuyền quyên
Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng“
Từ Hải có tâm hồn cao thượng và đậm chất thơ, nhưng chàng mang cốt cách của một kẻ ngang tàng hào phóng, tình cảm và lí tưởng thống nhất chứ không đồng nhất, bởi vậy mà:
“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”
Người đời nói rằng anh hùng chí ở bốn phương, Nguyễn Công Trứ lại có câu ‘Chí làm trai nam bắc đông tây/ Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể’.
Có lẽ chính chế độ phong kiến đã tách Từ Hải ra khỏi Kiều – bởi chính chế độ ấy đã đem tư tưởng nam nhi áp đặt lên đầu chàng. Nhưng cũng chính tư tưởng ấy khiến chàng bảo vệ nàng, tạo nên nét riêng của chàng.
“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”
Trong xã hội phong kiến,đã làm thân nam nhi phải có chí vẫy vùng giữa trời đất cao rộng.Tác giả dùng từ “trượng phu” để chỉ Từ Hải (đây là lần duy nhất tác giả dùng từ này). ”Trượng phu” nghĩa là người đàn ông có chí khí lớn. Từ “thoắt” nghĩa là nhanh chóng trong khoảnh khắc bất ngờ. Đó là cách xử sự bất thường,dứt khoát của Từ Hải. Nếu là người không có chí khí, không có bản lĩnh thì trong lúc hạnh phúc vợ chồng đang nồng nàn người ta dễ quên những việc khác. Nhưng Từ Hải thì khác, ngay khi đang hạnh phúc, chàng “thoắt” nhờ đến mục đích, chí hướng của đời mình . Tất nhiên chí khí đó phù hợp với bản chất của Từ Hải, hơn nữa, Từ Hải nghĩ thực hiện được chí lớn thì mới xứng đáng với niềm tin yêu và trân trọng mà Thúy Kiều dành cho mình. Có thể nói trong đoạn trích này, Nguyễn Du đã xây dựng một hình tượng nhân vật Từ Hải hoàn toàn mới so với hình tượng nhân vật này trong “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, ở “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, hình tượng Từ Hải giống như một tướng cướp đã bị lược bỏ, thay vào đó là một hình tượng Từ Hải như một vị anh hùng tuyệt đẹp, phi thường.
Hình tượng này là sự hợp nhất của hình tượng nhân vật có tính ước lệ – là nghệ thuật miêu tả nhân vật đặc sắc của Nguyễn Du và hình tượng con người vũ trụ với nét vĩ đại, lớn lao. Chàng đã chuẩn bị sẵn tinh thần để không lưu luyến, bịn rịn, vì chàng là một nam tử hán, ‘nam nhân thà rơi máu chứ không rơi lệ’. Chí khí ấy, thật đáng nể phục biết bao… Nhưng chính vì nó mà Kiều và Từ Hải phải xa nhau khi tình yêu đang nồng thắm , cũng có nghĩa là chính xã hội phong kiến và những tư tưởng cũ đã lấy đi hạnh phúc lứa đôi của nàng. Qua phân tích 4 câu thơ đầu trong đoạn trích Chí khí anh hùng đã làm sáng tỏ lên điều đó.
Phân tích 4 câu đầu bài Chí khí anh hùng - Mẫu 3
Có một nhà thơ mà người Việt Nam không ai là không biết đến. Có một truyện thơ mà hơn 200 năm qua không mấy người Việt Nam không thuộc vài câu hay vài đoạn. Người ấy, thơ ấy đã từng được Tố Hữu ngợi ca:
“ Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu”
Không ai khác đó chính là Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều. Mỗi một đoạn, mỗi câu thơ đều là “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” mà thi gia dầy công chắp bút. Đằng sau số phận cuộc đời nhân vật đều được gửi gắm biết bao giá trị nhân đạo sâu sắc. Đó là niềm trân trọng nâng niu ước mơ khát vọng con người. Đó là tiếng nói lên án tố cáo những thế lực xấu xa đứng đằng đằng sau. Và hơn thế nữa nó phản ánh chân thực giấc mơ tự do công lí mà đoạn trích – bài thơ “Chí khí anh hùng” chính là tiêu biểu nhất cho điều này.
Sau tháng ngày ân ái bên Thúc Sinh, Kiều lại một lần nữa sa thân vào chốn lầu xanh nhơ nhớp, một lần nữa quay trở lại với Tú Bà để sống thân phận của người kĩ nữ hèn mọn. Cứ tưởng rằng, cuộc đời nàng đã đặt một dấu chấm hết trong tối tăm và đầy rẫy những bất hạnh. Thế nhưng, giữa cơn phong ba, Từ Hải bỗng dưng “vụt đến như một ngôi sao lạ chiếu sáng một đoạn đời nàng” (Hoài Thanh). Chàng chuộc Kiều ra, trả lại cho Kiều sự tự do xứng đáng. Hai người họ đến bên nhau với tấm lòng của những bậc tri kỉ giữa “trai anh hùng’’ và “gái thuyền quyên”. Nhưng hạnh phúc chưa được bao lâu, thì cái “thói vẫy vùng” của bậc giang hồ lại được dịp sục sôi,cái khát khao dựng nên nghiệp lớn bỗng thúc dục mạnh mẽ bước chân người anh hùng. Đoạn trích chính là miêu tả cảnh Từ Hải từ biệt Thúy Kiều để ra đi. Khác với Thanh Tâm Tài Nhân trong “Kim Vân Kiều truyện” chỉ thuật lại trong đôi ba dòng ngắn ngủi “Từ Hải sắm một căn nhà ở với Kiều được năm tháng rồi từ biệt ra đi” thì Nguyễn Du với bút xuất chúng của mình đã dựng nên một cảnh li biệt giữa đôi trai gái để hoàn thiện giấc mộng anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất” lớn nhất của cuộc đời mình.
Xem thêm: Phân tích nhân vật Từ Hải trong bài Chí khí anh hùng
Bốn câu thơ đầu khắc họa thật đậm, thật rõ nét hình ảnh của Từ Hải trước lúc lên đường:
“Nửa năm hương lửa đương nồng
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.
Nguyễn Du đã làm khó bậc anh hùng khi đặt chàng trong hai khoảng không gian đối lập nhau. Một bên là không gian khuê phòng với “hương lửa đương nồng” với tình cảm lứa đôi đầy những cám dỗ, có thể níu kéo bất kì một người đàn ông nào. Trái lại, một bên là không gian vũ trụ bao la có sức vẫy gọi mãnh liệt. Đường đường là đấng “trượng phu” Từ không một phút níu kéo giằng xé hay do dự mà khẳng khái đưa ra quyết định của chính mình. Chàng vốn sinh ra không phải là con người của những đam mê thông thường mà là người của những sự nghiệp vĩ đại- sự nghiệp của bậc anh hùng. Hiểu thấu được khát khao ấy, Nguyễn Du đã trân trọng gọi nhân vật của mình bằng hai tiếng “trượng phu” – người đàn ông có trí lớn .Rõ ràng, hai chữ này chỉ xuất hiện duy nhất một lần trong truyện Kiều và dành riêng cho Từ. Thứ tình cảm vợ chồng giản đơn đâu thể nào níu giữ bước chân người anh hùng thêm nữa. Tiếng gọi của lí trí thúc dục chàng đi theo đuổi và thực hiện hoài bão của cuộc đời. Cái ánh mắt trông vào “trời bể mênh mang” là ánh nhìn hướng đến một khoảng không gian xa hơn rộng hơn nơi mà bậc hào kiệt thỏa trí vẫy vùng với những đam mê, lí tưởng. Hình ảnh cuối cùng “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” không chỉ tái hiện hình ảnh con người mạnh mẽ, hào hùng đặt trên nền kì vĩ của không gian mà còn mở ra tâm thế nhân vật không hề có một chút nào là do dự luôn hành động thật dứt khoát, quả quyết. Đến đây, ta chợt bắt gặp những điểm tương đồng trong thơ Nguyễn Du với các nhà thơ cùng thời. Là hình ảnh chinh phu oai hùng trước buổi ra trận:
“Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao”
Hay như:
“Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt
Xếp bút nghiên theo việc binh đao
Dã nhà đeo bức chiến hào
Thét roi cầu vị ào ào gió thu”
(Chinh phụ ngâm Đoàn Thị Điểm)
Cả Nguyễn Du và Đoàn Thị Điểm đều mượn hình ảnh vốn của thiên nhiên vũ trụ để nâng cao tầm vóc, kích thước nhân vật anh hùng của mình. Thế nhưng, nếu “chí làm trai” trong những câu thơ của “chinh phụ ngâm” là lập nên sự nghiệp là lưu danh, lập công với núi sông thì với “chí anh hùng” lập nên sự nghiệp lại là để yên bề gia thất. Có thể nói đúng như những lời nhận định của Hoài Thanh “Từ Hải hiện ra trong bốn câu đầu không phải người của một nhà, một họ, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương…” chỉ bằng ngòi bút xuất thần của thi nhân cùng với cái nhìn đầy trân trọng ngưỡng mộ dành cho nhân vật. Lời thơ tuy ít mà ý thơ thì trải ra đến vô cùng.