Văn mẫu lớp 11: Vẻ đẹp thiên nhiên và con người trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử mang đến 2 gợi ý cách viết và 8 bài văn mẫu ngắn gọn, hay nhất. Qua đó giúp các bạn học sinh lớp 11 biết cách cảm nhận, phân tích hay.
Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ rất hay đã mượn hình ảnh thiên nhiên, để gột tả nên tâm trạng một con người đang cô đơn và chờ đợi. Thôn Vĩ chính là một hình ảnh đẹp về một vùng đất của xứ Huế sẽ làm say đắm lòng người, và sẽ làm mê mẩn những tâm hồn thi sĩ. Bên cạnh đó các bạn xem thêm cảm nhận khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ, phân tích 2 khổ thơ đầu Đây thôn Vĩ Dạ.
Thiên nhiên và con người trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
- Dàn ý hình ảnh thiên nhiên và con người xứ Huế
- Bức tranh thiên nhiên và con người Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 1
- Hình ảnh thiên nhiên và con người trong bài thơ - Mẫu 2
- Bức tranh thiên nhiên trong bài Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 3
- Hình ảnh thiên nhiên và con người trong bài thơ - Mẫu 4
- Hình ảnh thiên nhiên và con người trong bài thơ - Mẫu 5
- Hình ảnh thiên nhiên và con người trong bài thơ - Mẫu 6
- Hình ảnh thiên nhiên và con người trong bài thơ - Mẫu 7
- Hình ảnh thiên nhiên và con người trong bài thơ - Mẫu 8
Dàn ý hình ảnh thiên nhiên và con người xứ Huế
Dàn ý số 1
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Dẫn dắt vấn đề
2. Thân bài
a. Xuất xứ
- Đây thôn Vĩ Dạ được rút ra từ tập Thơ điên. Khi hai người cùng ở Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã từng yêu thầm Hoàng Thị Kim Cúc. Khi về Huế, Hoàng Cúc nghe tin Hàn Mặc Tử bệnh bèn gửi vào tặng Hàn Mặc Tử tấm bưu ảnh phong cảnh và lời chúc sớm lành bệnh. Từ đó, đã gợi cho ông những kỉ niệm một thời từng sống ở Huế và sáng tác bài thơ này.
b Chủ đề
- Từ những kỉ niệm về Huế, nhà thơ đã khắc họa nên bức tranh tuyệt về cảnh vật, con người xứ Huế. Đồng thời, mượn câu chuyện tình đơn phương của mình để kín đáo gửi gắm tình yêu quê hương xứ sở.
c. Phân tích
Khổ 1: Bức tranh tuyệt đẹp về cảnh vật, con người xứ Huế.
- Bức tranh được hiện lên qua lời mời trong đó hàm chứa sự trách móc mà thân thiết:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
- Cảnh vật hiện lên qua vài nét phác họa nhẹ nhàng, duyên dáng, đầy ấn tượng của màu xanh như ngọc của ánh sáng tinh khôi buổi ban mai.
- Cuối cùng là nét chấm phá độc đáo tương phản giữa cái vuông vức của khuôn mặt chữ điền với chiếc lá trúc che ngang, gợi lên nét tinh nghịch mà dịu dàng, dễ thương vốn dĩ ở thôn quê.
Khổ 2: Cảnh buồn qua cái nhìn đầy nội tâm.
- Cảnh đẹp và thơ mộng, nhưng lay lắt buồn bã trong cảm giác chia lìa bằng hình thức thơ độc đáo: Gió theo lối gió / mây đường mây. Dòng sông như tấm gương ghi nhận hình ảnh chia lìa đó, nên buồn thiu, hoa bắp cúng lay lắt buồn thiu, chia sẻ với tâm trạng nhà thơ.
- Trăng chiếm một dung lượng khá lớn trong thơ Hàn Mặc Tử và ánh trăng thật kì lạ, khác thường. Ta từng gặp trong thơ của ông, hình ảnh:
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
(Bẽn lẽn)
- Câu phiếm định: "thuyền ai?", rồi lại "bến sông trăng". Quả thật, đúng như Hoài Thanh viết về Hàn Mặc Tử, trong "Thi nhân Việt Nam" : "Vườn thơ của người rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh".
Khổ cuối: Cảnh vật,con người đều chìm sâu vào mộng ảo.
- Cõi lòng nhà thơ dường như chìm vào mộng tưởng (mơ khách đường xa). Bệnh tật cũng đã khiến nhà thơ rơi vào trạng thái buồn đau ảo giác (nhìn không ra, mờ nhân ảnh). Bởi vậy, con người cảnh vật tất cả đều nhòa mờ trong cô đơn, ngậm ngùi.
Trong cô đơn, ngậm ngùi, trong mộng ảo đau thương, nhưng lòng nhà thơ vẫn cứ âm thầm muốn gửi đến con người, cuộc đời một thông điệp, nó như lời trần tình tội nghiệp:
Ai biết tình ai có đậm đà?
- Ta chưa thể quyết rằng câu thơ ấy thể hiện tình yêu nước của Hàn Mặc Tử đến mức nào. Thế nhưng, chắc chắn rằng Hàn Mặc Tử rất yêu cuộc đời, rất yêu quê hương xứ sở. Ta cũng không ngờ trong tập Thơ Điên lại có những vần thơ đậm đà, chan chứa tình quê đến thế.
3. Kết bài
- Khái quát lại vấn đề
Dàn ý số 2
1. Mở bài
Đây thôn Vĩ Dạ chính là một tình yêu tuyệt vọng đối với cuộc sống. Điều này đã trở thành ngọn nguồn cảm xúc làm nên bài thơ. Cuộc sống trong cái nhìn của Hàn Mặc Tử chính là sự sống nói chung, sự sống thuộc về cảnh sắc thiên nhiên, con người tình yêu đôi lứa.
Vào thời điểm mà Hàn Mặc Tử đang trải qua cơn bạo bệnh, thì như một nghịch lí càng tiến về phía cõi chết, nhà thơ càng yêu cõi sống, yêu một cách cuồng si, đau đớn và tuyệt vọng. Đó chính là một tình yêu lớn đối với sự sống bất tử.
2. Thân bài
1) Vẻ đẹp xứ Huế qua Bức tranh thiên nhiên và con người thôn Vĩ
Câu thơ mở đầu là lời nhà thơ tự hỏi mình, vừa giống như một lời mời của ai đó, vừa như thể thầm trách chính mình. Nhưng ý tứ chính của câu thư thể hiện một niềm khao khát muốn được về thăm thôn Vĩ. Trong cảm xúc của một tình yêu đối với sự sống, thôn Vĩ Dạ được hiện ra thật trong trẻo, thanh khiết. Hình ảnh đậm nhất chính là mảnh vườn của một ngôi nhà thôn Vĩ. Ở đó có hàng cau đang được tắm trong nắng sớm tinh khôi. Câu thơ mang tính tạo hình, rất động. Mảnh vườn được ví với một viên ngọc lớn với hai nét vẽ "mướt quá "và "xanh"- vẻ thanh sạch, và ngời lên một màu xanh mát khi mà ánh nắng của buổi sớm mai toả xuống.
Một nét vẽ nữa là hình ảnh con người thấp thoáng sau rèm trúc. Câu thơ này tồn tại hai cách hiểu: đó là khuôn mặt của những người dân thôn Vĩ hiền lành, trung hậu, gần gũi. Hay đó là khuôn mặt của chính nhà thơ...
Có thể bức tranh thiên nhiên và con người thôn Vĩ này sẽ chia lìa tan tác. Nó không hề là cái Đẹp bất biến, vĩnh hằng. Nó bị xé ra thành những thực thể mà đáng lí phải quấn quýt trong nhau, tồn tại bởi vì nhau. Gió và mây, dòng nước và hoa bắp trên triền sông, thuyền và bến, thuyền với trăng. Sông trăng là một hình ảnh sáng tạo. Từ kịp chứa đầy tâm trạng, lại được đặt trong một câu hỏi tu từ "Có chở trăng về kịp tối nay?", hẳn là một tâm trạng lo âu, mong ngóng, phập phồng niềm hi vọng, một niềm mong nhuốm màu tuyệt vọng, cũng tại bởi yêu quá mà ra thế, yêu đến thắt lòng.
2) Và khao khát một tình yêu
- Linh hồn của bài thơ này phải là tình yêu, mối tình thầm kín, tha thiết và tuyệt vọng của nhà thơ đối với người con gái thôn Vĩ Dạ, tức là một "ai"đó được gọi đến ba lần: Vườn ai, thuyền ai, ai biết tình ai và chỉ một lần duy nhất được gọi bằng em (áo em). Cách gọi phiếm chỉ bằng đại từ "ai"thể hiện một thái độ dè dặt, kín đáo có phần mặc cảm, tự trọng của nhà thơ.
- "Mơ khách đường xa" diễn tả cái ý mơ về, ước mong về một đối tượng được gọi là "khách đường xa kia", tức là cô gái ấy. Các câu thơ tiếp theo thể hiện trạng thái mơ, là cái ảo - mơ nỗi càng cháy bỏng thì hình ảnh trong mơ ước càng có khuynh hướng trở thành ám ảnh: "áo em trắng quá nhìn không ra".
- Câu thơ "ở đây sương khói mờ nhân ảnh" đã mách bảo cho ta một nơi chốn: ở đây, tức là ở trong này, nơi Hàn Mặc Tử đang bị bệnh tật giam cầm đang rất xa cách với không gian ngoài kia, tức nơi Vĩ Dạ và cô gái ấy. Mặc cảm chia lìa lại một lần nữa làm tình làm tội tâm hồn thi sĩ: "Ai biết tình ai có đậm đà?". Câu thơ thật ai oán.
3. Kết bài
Cũng như làng cảnh, sông nước, vầng trăng, con thuyền, bến bãi kia không bao giờ thuộc về thi sĩ, giữa thi sĩ và chúng là một khoảng cách tuyệt vọng, thì với cô gái ấy cũng y như thế. Rơi vào tuyệt vọng nhưng tình yêu không chết ngược lại tình yêu càng trở nên da diết, đau đớn... Một người yêu sự sống, khát sống như thế mà sự sống trong anh đang dần tắt. Vì là tiếng của tình yêu tuyệt vọng, nên Đây thôn Vĩ Dạ mang âm điệu nghẹn ngào, khắc khoải.
Bức tranh thiên nhiên và con người Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 1
Thơ là cây đàn muôn điệu của tâm hồn của nhịp thở con tim, thơ diễn tả rất thành công những cung bậc cảm xúc của con người, niềm vui nỗi buồn, sự cô đơn, tuyệt vọng…. Có những tâm trạng của con người chỉ có thể diễn tả bằng thơ. Vì vậy thơ không chỉ nói hộ lòng mình mà còn là tiếng nói của trái tim về một mối tình dường như vô vọng. Bằng tâm hồn tinh tế của một người nghệ sĩ, cùng với phong cách thơ độc đáo, Hàn Mặc Tử đã rất thành công khi miêu tả cảnh vật Thôn Vĩ Dạ và gửi gắm những tâm tư tình cảm của mình vào thơ. Đọc Đây Thôn Vĩ Dạ Người đọc sẽ thấy rõ được điều đó.
Quả không sai khi nói rằng với người làm thơ, bài thơ chính là phương tiện quan trọng để biểu đạt cảm xúc, chỉ có cảm xúc chân thật mới là cơ sở để làm nên một tác phẩm nghệ thuật chân chính. Cảm xúc mãnh liệt trong bài thơ có sức ám ảnh trái tim người đọc mang trong mình sứ mệnh cao cả của người cầm bút. Khi sáng tạo nghệ thuật Hàn Mặc Tử đã không ngừng tìm tòi xây dựng phong cách, hướng đi cho riêng mình. Với những đóng góp đó, ông đã khẳng định được vai trò và vị trí của mình trong nền văn học nước nhà, cũng chính là một trong ba đỉnh cao của phong trào thơ mới, là một hiện tượng Thơ rất lạ. Hồn thơ mãnh liệt luôn chất chứa sự mâu thuẫn giữa thể xác và tâm hồn vì những đau đớn vì bệnh tật nên ông luôn khát khao sống, khát khao được giao hòa, giao cảm với cuộc đời. Và tiêu biểu cho phong cách thơ của Hàn Mặc Tử có thể kể đến Đây Thôn Vĩ Dạ, đây là bài thơ được sáng tác năm 1938 lấy cảm hứng từ một mối tình của Hàn Mặc Tử với cô gái Huế tên là Hoàng Cúc, tác phẩm được in trong tập “thơ Điên” sau đó đổi thành “đau thương” xuất bản năm 1940. Đây là một bài thơ rất hay viết về thiên nhiên xứ Huế và ẩn sâu trong đó là tâm trạng bâng khuâng, một khát khao hạnh phúc của thi sĩ đa tình.
Mở đầu bài thơ là cảnh vật và con người thôn Vĩ, được gọi về từ những hoài niệm xa xăm và cũng tha thiết nhớ mong của tác giả
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
vườn ai mướt quá xanh như ngọc
lá trúc che ngang mặt chữ điền”
đoạn thơ được mở đầu bằng câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” câu hỏi đó có lẽ là sự phân thân của nhà thơ, nhà thơ hóa thân vào cô gái Huế để hờn dỗi, nhưng ẩn giấu đằng sau ấy là cả một lời mời rất chân thành, nhà thơ sử dụng từ “chơi” chứ không sử dụng từ “thăm”, bởi nếu sử dụng từ thăm thì cấu trúc của câu thơ không thay đổi, nhưng nó trở nên khách sáo, sang trọng. Còn từ “chơi” gợi lên sự thân mật, gần gũi. Mặt khác câu hỏi tu từ này cũng là nhà thơ đang tự hỏi mình, tự trách chính mình. Cảnh Huế đẹp vậy mà sao anh không về chơi? Đó là một câu hỏi lớn, khắc khoải bởi giờ đây trở về Huế chỉ còn là một niềm khát khao. Có lẽ khi viết bài thơ này, nhà thơ đang ở giai đoạn cuối của bệnh phong nên ông chỉ có thể trở về thôn Vĩ trong tâm tưởng, thế nhưng dù là trong tâm tưởng thì cảnh thiên nhiên xứ Huế vẫn rất đẹp và lung linh
“nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Bức tranh phong thủy xinh xắn và thơ mộng được hiện lên với vẻ đẹp lộng lẫy, tinh khôi. Cảnh sắc được chiêm ngưỡng từ xa đến gần “nhìn nắng hàng cau nắng mới lên” điệp từ “nắng” đã tái hiện lên trước mặt người đọc một khung cảnh đầy ánh sáng, nhắc đến thôn Vĩ hình ảnh đầu tiên hiện lên trong tâm trí nhà thơ đó chính là những hàng cau với thân hình thẳng tắp, tán lá xanh tươi. Những hàng cau đó mang lại vẻ đẹp đặc trưng cho thôn Vĩ, cau còn lại là loài cây thân thuộc với làng quê Việt Nam với phong tục ăn trầu từ ngàn đời. Trong thơ của Nguyễn Bính có câu
Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng”
Ở đây trong thơ của Hàn Mặc Tử hình ảnh hàng cau còn có chi tiết rất khó quên, đó là hình ảnh của Hàng cau trong nắng mới, tán cau, thân cau đều được tắm mình trong nắng sớm, những giọt sương đêm còn đọng lại trở nên lấp lánh, đầy sức sống. Vườn cây thôn Vĩ xanh tốt đến mức khách ở xa về cũng phải trầm trồ
“vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
vườn ai không xác định nhưng có lẽ là vườn của cô gái Huế người mà nhà thơ vẫn luôn đợi mong, tính từ “mướt” được sử dụng rất tinh tế, diễn tả sức sống của cảnh vật “xanh như ngọc” tạo được sự quyến rũ, đồng thời nó còn tạo cho thiên nhiên nơi đây sự rạo rực trẻ trung và góp phần làm cho cảnh sắc trở nên tươi đẹp hơn, và hoàn hảo hơn khi có mặt của con người. Lá trúc che ngang mặt chữ điền, Vĩ Dạ nổi tiếng với màu xanh của trước một loại cây được trồng trước ngõ, trong tâm tưởng của nhà thơ bất chợt hiện lên mặt chữ điền lấp ló sau hàng trúc, lá trúc thì mảnh mai, mặt chữ điền gợi lên sự vuông vắn, phúc hậu… Tất cả tạo nên sự hài hòa giữa thiên nhiên của con người, Đồng thời qua đó người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của sự kín đáo, e ấp đầy thiếu nữ rất Huế.
Nếu ở khổ thơ thứ nhất, nhà thơ nhìn cảnh vật bằng sự lạc quan, yêu đời thì đến khổ thơ thứ hai đã có sự đổi khác, đó chính là sự mặc cảm về sự chia lìa xa cách, đến khổ thơ này Hàn Mặc Tử đã độc tả cảnh trời mây sông nước có một chút hoài niệm, bâng khuâng
“gió theo lối gió mây đường mây
dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
đó là hình ảnh của dòng sông Hương đang lững lờ chảy mà Hoàng Phủ Ngọc Tường gọi là điệu slow tình cảm dành cho Xứ Huế. Hai bên bờ là những vườn bắp với những bông hoa nhẹ nhàng, lay động thật nganh trái và trớ trêu khi ở trên cao là gió theo lối gió mây đường mây. Trong thực tế ta thấy rằng gió có thổi thì mây mới có thể bay. Đây là hai sự vật không thể tách rời, nhưng trong thơ của Hàn Mặc Tử hai chữ chia lìa vẫn đến, nó đến với cả những thứ tưởng chừng như không thể, dòng nước buồn thiu như mang trong mình một tâm trạng thiên cổ. Phải chăng đó là lúc tâm cảnh đã hướng vào ngoại cảnh bao phủ khắp cảnh vật
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Vẫn là dòng sông Hương, là xứ Huế thơ mộng nhưng không còn là nắng, không còn trời xanh mà trước mắt người đọc không gian tràn ngập ánh trăng
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Hai câu thơ mang đầy màu sắc đặc trưng siêu thực của phương tây. “Thuyền ai ?” phải là thuyền của cô gái Huế, con thuyền mà nhà thơ khao khát chờ mong, “tối nay” phải chăng là giới hạn cuối cùng khi nhà thơ đang chạy đua với thời gian, với sự mong ngóng đầy khắc khoải. “Có chở trăng về kịp tối nay?” nhà thơ như ý thức được rằng nếu trăng không về kịp thì nhà thơ sẽ vĩnh viễn chìm vào thế giới đau đớn, tuyệt vọng. Nỗi hoài nghi, khắc khoải của nhân vật trữ tình được tô đậm hơn nhịp thơ 3/ 4 cùng ngữ điệu “đường xa” được lặp đi lặp lại thể hiện sự gấp gáp vội vàng
“mơ khách đường xa khách đường xa
áo em trắng quá nhìn không ra”
Từ “mơ” nằm ở đầu câu giống như trở nên khắc khoải hơn bao giờ hết, mong mãi không được nên có lẽ nhà thơ phải mơ cho bớt nỗi cô đơn. Khách đường xa với màu áo trắng khiến nhà thơ choáng ngợp, nhìn không ra màu trắng, tưởng như bình thường nhưng lại gợi lên sự khác thường nó không chỉ dùng để gợi tả cảm xúc mà còn gợi cả cảm giác “trắng quá” là sự cực về màu sắc, tượng trưng cho vẻ đẹp tuyệt bích. Nhân vật “em” xuất hiện cùng với sắc “trắng quá” khiến cho câu thơ trở nên chan chứa, cảm xúc dường như con người ta càng hi vọng sẽ dễ rơi vào thất vọng, bởi những thứ nằm ngoài tầm với.
Đến hai câu thơ cuối của bài, nhà thơ đã lý giải cho việc nhìn xa ấy
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”
Ở đây chính là thế giới hiện thực đầy đau đớn, đối lập với thế giới ngoài kia sự sống sương khói mờ nhân ảnh là thế giới ảo ảnh của những thứ ám ảnh bởi chính nhà thơ đang cầm chiếc vé đợi tàu đi vào cõi chết. Và trong những giây phút tuyệt vọng nhà thơ lại mong tìm được hơi ấm tình người, lại phải cất lên một câu hỏi đầy hoài nghi “Ai biết tình ai có đậm đà?” câu hỏi như một tiếng kêu đau đớn mang một nỗi buồn vô vọng của nhà thơ. Với những biện pháp tu từ, nhân hóa so sánh, thủ pháp liên tưởng cùng với câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ, Hàn Mặc Tử đã khắc họa trước mắt ta một khung cảnh nên thơ, đầy sức sống và ẩn sâu trong đó chính là tâm tình của tác giả.
Bài thơ đã khép lại nhưng mỗi lần đọc lại tác phẩm ta vẫn như trông thấy được sự khắc khoải đau đớn của nhà thơ ẩn trong khung cảnh thiên nhiên tuyệt bích của thôn Vĩ Dạ, có lẽ đó chính là lý do vì sao dù ra đời đã lâu nhưng tác phẩm vẫn giữ nguyên được giá trị, vẫn có sức hấp dẫn với bạn đọc nhiều thế hệ.
Hình ảnh thiên nhiên và con người trong bài thơ - Mẫu 2
Đây thôn Vĩ Dạ bề ngoài mang dáng vẻ rất cổ điển. Thể thơ, chất thơ và cấu tứ thoạt nhìn chẳng có gì mới. Hình thức thơ thất ngôn cùng với những chất liệu khá quen thuộc: nắng - hàng cau, lá trúc - mặt chữ điền, gió - mây, nước - hoa, thuyền - bến, sông - trăng. Ngay cả cách cấu tứ đi từ cảnh sang tình cũng dễ làm cho người đọc có cảm giác bài thơ chẳng qua là sự nới giãn của thể thơ Đường. Tuy nhiên, đi vào chiều sâu mạch ngầm bên trong bài thơ, những khuôn khổ mực thước ấy hoàn toàn bị phá vỡ.
Cái gọi là tình quê hay tình yêu thủy chung ta thường thấy trong các lời bình xưa nay đều chỉ là sự ngộ nhận biến hồn thơ độc đáo của Hàn Mặc Tử thành thứ khuôn sáo của thi ca một thời. Sự nổi loạn trong thi pháp thơ Hàn Mặc Tử trước tiên thể hiện ỡ phương thức cấu trúc đặc biệt. Mạch thơ không phát triển theo cái logic nhất quán, tự nhiên của cảm xúc, mà có sự biến đổi bất ngờ giữa ba cảnh thơ trong ba khổ thơ tưởng chừng chẳng liên lạc gì với nhau chứng tỏ những đột biến của cõi vô thức, bất chợt và mông lung. Cảnh và người trong bài thơ chỉ mang một phần hoài niệm về một thời quá vãng, còn lại chỉ là những ảo giác siêu hình, bảng lảng đâu đó trong sương khói của tâm linh.
Cảnh thơ thứ nhất hiện ra khá rõ nét, đẹp với vẻ đẹp cổ điển. Ánh nắng mặt trời và hàng cau hóa thân làm một bởi phép tỉnh lược động từ: nắng hàng cau. Trời đất giao hòa, vườn thôn Vĩ như cô gái dậy thì, mướt, xanh như ngọc hứng lấy từng giọt ánh sáng long lanh. Giữa lá trúc và mặt chữ điền là một sự phối hợp mang tính chất biểu trưng: vừa quý phái sang trọng, vừa dân dã bình dị tạo nên cốt cách văn hóa của con người xứ Huế. Sự tinh khôi của đất trời và trong trẻo của lòng người trong cảnh thơ ấy có lẽ là dư âm kỷ niệm của một thời Gái quê với mối tình đầu hồn nhiên trong trắng.
Cảnh thơ thứ hai nhòe dần, chìm dần trong ảo giác, các chất liệu thi ca bứt phá ra ngoài khuôn khổ cấu trúc của thi ca cổ. Tứ thơ mở ra toàn những nghịch lý trái lẽ tự nhiên. Quan hệ giữa gió và mây, giữa thuyền và bến, giữa sông và trăng không còn là quan hệ gặp gỡ, gắn bó nữa mà chỉ thấy sự đối lập, phân ly. Không phải gió thổi mây bay mà gió theo lối gió, mây đường mây, cắt không gian làm hai mảnh. Nước chảy hoa trôi hóa thành dòng nước buồn thiu hoa bắp lay: nước vẫn chảy xuôi, còn hoa hững hờ như mảnh hồn cô độc không biết trôi dạt về đâu. Câu ca dao: thuyền về có nhớ bến chăng... chỉ còn là tiếng vọng mơ hồ, xa xăm: con thuyền đang chở trăng về bến nhưng còn lạc lõng tận phương trời nào. Cuộc hạnh ngộ của mối tình đầu đang biến thành xa xôi cách trở. Kỷ niệm của một thời chỉ còn là trầm tích của tương tư, nó đang bị phá vỡ ra từng mảng bởi thực tại bẽ bàng, ngang trái của duyên phận. Cảnh thơ thứ ba toàn màu trắng, cái trắng của một giấc mơ sau hàng loạt những xung động bất thường. Ai đó vừa là khách vừa là em xuất hiện trên con đường đầy sương khói. Điệp ngữ khách đường xa làm cho con đường như dài thêm ra và mở toang thành không gian vô bờ bến. Người chỉ còn là cái bóng. Sương trắng, áo trắng, hai thứ màu trắng hòa vào nhau. Cái nhân ảnh của kỷ niệm đang vỡ tan ra cùng sương khói. Cái màu trắng của ảo giác rất hư vô này đã đẩy thơ Hàn Mặc Tử đến bến bờ siêu thực: trắng như tinh, trắng rợn mình... Với Hàn Mặc Tử, đấy phải chăng là cái Thượng thanh khí của một tình yêu đang sắp được thăng hoa vào một cõi xa xôi nào đó.
Đây thôn Vĩ Dạ kết tụ bao nhiêu biến động của cuộc đời trần thế để rồi tan ra trong không gian vĩnh cửu, vô thường.
Bức tranh thiên nhiên trong bài Đây thôn Vĩ Dạ - Mẫu 3
Hàn Mặc Tử được biết đến là một nhà thơ có sức sáng tạo mãnh liệt với phong cách "điên", có đôi khi là vượt ra khỏi thế giới hiện thực, tràn ngập mộng mị. Tuy nhiên sáng tác của ông vẫn có những vần thơ về thiên nhiên mượt mà, đẹp tươi như rọi vào lòng người đọc xúc cảm mới. Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" là một bức tranh tuyệt đẹp về cảnh vật, thiên nhiên xứ Huế mộng mơ. Bức tranh ấy neo đậu trong lòng nhà thơ và neo lại trong lòng người đọc nhiều dư âm.
"Đây thôn Vĩ Dạ" là bài thơ được ghi sau một bức ảnh được gửi từ người con gái xứ Huế. Khi ấy Hàn Mặc Tử đang ở Quy Nhơn dưỡng bệnh. Nỗi nhớ mong, hoài niệm về con người và thiên nhiên xứ Huế, Hàn Mặc Tử đã viết bài thơ tuyệt đẹp này.
Thiên nhiên trong bài thơ "Đây thôn Vỹ Dạ" dường như cũng mang nhiều gam màu, nhiều cung bậc lẫn lộn trong chính cảm xúc của nhà thơ.
Mở đầu bài thơ là lời trách móc nhẹ nhàng, tình tứ người "khách xa" sao lâu nay không về Huế chơi:
Sao anh không về chơi thôn Vỹ
Tứ thơ thật đẹp, thật tinh tế và ẩn chứa nội dung sâu xa. Nỗi nhớ về Huế được tác giả gửi gắm qua lời trách yêu nhẹ nhàng này. Hàn Mặc Tử đã dẫn dụ người đọc khám phá một bức tranh xứ Huế nhiều nét đẹp riêng.
Sau lời trách móc ấy, một bức tranh thiên nhiên tươi sáng, tràn đầy sức sống hiện ra:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọ
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Bức tranh thiên nhiên xứ Huế vào buổi sáng ban mai tinh khôi, trong lành. Ánh nắng đầu ngày luôn tinh khôi, tràn đầy sức sống nhất. Dường như ánh nắng đang lên cao trên những hàng cau dài thẳng tắp. Từ "nắng" được lặp lại hai lần như nhấn mạnh bầu không khí trong lành nhất ở xứ Huế mộng và thơ. Một khu vườn hiện lên thật xinh xắn và tươi đẹp. "Vườn ai" phiếm chỉ một địa danh cụ thể nào đó nhưng tác giả ẩn ý không nói ra. Màu xanh "như ngọc" của khu vườn khiến cho bức tranh bừng lên sức sống. Không phải xanh non, xanh rì mà là "xanh mướt". Từ "mướt" làm mềm cả câu thơ và khiến cho khung cảnh trở nên hiền dịu và nên thơ hơn
Đến câu thơ cuối dường như hình ảnh con người mới xuất hiện. Mặt chữ điền là khuôn mặt phú hậu, hiền lành của người con trai. Cây trúc biểu tượng cho chí nam chi. Có lẽ có "khách đường xa" nào đã ghé thăm xứ Huế, nhưng chỉ là ghé thăm một cách thầm lặng như vậy.
Qua ngôn ngữ điêu luyện, giọng văn nhẹ nhàng, Hàn Mặc Tử đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên xứ Huế nên thơ nhất. Tuy nhiên sang đến khổ thơ thứ hai thì dường như bức tranh thiên nhiên ở đây đã bắt đầu chuyển màu:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Có một sự chia ly, tan vỡ ở trong hai câu thơ. Mây và gió vốn chung đường nhưng trong thơ Hàn Mặc Tử lại chia lìa đôi ngả. Hình ảnh hoa bắp ven bờ sông hương lay nhẹ rơi rụng xuống mặt nước khiến người đọc liên tưởng đến sự nổi trôi, bấp bênh của một đời người. Thiên nhiên ở đây vẫn đẹp, nhưng đẹp mang nỗi buồn mênh mang và sâu thẳm.
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Xứ Huế với một đêm nên thơ, tràn ngập ánh trăng nhưng dường như tác giả đang thấp thỏm, lo âu điều gì đó. Từ "kịp" khiến cho mạch thơ vỡ ra, vội vàng và gấp gáp hơn. Tác giả đang hỏi ai hay hỏi chính bản thân mình
Và đến khổ thơ cuối thì dường như thiên nhiên đã chuyển sang gam màu khác, mờ ảo, huyền diệu hơn:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ai biết tình ai có đậm đà
Một đêm trăng mờ ảo, sông nước mênh mông khiến tác giả có cảm giác như mọi thứ đang ở trong cõi hư không. Màu trắng bao trùm lấy khổ thơ cuối. Sự mộng mị của cảnh sông nước khiến cho tác giả thấy mình chới với, không có điểm tựa. Câu hỏi cuối cùng của bài thơ là một câu hỏi da diết và day dứt, nó như một điệp âm cứ thổn thức mãi trong lòng tác giả.
Bức tranh thiên nhiên của xứ Huế có sự chuyển biến qua ba khổ thơ theo hướng hư không, mờ ảo dần. Tuy nhiên người đọc vẫn nhận ra được sức sống tràn trề, nét đẹp tinh khôi của một bức tranh thiên nhiên ở Huế.
"Đây thôn Vỹ Dạ" là một bức tranh về xứ Huế vừa tươi đẹp, vừa mộng mơ, vừa huyền ảo khiến người đọc có cảm giác như đang lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh.
Hình ảnh thiên nhiên và con người trong bài thơ - Mẫu 4
Cuộc sống của con người luôn gắn liền với thiên nhiên. Đó chính là những mặt của cuộc sống. Những tâm hồn nghệ sĩ nhiều khi thốt ra thành những bài thơ, câu hát qua những cảnh sắc tươi đẹp của thiên nhiên. Đối với nhiều người thiên nhiên đó chính là người bạn tri kỷ của họ. Để họ quên đi những nỗi cô đơn, muộn phiền trong cuộc sống.
Cảnh sắc thiên nhiên sẽ làm cho họ trở nên vui vẻ, phấn chấn hơn. Ví như nhà thơ Hàn Mặc Tử là điển hình cho một con người luôn bị thiên nhiên lay động, làm nên những bài thơ đẹp về thiên nhiên về cuộc sống.
Bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của ông đó chính là bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”. Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ ta có thể thấy nổi bật lên hình ảnh thiên nhiên và con người xứ Huế mà cụ thể là thiên nhiên con người thôn Vĩ.
Mở đầu bài thơ:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ”.
Một câu thơ vang lên như một sự chờ đợi và nhắn nhủ nhớ mong. Có một chút gì đó buồn tủi và cô đơn, một cái gì đó cảm giác trống vắng. Nhà thơ mong muốn có một ai đó đến đây để có thể ngắm nhìn thôn Vĩ, chiêm ngưỡng thôn Vĩ và trò chuyện cùng mình. Một câu thơ nhẹ nhàng nhưng ẩn chứa tâm tư của một người đang chờ đợi.
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Hình ảnh thôn Vĩ bắt đầu hiện lên. Một vẻ đẹp trong buổi sớm mai rất bình dị với hàng cau, với vườn cây xanh vẫn còn đọng những hạt sương trên lá như ngọc long lanh trong nắng sớm. Một vẻ đẹp tinh khôi, tất cả như đang bừng sáng trong ánh nắng. Thôn Vĩ Dạ như đang khoác trên mình một chiếc áo mới, của một ngày mới rất lung linh và diệu kỳ.
“Nắng hàng cau” là cái nắng dịu nhẹ của bình minh, màu xanh “mướt” như “ngọc” là một màu xanh trong trẻo lung linh khắp cả khu vườn. Tình yêu thiên nhiên, yêu cái thôn “Vĩ”, yêu quê hương của Hàn Mặc Tử đã được bộc lộ một cách sâu sắc.
Chỉ có thể với một người yêu vẻ đẹp quê hương mình đến thế, với tâm hồn thi sĩ vốn có mới có thể thốt nên những câu thơ hay, đẹp và trong sáng đến như vậy. Một vẻ đẹp rất bình dị của một làng quê xứ Huế.
Trong cái khung cảnh bừng tỉnh của một ngày mới đó. Cái tâm hồn của con người cũng bừng tỉnh. Những ấn tượng của cảnh sắc đập vào giác quan. Khiến nhà thơ bật lên một cái gì đó thổn thức, nhớ nhung và mơ hồ. Một hình ảnh của con người xuất hiện trong cái khung cảnh đó.
“Lá trúc chen ngang mặt chữ điền”
Hình ảnh một bóng người thấp thoáng qua hàng trúc với chiếc lá chen ngang. Một con người đẹp, với khuôn mặt chữ điền trong cái phong cảnh tao nhã đó đã xuất hiện. Như có một điều gì đó hòa quyện vào cảnh vật. Không bộc lộ rõ ra, mà chì là một sự lấp ló của khuôn mặt đẹp bị che một phần bởi hình ảnh lá trúc quen thuộc.
Có lẽ đây chính là vẻ đẹp tao nhã mà chỉ có đến với thôn Vĩ Dạ mới cảm nhận được. Một chút gì đó là man mác trong cái khung cảnh bừng sáng của một buổi sáng sớm. Dường như thể hiện hai cảm xúc, trạng thái khác nhau trong cùng một khung cảnh, thấm đẫm lòng người.
Khuôn mặt đẹp, thanh tú kia liệu có phải là một con người thật hay chỉ là một hình ảnh tưởng tượng của nhà thơ về một người bạn tâm giao, một người bạn tri kỷ. Chỉ sau khi đọc những câu thơ tiếp theo chúng ta mới hiểu được, đó là sự nhớ nhung của tác giả về một con người.
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Hai câu đầu của khổ thơ thứ hai là một bức tranh phong cảnh hữu tình, đượm buồn làm thổn thức tâm hồn người. Một sự tả thực nhưng gọi lên cái hồn xứ Huế buồn man mác với gió mây nhè nhẹ bay, với dòng sông nước chảy chậm lững lờ, hàng cây cỏ khẽ đung đưa.
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Âm điệu của câu thơ vang lên buồn bã. Sự sống của cảnh vật có chút gì đó đang lay lắt, mệt mỏi. Khiến người ta nhìn vào cũng cảm thấy mệt mỏi. Nhưng cái sự lay lắt đó không phải là do thời tiết, thiên nhiên. Mà nó do ánh mắt của một con người đang trong nỗi buồn nhung nhớ nhìn vào. Gió thổi, mây bay như một sự vô tâm chẳng hề liên quan. Và một sự xa cách, một sự chia lìa về tình cảm, tình người đã được thể hiện ở hai câu thơ sau.
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Âm điệu buồn bã lại được nhân lên qua một câu hỏi tu từ ở cuối bài thơ.Tả cảnh thực hay là cảnh đã được tâm trạng hoá, bộc lộ nỗi niềm thi nhân. Cái ngược chiều của gió, mấy khơi gợi sự chia lìa đôi ngả của tình đời, tình người, như rạch vào nỗi đau thân phận, sự chia lìa xa cách của chủ thể trữ tình khi viết bài thơ này.
Một hình ảnh sông trăng đã được cách điệu lên, ánh trăng đẹp nhưng như là một sự mơ hồ, ảo ảnh về một người mà tác giả đang chờ đợi. Trong cái khung cảnh buồn thiu, lay lắt kia, dưới ánh trăng soi rọi là một hình ảnh một con thuyền cô độc vẫn đang nằm im, vẫn chưa rời bến. Và như một sự thúc giục, thuyền ơi sao lại nằm im như thế, sao vẫn chưa đi đón người đó cùng với ánh trăng trong cái đêm tối này. Sự cách điệu, nhân hóa, đã khiến cho sự buồn bã và nhung nhớ được tăng lên.
Một sự trông ngóng, một niềm hy vọng đến da diết, nhưng rồi lại có sự hoài nghi với một câu hỏi chưa lời giải đáp. Những câu thơ thể hiện một nỗi niềm thi nhân, trong cái cảnh sắc của mây trời sông nước đang cảm thấy thiếu đi một cái tình đời, tình người cùng chia sẻ tâm sự.
Khổ thơ cuối của bài thơ cất lên, người đọc đã hiểu hơn về người mà tác giả đang nhung nhớ và chờ đợi trong vô vọng.
“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”
“Khách đường xa” ở đây chính là hình ảnh một người con gái đã khiến cho Hàn Mặc Tử say đắm trong cả một giấc mộng dài với hình ảnh “Áo em trắng”. Người con gái đó đã từng đến trong cuộc đời của ông chăng, và người con gái đó đã ra đi trong sự tiếc nuối của nhà thơ.
Người con gái đó đã khiến cho cái tâm hồn thi sĩ của Hàn Mặc Tử phải thốt lên những câu thơ buồn man mác về một tình yêu, hạnh phúc chưa thể với tới được. Hình ảnh “Áo em trắng quá nhìn không ra” và “sương khói mờ nhân ảnh”. Là hình ảnh một cô gái đẹp trong tà áo trắng bị che mờ bởi lớp sương khói và nhà thơ hi vọng đó chính là người con gái mình yêu, mình đang nhung nhớ.
“Mơ khách đường xa” là một giấc mơ, một giấc mộng đẹp về một con người, về một người tâm giao mà tưởng chừng sẽ là tri kỷ suốt cuộc đời này của tác giả.
Cái màu sắc trắng xen lẫn hình ảnh khói sương có phải là một sự tưởng tượng về một hình ảnh không có thực trong cái đôi mắt đã đậm cảm giác buồn của nhà thơ, một vẻ đẹp tinh khôi mờ mờ ảo ảo mà không thể với tới được. Một mối tình mong manh tựa sương khói, một bóng hình ẩn hiện trong sương khói.
Và như một sự thức tỉnh của nhà thơ khi đã nhận ra đó chỉ là một sự mơ hồ của mình. “Ai biết tình ai có đậm đà?” như là một sự trách móc, như là một câu hỏi, như là một sự tự an ủi một tâm hồn đã ôm một cái mộng cảnh, một cái mộng tình đơn phương và vẫn mong rằng người đó có thể nào thấu hiểu trái tim mình.
Nhưng cũng có người lại cho rằng, tác giả đang mộng tưởng về một người tác giả đem lòng yêu, nhưng đã xa rời ông từ giã cõi đời này và chỉ để lại một mình ông trong nỗi cô đơn. Nhưng cũng có người lại suy luận, tác giả đã đem lòng yêu một người con gái nhưng người đó đã xa rời ông trong sự lặng lẽ và quên mất ông, người đã dành cho cô gái một tình yêu đẹp.
Một câu thơ khiến cho chúng ta có nhiều cách hiểu khác nhau, những suy nghĩ khác nhau. Nhưng hội tụ lại đó là sự thể hiện một tấm chân tình của Hàn Mặc Tử về một người con gái xứ Huế.
Qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” chúng ta phần nào thấy được một bức tranh xứ Huế đẹp mộng mơ, tao nhã. Và trong cái khung cảnh đó, trái tim của người nghệ sĩ, nhà thơ như Hàn Mặc Tử hay bất kỳ ai yêu thiên nhiên cũng có thể bộc lộ được cái tâm trạng cảm xúc của mình.
Một xứ Huế đẹp mộng mơ qua hình ảnh thôn “Vĩ Dạ” nhưng lại đượm buồn, nhung nhớ. Bài thơ mượn hình ảnh thiên nhiên, để gột tả nên tâm trạng một con người đang cô đơn và chờ đợi. Thôn Vĩ chính là một hình ảnh đẹp về một vùng đất của xứ Huế sẽ làm say đắm lòng người, và sẽ làm mê mẩn những tâm hồn thi sĩ.
Bài thơ thể hiện một tình yêu thiên nhiên và tâm trạng của Hàn Mặc Tử thực sự rất sâu sắc bởi chính ông.
Hình ảnh thiên nhiên và con người trong bài thơ - Mẫu 5
Huế luôn là mảnh đất gợi nhớ, gợi thương đối với những ai đã từng đặt chân qua đây. Bởi nó có một nét đẹp vừa tươi mới, vừa cổ kính, vừa gần gũi. Thiên nhiên trong bài thơ chính là chất liệu để làm tôn thêm hình ảnh con người nơi xứ Huế.
Câu thơ đầu có thể nói là câu thơ phác họa một cách rõ nét nhất bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và đầy lôi cuốn của mảnh đất kinh đô này:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Khổ thơ được cất lên bằng tiếng trách hờ của cô gái đối với nhân vật trữ tình. Một câu trách nhẹ nhàng, nhưng tình cảm và đầy sự tinh tế. Dù có trách thì người khác cũng không nỡ lòng nào để giận để hờn. Và đằng sau câu trách ấy là một bức tranh thiên nhiên thơ mộng được vẽ ra. Có thể nói tác giả đã không còn đơn thuần dùng chất liệu ngôn ngữ để vẽ tranh nữa mà đã dùng cả sự rung động trong trái tim để vẽ nên bức tranh tuyệt đẹp đó.
Thiên nhiên cứ thế sáng rực lên, tươi tắn và khỏe khoắn. Cách dùng từ “nắng mới lên” gợi cho người đọc liên tưởng đến nắng đầu ngày, nắng bình minh khoan thai, dễ chịu và nhẹ nhàng. Nắng mới lên đậu trên hàng cau xanh vút khiến người đọc mường tượng đến một khung cảnh thanh mát và trong lành.
Ở câu thơ thứ ba, tác giả dùng đại từ phiếm chỉ “vườn ai” như để hỏi người nhưng cũng là tự hỏi mình. “Vườn ai” vừa bộc lộ sự kín đáo, e dè, vừa thể hiện sự tinh tế và sâu sắc của nhà thơ. “Vườn ai” thì chính trong trái tim của nhân vật trữ tình đã hiểu quá rõ, quá sâu sắc rồi. Màu xanh của khu vườn là một màu xanh rất đặc biệt và lạ kì. “Xanh như ngọc” chính là màu xanh vừa trong lành vừa tinh khôi. Từ “mướt” như làm sáng bừng lên cả câu thơ, tạo sự mềm mại và uyển chuyển cho khu vườn buổi sáng mai.
Một bức tranh thiên nhiên giàu chất thơ và tươi đẹp biết bao nhiêu.
Sang đến câu thơ thứ hai thì thiên nhiên từ tươi tắn chuyển sang buồn bã và vương sự chia li.
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Gió mây xưa nay vốn đi chung đường nhưng trong thơ của Hàn Mặc Tử lại là chia đôi thành hai đường xa lạ. Từ “buồn thiu” như diễn tả được tâm trạng của thiên nhiên, một sự não nề và thê lương. Đoạn cuối có thể xem là đoạn thiên nhiên thôn Vi trở nên huyền ảo và mơ hồ hơn. Có thể nói đó chính là sự cảm nhận tinh tế và sâu sắc của Hàn Mặc Tử.
Với những nét vẽ đơn giản, nhẹ nhàng nhưng tinh tế và sâu sắc, Hàn Mặc Tử đã vẽ lên trước mắt người xem một bức tranh thiên nhiên xứ Huế vừa tươi mới, vừa thơ mộng, vừa u sầu. Có lẽ đó chính là nét đặc trưng của Huế.
Hình ảnh thiên nhiên và con người trong bài thơ - Mẫu 6
Căn cứ vào bản thân văn bản thơ, ta thấy nổi lên hàng đầu là hình ảnh Huế đẹp và thơ. Bài thơ gồm 3 khổ, 12 câu thất ngôn. Mỗi khổ thơ dường như được dành để nói về một phương diện của Huế.
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Câu hỏi làm sống dậy kỉ niệm về thôn Vĩ, nói rộng hơn về xứ Huế, trong tâm hồn đằm thắm và thơ mộng của Hàn Mặc Tử.
Cảnh buổi sớm nơi thôn Vĩ: Nắng mới lên, chiếu sáng, lấp loáng những hàng cau. Vĩ Dạ có những hàng cau thẳng tắp thân cao vượt lên trên các mái nhà và những tán cây. Những tàu cau còn bóng loáng sương đêm như hút lấy ánh sáng lúc ban mai.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc là câu thơ không có gì đặc sắc tân kì lắm về mặt sáng tạo hình ảnh và từ ngữ, nhưng càng nghĩ càng thấy tả những vườn cây tươi tốt, xum xuê của Vĩ Dạ cũng chỉ có thể nói như thế mà thôi. Mỗi ngôi nhà ở Vĩ Dạ, nói chung ở Huế, được gọi là những nhà vườn. Vườn bọc quanh nhà, gắn với ngôi nhà xinh xinh thường là nhà trệt, thành một cấu trúc thẩm mĩ chặt chẽ. Xuân Diệu gọi mỗi cấu trúc ấy là một bài thơ tứ tuyệt. Vì thế vườn được chăm sóc chu đáo: những cây cảnh và cây ăn quả đều xanh tốt mơn mởn và sạch sẽ, dường như được cắt tỉa, lau chùi, mài giũa thành những cành vàng lá ngọc. Sự ví von ở đây được nâng lên theo hướng cách điệu hóa. Khuynh hướng cách điệu hóa được đẩy lên cao hơn nữa ở câu thứ tư: Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Đã gọi là cách điệu hóa thì không nên hiểu theo nghĩa tả thực, tuy rằng cách điệu hóa cũng xuất phát từ sự thực: thấp thoáng đằng sau những hàng rào xinh xắn, những khóm trúc, có bóng ai đó kín đáo, dịu dàng, phúc hậu.
Trong khổ thơ thứ hai, dòng kỉ niệm vẫn tiếp tục. Nhớ Huế không thể không nhớ dòng sông Hương.
Dòng sông Hương, gió và mây. Con thuyền ai đó đậu dưới ánh trăng nơi bến vắng... Bốn câu thơ như diễn tả cái nhịp điệu nhẹ nhàng, chậm rãi của Huế.
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.
Cái tinh tế ở đây tả làn gió thổi rất nhẹ,, không đủ cho mây bay, không đủ cho nước gợn, nhưng gió vẫn run lên nhè nhẹ cho hoa bắp lay. Tất nhiên đây phải là cảnh sông Hương chảy qua Vĩ Dạ lững lờ trôi về phía cửa Thuật. Đúng là nhịp điệu của Huế rồi.
Hai câu tiếp theo đầy trăng. Cảnh trong kỉ niệm nên cảnh cũng chuyển theo logic của kỉ niệm. Cảnh sông Hương không gì thơ mộng hơn là dưới ánh trăng. Hàn Mặc Tử cũng không mê gì hơn là mê trăng. Trăng trở thành nhân vật có tính huyền thoại trong nhiều bài thơ của ông. Ánh trăng huyền ảo tràn đầy vũ trụ, tạo nên một không khi hư ảo, như là trong mộng:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Phải ở trong mộng thì sông mới có thể là sông trăng và thuyền mới có thể chở trăng về như một du khách trên sông Hương. Hình ảnh thuyền chở trăng không gì mới, nhưng sông trăng thì có lẽ là của Hàn Mặc Tử.
Khổ thơ thứ ba nói về người xưa nơi thôn Vĩ. Nhớ cảnh không thể không nhớ người. Người phù hợp với cảnh Huế không gì hơn là những cô gái Huế. Ai làm thơ về Huế mà chẳng nhớ đến những cô gái này: (Huế đẹp và thơ của Nam Trân, Dửng dưng của Tố Hữu…).
Những khổ thơ dường như mở đầu bằng một lời thốt ra trước một hình ảnh ai đó tuy mờ ảo nhưng có thực:
Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra.
Mơ ảo vì khách đường xa và nhìn không ra nhưng có thực vì áo em trắng quá. Hình ảnh biết bao thân thiết nhưng cũng rất đỗi xa vời. Xa không chỉ là khoảng cách, và mối tình cũng xa vời vì vốn xưa đã gắn bó, đã hứa hẹn gì đâu. Vì thế mà ai biết tình ai có đậm đà. Ai là anh hay là em? Có lẽ là cả hai. Giữa hai người (Hàn Mặc Tử và cô gái mà nhà thơ đã từng thầm yêu trộm nhớ) là sương khói của không gian, của thời gian, của mối tình chưa có lời ước hẹn, làm sao biết được có đậm đà hay không? Lời thơ cứ bâng khuâng hư thực và gợi một nỗi buồn xót xa.
Nhưng khổ thơ không chỉ minh họa cho mối tình cụ thể giữa nhà thơ và người bạn gái. Đặt trong dòng kỉ niệm về Huế, ta thấy hiện lên trong sương khói của đất kinh đô hình ảnh rất đặc trưng của các cô gái Huế. Những cô gái Huế thường e lệ quá, kín đáo quá nên xa vời, hư ảo quá. Những cô gái ấy khi yêu, liệu tình yêu có đậm đà chăng? Đây không phải là sự đánh giá hay trách móc ai. Tình yêu càng thiết tha, càng hay đặt ra những nghi vấn như vậy.
Tình trong thơ bao giờ cũng là tình riêng. Nhưng tình riêng chỉ có ý nghĩa khi nói được tình của mọi người. Phép biện chứng của tình cảm nghệ sĩ là như vậy. Đối với sự tiếp nhận của người đọc, nổi lên trước hết trong khổ thơ này, cũng như trong toàn bộ bài thơ vẫn là hình ảnh thơ mộng và đáng yêu của cảnh và người xứ Huế.
Hình ảnh thiên nhiên và con người trong bài thơ - Mẫu 7
Hàn Mặc Tử được biết đến là một trong những cây bút xuất sắc nhất của thơ mới, ông là một thi sĩ đoản thọ trong đời nhưng lại trường thọ trong thơ.Ông sáng tác thơ theo phong cách “ thơ Điên”, theo lối sáng tác siêu thực tượng trưng, bắt đầu bằng thơ cổ điển Đường luật, sau chuyển sang sáng tác theo khuynh hướng thơ mới lãng mạn. Qua diện mạo hết sức phức tạp và đầy bí ẩn của thơ Hàn Mặc Tử, người ta vẫn thấy rõ một tình yêu đau đớn hướng về cuộc đời trần thế.
Bài Thơ Đây thôn vĩ dạ được sáng tác năm 1938, in trong tập “Đau thương”, và đây cũng chính là thanh âm trong trẻo được cất lên từ bản nhạc đau thương ấy. Sự ra đời của bài thơ có liên quan đến mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử và Hoàng Thị Kim Cúc- một cô gái vốn quê ở Vĩ Dạ, một thôn nhỏ bên dòng sông Hương nơi xứ Huế Thơ mộng và trữ tình. Sâu trong nỗi nhớ và niềm thương với người con gái xứ Huế,bài thơ còn vẽ lên một bức tranh thiên nhiên thật đẹp nơi thôn Vĩ, qua đó cũng bộc lộ sâu sắc sự cô đơn, tiếc nuối và những nỗi buồn chất chứa trong tim tác giả.
Mở Đầu bài thơ, Hàn Mặc Tử vẽ lên trước mắt bạn đọc một bức tranh tuyệt mỹ của thiên nhiên thôn Vĩ lúc bình minh:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Câu Thơ mở đầu là câu hỏi tu tư đa sắc thái, ở đó có cả lời nhắc nhớ, mời mọc, giận hờn trách móc đầy nhẹ nhàng và tình tứ. Chủ nhân của câu hỏi ấy có thể là một cô gái thôn Vĩ trong sự hình dung tưởng tượng của tác giả, cũng có thể là tác giả tự phân thân ra để tự hỏi mình. Câu hỏi mở đầu cũng là cái cớ nghệ thuật để giới thiệu về thôn Vĩ. Ba câu thơ sau mỗi câu thơ là một nét vẽ đẹp hợp thành một bức tranh vườn tược tuyệt mĩ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Nét đặc sắc của thôn Vĩ – quê hương người con gái gợi mở ở câu đầu tiên đến đây đã được tả rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng mở trước mắt người đọc. Nắng ở đây là nắng mới lên, những tia nắng đầu tiên của một ngày, nó mang lại bao nét mới mẻ, tinh khôi rực rỡ mà vẫn dịu nhẹ.Những ngọn cau thẳng tắp và đột nhiên trở nên tươi đẹp lộng lẫy, tràn đầy sức sống trước ánh nắng bình minh. Cái “nắng hàng cau nắng mới lên” sao lại gợi một nỗi niềm làng mạc quê hương đến thế. Câu thơ này bất chợt khiến ta nghĩ tới những câu thơ của Tố Hữu trong bài “Xuân lòng”:
“Nắng xuân tưới trên thân dừa xanh dịu
Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh
Ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu
Và chảy tan qua kẻ lá cành chanh.”
Nắng mới, nắng xuân xuyên qua từng kẽ lá làm tan chảy những hạt sương đêm, nhỏ giọt xanh như ngọc. Thiên nhiên xứ Huế xinh đẹp, sức sống tràn trề “màu xanh như ngọc”, tác giả như bị cuốn say đắm sức sống, vẻ đẹp của con người xứ Huế. Đối với tác giả, tình yêu thương nồng nàn mà ông dành cho nơi đây đã tạo nên những vần thơ đẹp, đầy lắng đọng trong tâm hồn thi sĩ, khẽ khàng đi vào lòng người. Không phải xanh mượt, cũng không phải xanh mỡ màng mà chỉ có“xanh như ngọc” mới diễn tả được vẻ đẹp ngồn ngộn, sự sống của vườn tược. Một Màu xanh cao quý, không một chút gợn, một màu xanh tỏa ánh tạo nên vẻ đẹp óng ánh, lấp lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên. Hình như cả vườn cây đều tắm trong luồng không khí đang còn run rẩy sự trinh bạch nguyên sơ chưa hề nhuốm bụi. Lăng kính không khí ấy làm hiện rõ hơn đường nét màu sắc của cảnh sắc mà mắt thường chúng ta bỏ qua, Vĩ Dạ - một làng quê nằm bên bờ Hương Giang,thuộc ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê hoa trái. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng ẩn hiện sau hàng cau, khóm trúc, mà ở đây thường dìu dặt câu hát Nam ai, Nam bình, qua tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục huyền diệu, réo rắt. Thôn Vĩ Dạ đẹp nên thơ.Hàn Mặc Tử đã dành cho Vĩ Dạ vần thơ đẹp nhất với tất cả tấm lòng tha thiết mến thương. Xa cách Huế và Vĩ Dạ đã bao năm tháng rồi. Thế mà cảnh sắc và con người nơi thôn Vĩ vẫn được nhà thơ ôm ấp trong lòng, càng trở nên lung linh, biểu lộ niềm ước mong tha thiết được trở lại cố đô thăm cảnh cũ người xưa. Bức tranh tâm cảnh đã được thể hiện một cách tài hoa qua bức tranh thôn Vĩ hữu tình nên thơ.
Bức tranh thiên nhiên hiện lên đẹp vô cùng và hài hòa vô cùng với hình ảnh con người. Con người ở đây không xuất hiện một cách lộ liễu, không phô trương, cũng không phải những mặc khách tao nhân.Đó là những gương mặt đôn hậu, hiền lành chân chất mà vẫn toát lên vẻ giản dị mộc mạc chân phương, nét chữ điền cứng cáp hài hòa với sự dịu dàng, nhẹ nhàng và cảnh đẹp nên thơ, nên nhạc của xứ Huế: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” . Trong vườn thôn Vĩ Dạ khia nhánh lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên quan bất ngờ mà đẹp thế: những chiếc lá trúc thanh mảnh, thon thả che ngang khuôn mặt chữ điền.“Mặt chữ điền” – khuôn mặt ấy chỉ hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực.
Thôn Vĩ nằm cạnh ngay bờ sông Hương êm đềm nên ắt hẳn nhịp sống của con người ở đây cũng sẽ bị chi phối bởi cái êm ả của sông Hương: “Dòng sông Hương vẫn êm ả lững lờ trôi” –nhẹ nhàng mà vô cùng đẹp. Từ cách tả cảnh làng quê ở khổ đầu tác giả đã chuyển sang tả cảnh sông với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong, sầu muộn hư ảo trong giấc mộng. Ở khổ thơ thứ hai tâm trạng của tác giả đã chuyển sang một gam khác nên bước vào khổ thơ này chính là bước vào không gian tâm trạng riêng của Hàn Mặc Tử:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”
Thực tại phiêu tàn bắt đầu bao trùm cả bài thơ. Nhịp Thơ 4/3 cùng với hai hình ảnh đối lập: “gió” và “mây” đã gợi lên nỗi buồn vì mây và gió trôi nổi, lang thang chính vì thế mà nó bay thẳng vào thơ của Hàn Mặc Tử. Cái buồn sẵn có của nó kết hợp với vần thơ của tác giả thì chính nó đã tự làm cho nó buồn hơn bởi: gió đi theo đường của gió, mây theo đường của mây, gió và mây từ nay xa cách nhau, không còn là bạn đồng hành của nhau nữa nên không còn lí do gì để gặp nhau. Mượn hình ảnh mây và gió tác giả muốn nói lên tâm trạng buồn của mình, về sự xa cách của mình và người yêu và cũng có thể sự xa cách đó là vĩnh viễn vì Hàn Mặc Tử bây giờ đã là một phế nhân, đang nằm chờ cái chết.Chúng ta không còn thấy giọng thơ tươi mát, đầy sức sống như ở đoạn trước nữa nhưng lại bắt gặp một tâm hồn đau buồn, u uất:
“Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”
Dòng Sông Hương hiện lên mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt. Với Biện pháp nhân hóa “dòng nước buồn thiu” đã làm cho hình ảnh dòng nước trở nên buồn, xa vắng. “Dòng nước buồn” vì tự mang trong lòng một tâm trạng buồn hay nỗi buồn chia phôi của gió – mây đã bỏ buồn vào dòng sông? Câu thơ này dường như còn thể hiện nhịp sống thường ngày của người dân nơi đây: một lối sống êm đềm và buồn tẻ. Hình ảnh “hoa bắp lay” gợi một nỗi buồn hiu hắt – một nỗi buồn bao phủ từ bầu trời đến mặt đất, từ đất, gió, mây đến dòng nước và hoa bắp trên sông. Đằng sau những cảnh vật ấy là tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn xa cách, một mối tình vô vọng, tất cả bây giờ chỉ là hư ảo trong mộng tưởng.
Đêm đến,nỗi buồn ấy kết hợp với cảnh lại càng thấm sâu, lan rộng hơn, nó như thấu vào tận tâm can của thi sĩ. Ánh trăng bao trùm khắp không gian tạo nên dòng sông trăng,bến sông trăng và thuyền chở trăng. Theo phong cách thơ của Hàn Mặc Tử, ta cũng có thể hiểu là ánh trăng tạo nên một dòng sông, một con thuyền, một bến đỗ.Không gian ở đây thật đẹp nhưng lạnh lẽo và hiu quạnh. Hình ảnh thuyền chở trăng mang ý nghĩa biểu tượng khác với hình ảnh:
“ Gió trăng chở một thuyền đầy”
Hay
“ Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”
Trăng là tri âm tri kỉ, thuyền chở trăng là biểu tượng cho khát khao được giao cảm, khát khao được hạnh phúc của Hàn Mặc Tử. Tác giả hi vọng trăng sẽ chẳng như gió, mây đang rời xa tác giả mà trăng sẽ từ nơi xa để trở về. Tối nay là tối nào ta không rõ chi biết rằng thời gian của tối nay sắp hết. Nếu thuyền chở trăng về kịp, tác giả sẽ có được hạnh phúc, có được sự sẻ chia đồng cảm còn ngược lại tác giả sẽ chết đắm trong biển sầu cô độc, Trong tối nay,trăng như một vị cứu tinh và tâm trạng của tác giả với trăng được thể hiện tập trung trong từ “ kịp”. Ở từ ngữ giản dị này, ta thấy có sự đợi chờ trông ngóng, có hi vọng mong manh, có phấp phỏng lo âu. Từ “kịp” thể hiện tâm thế sống vội vàng của Hàn Mặc Tử. Nếu Xuân Diệu hoàn toàn chủ động trong sự vội vàng và vội vàng vì muốn tận hưởng tất cả thì Hàn Mặc Tử lại hoàn toàn bị động trong sự vội vàng và sự vội vàng đó xuất phát từ nhận thức về một cái chết đang cận kề.
Vì biết có thể sẽ ra đi bất cứ lúc nào, biết rằng thời gian không còn nhiều, nên giờ đây thi nhân đang vô cùng khao khát, và mọi niềm khao khát của Hàn Mặc Tử đều quy tụ về hình ảnh con người:
“Mơ khách đường xa,khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?"
Con Người ở đây được gọi là “em”, là “ khách”, là người em thôn Vĩ nào đó. Nếu cách dùng từ “em” thể hiện sự thân mật, gần gũi thì cách dùng từ khách lại gợi sự xa lạ. Khách lại ở trên đường xa, đi cùng với điệp khúc :khách đường xa” nên càng xa lạ, xa cách hơn. Cách nói “ áo em trắng quá nhìn không ra” vừa là cách cực tả sắc trắng đến mức thị giác phải bất lực, vừa nhẫn mạnh khoảng cách giữa nhân vật trữ tình và em. Khách lại xuất hiện trong mơ, được nhìn qua sương khói nên thêm phần hư ảo nhạt nhòa.
“ Ở Đây” là không gian gắn liền với cuộc sống của Hàn Mặc Tử trong hiện tại, là nơi của cô độc, của bệnh tật giày vò. Nó hoàn toàn đối lập với ngoài kia bởi ngoài kia là đông vui, là hạnh phúc. Sương khói của cuộc đời đã tạo nên một khoảng cách vô cùng, không thể nào thu hẹp, chẳng thể nào vượt qua giữa “ ở đây” và “ngoài kia”. Nhận thức về điều đó, Hàn Mặc Tử để thể hiện nỗi băn khoăn” Ai biết tình ai có đậm đà?” Đại từ “ai” có thể hiểu là tác giả cũng có thể hiểu là người ngoài kia. Điều khiến thi sĩ băn khoăn ở đây chính là sự đậm đà của tình người.
Với thể thơ thất ngôn, lời thơ siêu thực tượng trưng của phương Tây, nghệ thuật nhân hóa,bút pháp gợi tả, bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ là bức tranh đẹp về miền quê đất nước, là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người. Qua bài thơ, ta cũng cảm nhận sâu sắc hơn về phong cách thơ nhẹ nhàng đầy lãng mạn của Hàn Mặc Tử, như ông vẫn hay viết:
“ Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Trăng nằm yên trên cành liễu đợi chờ
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn thề”.
Hình ảnh thiên nhiên và con người trong bài thơ - Mẫu 8
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu của làng thơ Việt Nam, nổi tiếng với chất “điên”, chất lạ trong những tác phẩm. Hồn thơ của Hàn Mặc Tử kì quái, đi lại liên tục giữa hai cõi mộng thực. Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ hiếm hoi mang màu sắc tươi vui, song vẫn không che khuất được tâm trạng nhuốm màu buồn rầu của thi nhân. Đến với bài thơ là lúc ta đến với cảnh thiên nhiên và con người xứ Huế.
Có thể nói, vùng đất Huế đã tác động rất nhiều vào hồn thơ của thi nhân, đối với ông, đây là mảnh đất dạt dào thi liệu, cũng phảng phất nỗi buồn man mác của một mối tình đứt quãng. Chất Huế không bao giờ mất trên những trang thơ của Hàn Mặc Tử:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Thiên nhiên cứ thế sáng rực lên, tươi tắn và khỏe khoắn. Cách dùng từ “nắng mới lên” gợi cho người đọc liên tưởng đến nắng đầu ngày, nắng bình minh khoan thai, dễ chịu và nhẹ nhàng. Nắng mới lên đậu trên hàng cau xanh vút khiến người đọc mường tượng đến một khung cảnh thanh mát và trong lành. Sự dung hòa giữa sắc vàng của nắng cũng như sắc xanh của cây cối khiến thiên nhiên trở nên tràn đầy sức sống. Ta có thể thấy sự yên bình đan xen sự tươi mới, cảnh bình minh được vẽ qua chỉ qua vài con chữ nhưng đủ làm lay động bất cứ trái tim sắt đá nào. Nhà thơ Bích Khê đã từng viết:
Vĩ Dạ thôn! Vĩ Dạ thôn
Biết chè cành trúc không bền mà say
Có lẽ thiên nhiên nơi đây luôn dạt dào thi liệu, đã bước vào trong tâm hồn của các thi nhân một cách thật tự nhiên.
Ở câu thơ tiếp theo:
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Nhà thơ càng khắc họa rõ nét đẹp của thiên nhiên Vĩ Dạ. Tính từ “mướt” vừa miêu tả màu sắc, vừa miêu tả cảm giác, khu vườn như lướt nhẹ qua làn da của người đọc, ướt đẫm sương mai và gió lành sáng sớm. Cách sử dụng từ độc đáo khiến bài thơ như mềm hẳn đi. Ở câu thơ thứ ba, tác giả dùng đại từ phiếm chỉ “vườn ai” như để hỏi người nhưng cũng là tự hỏi mình. “Vườn ai” vừa bộc lộ sự kín đáo, e dè, vừa thể hiện sự tinh tế và sâu sắc của nhà thơ. “Vườn ai” thì chính trong trái tim của nhân vật trữ tình đã hiểu quá rõ, quá sâu sắc rồi. Màu xanh của khu vườn là một màu xanh rất đặc biệt và lạ kì. “Xanh như ngọc” chính là màu xanh vừa trong lành vừa tinh khôi.
Ở những câu thơ tiếp theo, thiên nhiên đã bắt đầu vương vấn chút buồn:
Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Cảnh vật nhuốm màu chia li, gió và mây vốn là hai hình ảnh sóng đôi, nay lại bị tách biệt. Câu thơ như chùng hẳn xuống giữa khúc dạo đầu đầy sức sống của nắng ở đầu bài thơ. Nhà văn bắt đầu cảm nhận được nỗi buồn của mình hòa vào trong với cảnh vật, man mác và đầy da diết. Các hình ảnh không ăn nhập với nhau, có sự đứt quãng vì vậy mà cảnh trong những câu thơ này có sự rời rạc. Tính từ “buồn thiu” thể hiện rất rõ tâm trạng của thi nhân, một nỗi buồn không thể nói thành lời, có vẻ đơn giản song bất lực. Cảnh thơ thứ hai nhòe dần, chìm dần trong ảo giác, các chất liệu thi ca bứt phá ra ngoài khuôn khổ cấu trúc của thi ca cổ. Tứ thơ mở ra toàn những nghịch lý trái lẽ tự nhiên
Trong bài thơ, cảnh và người luôn sóng đôi với nhau, gắn bó không trời, cứ một câu cảnh sẽ đan xen một câu về người. Hình ảnh con người trong bài thơ như một nét chấm phá, không xuất hiện rõ ràng nhưng chính sự mơ hồ đó đã tạo nên điểm nhấn:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Ca dao xưa có câu:
Mặt em vuông tựa chữ điền
Da em thì trắng áo đen mặc ngoài
Lòng em có đất có trời
Có câu nhân nghĩa có lời thuỷ chung
Ngày xưa, mặt chữ điền là nét phúc hậu của người con gái, là nét đẹp không thể trộn lẫn. Hàn Mặc Tử tuy không nói thẳng, nhưng đã nhằm ẩn ý hình ảnh của một thiếu nữ xứ Huế. Hình ảnh của cô gái ẩn hiện sau tán lá trúc tạo cảm giác nhẹ nhàng, cảnh và người như hòa làm một. Giữa lá trúc và mặt chữ điền là một sự phối hợp mang tính chất biểu trưng: vừa quý phái sang trọng, vừa dân dã bình dị tạo nên cốt cách văn hóa của con người xứ Huế. Vừa đủ sự tinh khôi, trong trắng mà không cần tới những ngôn từ hoa mĩ. Câu thơ mở đầu cho mạch cảm xúc chuẩn bị trào dâng về sau. Vì vậy hình ảnh con người cũng mới chỉ lấp ló xuất hiện
Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
Trăng là một thi liệu đặc trưng của Hàn Mặc Tử:
Trăng! Trăng! Trăng! Là trăng trăng trăng
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Đối với nhà thơ, trăng là sự hiện thân của rất nhiều hình ảnh. Trăng ở đây, có lẽ những kí ức của thi nhân dành cho con người xứ Huế, cụ thể là người ông đã yêu. Cảnh vật đột ngột đượm buồn, hình ảnh chiếc thuyền đơn côi đậu mặc trên sông đang dát vàng ánh trăng, chuyên chở nỗi niềm của thi nhân. Một hình ảnh sông trăng đã được cách điệu lên, ánh trăng đẹp nhưng như là một sự mơ hồ, ảo ảnh về một người mà tác giả đang chờ đợi. Trong cái khung cảnh buồn thiu, lay lắt kia, dưới ánh trăng soi rọi là một hình ảnh một con thuyền cô độc vẫn đang nằm im, vẫn chưa rời bến. Và như một sự thúc giục, thuyền ơi sao lại nằm im như thế, sao vẫn chưa đi đón người đó cùng với ánh trăng trong cái đêm tối này. Sự cách điệu, nhân hóa, đã khiến cho sự buồn bã và nhung nhớ được tăng lên.
Câu thơ ấy chính là những dự cảm của thi nhân, dự cảm về một tình yêu bị đứt đoạn, thời gian gấp gáp và tình người lại chậm rãi không hiểu được cho nỗi niềm “thèm trăng” của nhà thơ.
Ở đoạn thơ cuối, con người vẫn mang nét mờ ảo như thế:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra…
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Tất cả đều bao bọc trong kí ức của nhà thơ, hóa ra cảnh hay người cũng chỉ là trong kí ức. Khách đường xa được lặp lại hai lần như nhằm diễn tả những bước chân đang khuất dần, người con gái đang quay lưng và đi xa nhà thơ. Câu thơ vang lên đầy thảng thốt, chập chờn vô định. Hình ảnh “áo trắng” tạo cảm giác mông lung, vào thời điểm này, thị lực của nhà thơ đã kém đi rất nhiều, thật đau đớn thay, khi ngay cả trong kí ức, hình ảnh ông hằng mong nhớ nay cũng không còn đậm nét. Người chỉ còn là cái bóng. Sương trắng, áo trắng, hai thứ màu trắng hòa vào nhau. Cái nhân ảnh của kỷ niệm đang vỡ tan ra cùng sương khói. Cái màu trắng của ảo giác rất hư vô này đã đẩy thơ Hàn Mặc Tử đến bến bờ siêu thực: trắng như tinh, trắng rợn mình...Để rồi kết thúc là câu hỏi đầy đau đớn:
Ai biết tình ai có đậm đà?
Câu hỏi tu từ gợi cảm giác lo âu trong Hàn Mặc Tử, rằng những con người ông yêu thương nay đã không còn bận tâm đến nhà thơ nữa.
Một xứ Huế đẹp mộng mơ qua hình ảnh thôn “Vĩ Dạ” nhưng lại đượm buồn, nhung nhớ. Bài thơ mượn hình ảnh thiên nhiên, để gột tả nên tâm trạng một con người đang cô đơn và chờ đợi. Thôn Vĩ chính là một hình ảnh đẹp về một vùng đất của xứ Huế sẽ làm say đắm lòng người, và sẽ làm mê mẩn những tâm hồn thi sĩ.