TOP 5 bài Cảm nhận về bài thơ Đập đá ở Côn Lôn SIÊU HAY, kèm theo dàn ý chi tiết. Qua đó, giúp các em học sinh lớp 8 thấy được khẩu khí ngang tàng, ngạo nghễ của người dám coi thường thử thách, gian nan.
Bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan Chu Trinh cho chúng ta thấy rõ vẻ đẹp, tư thế hiên ngang sánh ngang với trời đất của người làm trai trước một thời đại nhiều biến động. Đồng thời, cũng thể hiện tấm lòng yêu nước thương dân, ý chí quyết tâm chống giặc cứu nước. Mời các em cùng theo dõi bài viết:
TOP 5 bài cảm nhận về bài thơ Đập đá ở Côn Lôn hay nhất
Dàn ý Cảm nhận về bài thơ Đập đá ở Côn Lôn
I. Mở bài
- Giới thiệu bài thơ Đập đá ở Côn Lôn và tác giả Phan Châu Trinh.
- Dẫn dắt vào các vấn đề: hình tượng người chiến sĩ cách mạng trong bài thơ Đập đá ở Côn Lôn.
II. Thân bài
* Khái quát chung về bài thơ:
- Thể loại: Thất ngôn bát cú Đường luật.
- Bố cục: Đề, thực, luận, kết.
* Nội dung
- Hình ảnh người chiến sĩ ngang tàng, khí phách của người anh hùng thông qua việc đập đá ở Côn Sơn (được thể hiện trong 4 câu thơ đầu, trích thơ):
- Khẩu khí đầy ngang tàng, sừng sững của chí làm trai với lòng kiêu hãnh và ước vọng mãnh liệt: “Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn/ Lừng lẫy làm cho lở núi non”
- Khí phách của con người dường như “lừng lẫy”, hiên ngang tới mức núi non cũng phải rung chuyển. Hình ảnh của người chí sĩ hiện lên hết sức oai phong, hiên ngang, có cảm giác như núi non có vững chãi đến đâu cũng đành đổ sụp dưới khí phách ấy.
- Khát vọng hành động mãnh liệt: “Xách búa đánh tan năm bảy đống/ Ra tay đập bể mấy trăm hòn”. Với nhịp 4/3 khỏe chắc cùng với những từ chỉ hành động “xách búa”, “ra tay” đi với những động từ mạnh “đánh tan”, “đập bể” trong biện pháp nói quá đã tô đậm sức mạnh hơn người của người chí sĩ yêu nước. Người chí sĩ cách mạng từ lâu đã coi công việc khổ sai cực nhọc là một công việc không có gì khó khăn đối với sức mạnh của bản thân, núi đá ở Côn Lôn cứng đến đâu cũng dễ dàng bị ông chinh phục trong một tư thế ngang tàn, mạnh mẽ. Người chí sĩ cách mạng không coi đây là công việc khổ sai mà chính là cách để con người ta rèn luyện.
=> Bằng nghệ thuật nói quá cùng với giọng thơ mạnh mẽ đã làm nổi bật sức mạnh to lớn của con người cùng với đó là khẩu khí ngang tàng, ngạo nghễ của người dám coi thường thử thách, gian nan.
- Ý chí chiến đấu sắc son của người anh hùng:
- Sức chịu đựng bền bỉ dai dẳng “Tháng ngày bao quản thân sành sỏi/ Mưa nắng càng bền dạ sắt son” Côn Đảo thực chất là nơi mà thực dân Pháp cố tình lập ra để giam cầm những chí sĩ yêu nước, nhưng với những chí sĩ cách mạng tài ba, quả cảm và vững chí như Phan Châu Trinh thì đây là nơi tôi luyện ý chí kiên trì, sành sỏi, càng nhiều khổ cực, nắng mưa dãi dầu, lòng con người ta như càng vững, càng tin hơn.
- Tinh thần cứng cỏi, trung kiên, không sờn lòng, đổi chí. Sức chịu đựng mãnh liệt về cả thể xác lẫn tinh thần. Thể hiện sự bất khuất trước gian nguy, trung thành với lí tưởng yêu nước.
- Niềm tự hào kiêu hãnh: ông tự cho nhận là “kẻ vá trời” gánh vác hoạt động cách mạng với lí tưởng duy tân, giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc. Người chiến sĩ tự nhận trách nhiệm cao cả và vĩ đại vì sự bình yên và no ấm của muôn dân với một phong thái vô cùng tự tin.
=> Hình tượng đẹp lẫy lừng, ngang tàng của người anh hùng cứu nước dù gặp bước nguy nan vẫn không sờn lòng, đổi chí.
* Nghệ thuật: Bài thơ sử dụng bút pháp lãng mạn, hình ảnh thơ phóng đại và khoa trương. Giọng thơ hào hùng lẫm liệt giàu sức biểu cảm.
III. Kết bài
- Nêu cảm nhận, đánh giá chung, khẳng định tài năng của tác giả.
- Liên hệ với bản thân.
Cảm nhận về bài thơ Đập đá ở Côn Lôn - Mẫu 1
Phan Châu Trinh (1872-1926), là một nhà hoạt động cách mạng sôi nổi và mạnh mẽ nhất trong những năm đầu của thế kỷ XX, ông là người đầu tiên đề xướng phong trào cứu nước kiểu dân chủ, đòi bác bỏ chế độ quân chủ phong kiến sớm nhất ở Việt Nam. Trong suốt cuộc đời mình Phan Châu Trinh đã từng đi đến nhiều nơi để theo đuổi lý tưởng giải phóng dân tộc lúc ở Pháp, lúc ở Nhật. Tuy nhiên vì một số hướng đi sai lầm mà ông cũng như Phan Bội Châu vẫn chưa tìm ra được một con đường cứu nước đúng đắn và phù hợp với đặc điểm lúc bấy giờ của đất nước. Không chỉ là một nhà hoạt động cách mạng sôi nổi, Phan Châu Trinh còn là một nhà thơ, nhà văn chính luận có nhiều tác phẩm đặc sắc. Đập đá ở Côn Lôn là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của ông, được viết trong một hoàn cảnh khá đặc biệt, ấy là khi Phan Châu Trinh bị thực dân Pháp khép vào tội xúi giục nhân dân Trung Kỳ chống thuế và bị bắt đày ra Côn Đảo, bị buộc phải lao động khổ sai với công việc khai thác đá.
Trước hết trong bốn câu thơ đầu tác giả đã thể hiện quan điểm của mình về chí làm trai, đồng thời thông qua đó cũng bộc lộ những sự vất vả, cực nhọc của công việc lao động khổ sai khi bị lưu đày tại Côn Đảo.
"Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn"
Câu thơ đầu tiên "Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn" đã mở ra cho người đọc một hình dung về bối cảnh không gian rộng lớn, đồng thời thông qua đó tọa dựng tầm vóc và tư thế hiên ngang của con người trong trời đất, bộc lộ khí phách của một người anh hùng, sừng sững giữa đất trời. Trong đó hai từ "làm trai" nhắc nhở độc giả về quan niệm chí nam nhi trong nền giáo dục truyền thống mà cụ thể ấy là Nho học, người ta luôn quan niệm rằng làm trai thì phải trả món nợ công danh, phải làm nên sự nghiệp, đáp đền cho Tổ quốc, đồng thời lừng lẫy với núi sông, xứng đáng là bậc nam tử hán đại trượng phu chí lớn rộng khắp đất trời. Có thể thấy quan niệm truyền thống về chí làm trai đã từng xuất hiện rất nhiều trong thơ ca xưa ví như Nguyễn Công Trứ có "Chí làm trai Nam, Bắc, Tây, Đông/ Cho thỏa sức vẫy vùng trong bốn bể", hay Phan Bội Châu với "Làm trai phải lạ ở trên đời" tức là không cam chịu cuộc sống tầm thường, mà luôn hướng tới những lý tưởng vĩ đại phi thường, tiêu biểu như sự nghiệp giải phóng dân tộc. Hoặc xa hơn nữa còn có Phạm Ngũ Lão với "Nam nhi vị liễu công danh trái/Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu", ý bảo nam nhi mà chưa trả được nợ công danh thì ắt phải xấu hổ khi nghe chuyện nhà Gia Cát. Tương tự vậy trong Đập đá ở Côn Lôn của Phan Chu Trinh ông viết "Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn/ Lừng lẫy làm cho lở núi non", tức là thể hiện lòng kiêu hãnh, ý chí tự khẳng định mình, khát vọng hành động mãnh liệt, sẵn sàng làm nên những việc lừng lẫy rung chuyển núi sông. Đặc biệt nhân vật trữ tình với tư thế "đứng giữa" đất Côn Lôn, đối diện với núi non sừng sững, lại càng làm nổi bật lên vẻ đẹp oai hùng, hiên ngang của trang nam tử với ý chí cao ngút trời xanh. Khẳng định tầm vóc của con người khi đứng trước thiên nhiên, trời đất không hề bị lu mờ mà càng trở nên, rõ ràng, sắc nét, mang vẻ đẹp hùng tráng, mà vẻ đẹp ấy vốn toát ra từ chính ý chí nam nhi, từ những khát vọng to lớn trong công cuộc giải phóng dân tộc vĩ đại. Ở ba câu thơ tiếp, dù miêu tả công việc lao động khổ sai, cực nhọc khi tay cầm búa, dùng sức người đập đá, với khối lượng công việc lớn, thế nhưng giọng điệu thơ của Phan Châu Trinh ở đây lại hết sức mạnh mẽ, hùng hồn như đang bước vào một trận chiến mãnh liệt. Các từ ngữ mang sắc thái mạnh như "lừng lẫy", "đánh tan", "đập bể", thể hiện được sức mạnh, tầm vóc của con người trong những công việc lao động vất vả, nhưng không hề vì thế mà nao núng, chán chường. Trái lại từ một công việc lao động khổ sai vất vả, Phan Châu Trinh đã biến nó thành một công cuộc chinh phục thiên nhiên đầy thách thức, mà con người trong đó luôn tràn trề sức sống, sinh lực, sẵn sàng chinh phục mọi đỉnh cao. Bộc lộ khẩu khí ngang tàn, ngạo nghễ của một con người tuy chịu cảnh tù đày thế nhưng vẫn hiên ngang mạnh mẽ, tinh thần lạc quan, tầm vóc sáng ngang sơn hà. Tạo dựng được một tượng đài về người anh hùng vượt lên trong nghịch cảnh, chiến thắng số phận, với khí phách hiên ngang lẫm liệt, sừng sững giữa đất trời, cũng như trong chính lòng giặc thù.
Nếu như 4 câu thơ đầu tập trung thể hiện khí phách, tầm vóc của người anh hùng giữa đất trời, thì ở bốn câu thơ cuối vẻ đẹp tâm hồn của Phan Châu Trinh lại càng được bộc lộ một cách rõ ràng, bổ sung cho phong thái ngạo nghễ, hiên ngang của người anh hùng trước những hoàn cảnh khó khăn, ngục tù, luôn giữ vững niềm tin và ý chí sắt son vào con đường mình đã chọn không đổi dời.
"Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con!"
Để nhấn mạnh cho vẻ đẹp tâm hồn kiên định, ý chí mạnh mẽ, cũng như chí lớn nam nhi của mình tác giả đã tinh tế dùng thế tương quan đối nghịch giữa các sự thể trong hai câu thơ 5 và 6 "Tháng ngày bao quản thân sành sỏi/Mưa nắng càng bền dạ sắt son". Trong đó "tháng ngày" và "mưa nắng" là chỉ những khó khăn vất vả với cuộc sống tù đày dài đằng đẵng ngày này qua tháng khác không biết hồi kết, còn mưa nắng là để chỉ những nỗi khó nhọc, gian lao trong quá trình lao động khổ sai mà người tù phải gánh chịu. Tuy nhiên đối lập với những khó khăn này, thì "tháng ngày" chỉ càng làm cho thân thể, ý chí người chiến sĩ thêm bền bỉ, dẻo dai, với một tấm "thân sành sỏi", còn "mưa nắng" cũng chỉ khiến cho tấm lòng, tâm hồn tác giả thêm vững chãi, một lòng kiên trung với lý tưởng cách mạng, cứu nước, "càng bền dạ sắt son". Có thể nói rằng chính những khó khăn vất vả trong cảnh tù đày càng khiến người chiến sĩ cách mạng thêm quyết tâm và tin tưởng vào sự nghiệp, lý tưởng mà mình đang theo đuổi, càng trở nên mạnh mẽ và hiên ngang giữa trời đất, chứ không thể làm suy sụp hay chán chường trước nghịch cảnh.
Đến câu thơ thứ 7 "Những kẻ vá trời khi lỡ bước", khiến ta dễ dàng liên tưởng đến truyền thuyết bà Nữ Oa đội đá vá trời cứu muôn vạn sinh linh, đó là một sự kiện phi thường mà không phải ai cũng có thể làm được. Thì ở đây bản thân Phan Châu Trinh cũng ví công cuộc tìm đường cứu nước, làm cách mạng của mình chính là một công việc "vá trời" khác, bởi lẽ trong thế kỷ XX ấy dường như người ta chẳng thể tin vào việc một con người nhỏ bé có thể lãnh đạo một dân tộc nhỏ bé chống lại bọn đế quốc hung tàn mạnh mẽ được. Điều này càng thể hiện được cái chí lớn và khí phách anh hùng của Phan Châu Trinh trước một thời đại đầy biến động, chính vì thế với công việc mà vốn không ai tưởng tượng nổi ông cũng đã mạnh dạn mưu đồ thì chừ có há chi mấy "việc con con" như cảnh lao tù khổ sai khi lỡ bước. Thể hiện ý chí quyết tâm mạnh mẽ, niềm tin hướng về một ngày tự do không xa của tác giả, đồng thời là sự coi thường những phương cách bỉ ổi của bè lũ thực dân đối với những chí sĩ yêu nước như tác giả.
Đập đá ở Côn Lôn là một bài thơ hay, thể hiện rất rõ vẻ đẹp, tư thế hiên ngang sánh ngang với trời đất của người làm trai trước một thời đại nhiều biến động dữ dội của đất nước. Đồng thời cũng bộc lộ rất rõ những vẻ đẹp trong tâm hồn tác giả ấy là tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc, ý chí quyết tâm chống giặc cứu nước, lý tưởng một lòng làm cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách ngục tù của thực dân, đế quốc đồng thời còn thể hiện ý chí sắt đá, mạnh mẽ, vượt qua được tất cả mọi gian lao vất vả mà vẫn giữ được tấm lòng son sắt với Tổ quốc.
Cảm nhận về bài thơ Đập đá ở Côn Lôn - Mẫu 2
Chắc hẳn không ai là không biết đến Phan Châu Trinh là một nhà cách mạng lỗi lạc của dân tộc. Bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” của ông đã để lại ấn tượng sâu sắc cho bạn đọc về hiện hình ảnh những người tù cách mạng bị tù khổ sai, phải làm những công việc khổ sai cực nhọc ở nhà tù Côn Đảo.
Nhắc đến Côn Đảo (Côn Lôn) là nhắc đến địa ngục trần gian. Đó là nơi đã giam giữ, tra tấn rất nhiều chiến sĩ cách mạng lừng lẫy của nhân dân ta. Nơi mà máu của những người chiến sĩ này rơi xuống để mở ra cánh cửa hòa bình độc lập dân tộc. Với những câu thơ đầu tiên thể hiện ý chí làm trai sống phải ngẩng cao đầu, hiên ngang đầu đội trời, chân đạp đất:
“Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
Lừng lẫy làm cho lở núi non”
Hình ảnh người chiến sĩ cách mạng hiện lên thật hiên ngang, trong tư thế vươn cao thẳng người, ưỡn ngực không khúm núm, không cong lưng uốn gối. Dù cuộc sống ở Côn Đảo vô cùng khổ sở, bị tra tấn một cách dã man nhưng các chiến sĩ của chúng ta không hề nao núng. Hành động những người tù khổ sai phải “đập đá” được tác giả Phan Châu Trinh thể hiện vô cùng sinh động, chân thực, nhưng không kém phần anh hùng, khí thế. Câu thơ có nhịp nhanh thể hiện khí thế oai hùng hào sảng của người chiến sĩ:
“Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hòn”
Người đọc như hình dung ra trước mắt mình hình ảnh đầy mạnh mẽ của người tù cách mạng. Sự anh hùng, dứt khoát, mạnh bạo của người tù cách mạng trong công việc khổ sai là đập đá hàng ngày của mình. Tác giả đã khôn khéo tinh tế khi sử dụng hình ảnh ước lệ tương phản giữa số ít “năm bảy đống” với số nhiều “mấy trăm hòn” để nêu lên công việc nặng nhọc, khối lượng vô cùng nhiều của người tù cách mạng phải làm.
Những câu thơ tiếp theo lại càng đặc sắc hơn nữa:
“Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng càng bền dạ sắt son”
Giữa nơi hoang sơ, xung quanh chỉ toàn là roi vọt, phải làm việc và đối xử như trâu như ngựa nhưng những người chiến sĩ vẫn hiên ngang không hề e ngại, vẫn tỏ rõ được khí chất của mình. Trong hoàn cảnh khó khăn họ càng thể hiện rõ tinh thần quyết tâm theo cách mạng của mình. Cụm từ “dạ sắt son” thể hiện sự trung thành tuyệt đối của những chiến sĩ cách mạng với con đường mình đã chọn, với tương lai vận mệnh của dân tộc. Những người chiến sĩ tin tưởng vào tương lai chiến thắng của dân tộc:
“Những kẻ vá trời khi lỡ bước
Gian nan chi kể việc con con”
Khi đọc hai câu thơ cuối cùng, chắc hẳn chúng ta sẽ liên tưởng đến một truyền thuyết nổi tiếng “Nữ Oa vá trời”. Chính từ đó mà khiến cho những người chiến sĩ hôm nay thấy mình cũng đang giống như bà Nữ Oa xưa, cũng đang đập đá để vá trời. Hai từ “lỡ bước” thể hiện sự sa cơ, khi chẳng may bị bắt bớ tù đày nhưng cũng không làm lung lay ý chí kẻ anh hùng. Cho nên dù có khó khăn, nhưng cũng chẳng xá chi, với những người luôn có ý chí, vượt mọi khó khăn thử thách thì việc này chỉ là hành động cỏn con mà thôi. Một khí chất ngang tàng, một châm ngôn bất hủ khiến người đọc vô cùng nể phục, ngưỡng mộ ý chí sắt đá của những người chiến sĩ cách mạng ở Côn Đảo.
Như vậy, bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” được tác giả viết bằng ngòi bút khoáng đạt, lời thơ vô cùng khí thế, hào hùng thể hiện hình ảnh người chiến sĩ cách mạng hiên ngang. Hình ảnh ấy chắc chắn sẽ còn để lại những ấn tượng sâu đậm trong lòng mỗi người đọc.
Cảm nhận về bài thơ Đập đá ở Côn Lôn - Mẫu 3
Trong dòng chảy văn học của dân tộc, bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” của Phan Châu Trinh đã góp một phần nhỏ của mình khi thể hiện được tư thế hiên ngang của người chí sĩ cách mạng trước hoàn cảnh chốn lao tù vẫn lạc quan quyết không “sờn lòng đổi chí”.
Phan Châu Trinh từng bị chính quyền thực dân khép vào tội xúi giục nhân dân nổi loạn trong phong trào chống thuế ở Trung Kì và bị bắt đày ra Côn Đảo. Trong những năm tháng sống ở Côn Đảo, ông bị bắt phải lao động khổ sai với công việc khai thác đá. Chính trong hoàn cảnh đó mà bài thơ được ra đời.
Khi đọc bốn câu thơ đầu tiên, chắc hẳn người đọc sẽ cảm nhận được rõ rệt tư thế hiên ngang của người tù cách mạng:
“Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn”
Ngay từ câu thơ mở đầu, nhà thơ đã miêu tả chân thực bối cảnh sống, làm việc của người tù cách mạng tại Côn Đảo (Côn Lôn). Đó là nơi họ bị giam cầm, bị tra tấn dã man và còn bị bắt lao động khổ sai. Nhưng khi đứng trước núi non rộng lớn, họ vẫn giữ vững được tư thế hiên ngang, lừng lẫy làm chủ đất trời rộng lớn. Phàm là phận nam nhi, dù có đứng trước hiểm nguy hay nhọc nhằn vẫn không mất đi dáng vẻ “đầu đội trời, chân đạp đất”. Câu thơ còn thể hiện quan điểm của nhà thơ về chí làm trai. Ông cha ta cũng từng có câu: “Làm trai cho đáng nên trai”. Nguyễn Công Trứ thì viết:
“Chí làm trai Nam, Bắc, Tây, Đông
Cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể”
Trong câu thơ của Phan Châu Trinh chí làm trai thật lớn lao, mạnh mẽ. Nhân vật trữ tình hiện lên trong tư thế làm chủ, hiên ngang, đầu đội trời, chân đạp đất, vô cùng anh dũng, kiêu hùng. Đây cũng là nét mới trong cách thể hiện chí làm trai của ông. Những câu thơ tiếp theo, nhà thơ đi sâu vào miêu tả công việc khổ sai của người tù cách mạng. Đó là công việc đập đá - một công việc vất vả, nặng nhọc. Tác giả đã sử dụng hàng loạt động từ “làm cho”, “xách búa, “đánh tan”, “đập bể” kết hợp bút pháp cường điệu với các hình ảnh “núi non”, “năm bảy đống”, “mấy trăm hòn”. Từ đó, hình ảnh người chí sĩ cách mạng hiện lên với một tư thế thật đẹp đẽ cùng sức mạnh thật phi thường.
Không dừng lại ở đó, khi đọc bốn câu thơ tiếp, người đọc đã cảm nhận được hình ảnh người tù cách mạng hiện lên với sức khỏe dẻo dai cùng ý chí kiên cường, chiến đấu sắc son chống lại kẻ thù:
“Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể sự con con”
Nhà thơ đã xây dựng các hình ảnh đối lập “tháng ngày” - “mưa nắng” và “thân sành sỏi” - “dạ sắc son” để cho thấy sức chịu đựng bền bỉ, dẻo dai của người tù cách mạng. Dù công việc đập đá có thể kéo dài đằng đẵng hết ngày này qua ngày khác với những khổ cực. Thì người tù cách mạng vẫn không hề sờn lòng. Ngược lại, nó giống như một thứ sức mạnh to lớn giúp họ tôi luyện chính bản thân người tù. Thật đáng tự hào và ngưỡng mộ biết bao trước tinh thần kiên cường đó. Bài thơ khép lại như một lời tự ý thức sâu sắc về trách nhiệm của người tù cách mạng đối với sự nghiệp cứu nước. Hình ảnh “vá trời” gợi cho ta liên tưởng về sự tích “Nữ Oa vá trời” để từ đó khẳng định sức mạnh to lớn của người chiến sĩ cách mạng trong công cuộc bảo vệ đất nước. Chính họ hiểu được rằng đó là một công việc gian khổ, vất vả nhưng cũng đầy vinh quang, tự hào. Cùng với đó là thái độ coi thường những khổ cực đó - “gian nan chi kể sự con con”, khó khăn, vất vả nơi nhà tù chẳng thấm vào đâu.
Tóm lại, bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” là một bài thơ giàu ý nghĩa. Qua công việc rất cụ thể là đập đá của người chiến sĩ cách mạng, người đọc đã thấy được tư thế hiên ngang cùng với ý chí bền bỉ của họ.
Cảm nhận về bài thơ Đập đá ở Côn Lôn - Mẫu 4
Phan Châu Trinh là một nhà hoạt động cách mạng tiêu biểu trong những năm đầu của thế kỷ XX. Không chỉ vậy, ông còn là một nhà thơ, nhà văn chính luận có nhiều tác phẩm đặc sắc. Bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của ông.
Tác phẩm được viết trong một hoàn cảnh đặc biệt, khi Phan Châu Trinh bị thực dân Pháp khép vào tội xúi giục nhân dân Trung Kỳ chống thuế và bị bắt đày ra Côn Đảo, bị buộc phải lao động khổ sai với công việc khai thác đá.
Khi đọc bốn câu thơ đầu tiên, người đọc sẽ cảm nhận được đầu quan điểm của tác giả về chí làm trai, cũng như sự vất vả, cực nhọc của công việc lao động khổ sai khi bị lưu đày tại Côn Đảo.
“Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn”
Câu thơ đầu tiên “Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn” đã mở ra một hình dung về bối cảnh không gian rộng lớn. Đồng thời thông qua đó tọa dựng tầm vóc và tư thế hiên ngang của con người trong trời đất, bộc lộ khí phách của một người anh hùng, sừng sững giữa đất trời. Trong đó hai từ “làm trai” gợi đến những quan niệm về chí hướng của bậc nam nhi thời xưa. Trong nền giáo dục truyền thống chịu ảnh hưởng bởi Nho học, người ta luôn quan niệm rằng làm trai thì phải trả món nợ công danh - đó là phải làm nên sự nghiệp, đáp đền cho Tổ quốc. Có thể kể đến một số nhà văn từng bày tỏ quan điểm về vấn đề này như Nguyễn Công Trứ:
“Chí làm trai Nam, Bắc, Tây, Đông
Cho thỏa sức vẫy vùng trong bốn bể”
Hay Phan Bội Châu: “Làm trai phải lạ ở trên đời” tức là không cam chịu cuộc sống tầm thường, mà luôn hướng tới những lý tưởng vĩ đại phi thường, tiêu biểu như sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Hoặc như Phạm Ngũ Lão trong bài “Tỏ lòng”:
“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”
Ý nghĩa của câu thơ là thân là nam nhi mà chưa trả được nợ công danh thì ắt phải xấu hổ khi nghe chuyện nhà Gia Cát.
Đến “Đập đá ở Côn Lôn”, Phan Châu Trinh đã thể hiện lòng kiêu hãnh, ý chí tự khẳng định mình, khát vọng hành động mãnh liệt, sẵn sàng làm nên những việc lừng lẫy rung chuyển núi sông. Đặc biệt nhân vật trữ tình với tư thế “đứng giữa” trời đất ở Côn Lôn, đối diện với núi non sừng sững, lại càng làm nổi bật lên vẻ đẹp oai hùng, hiên ngang của trang nam tử với ý chí cao ngút trời xanh. Khẳng định tầm vóc của con người khi đứng trước thiên nhiên, trời đất không hề bị lu mờ mà càng trở nên, rõ ràng, sắc nét, mang vẻ đẹp hùng tráng, mà vẻ đẹp ấy vốn toát ra từ chính ý chí nam nhi, từ những khát vọng to lớn trong công cuộc giải phóng dân tộc vĩ đại.
Đến ba câu thơ tiếp theo, nhà thơ tiếp tục cho người đọc hình dung về công việc lao động khổ sai cực nhọc. Người tù cách mạng phải dùng sức người đập đá, với khối lượng công việc lớn. Thế mà giọng điệu thơ của Phan Châu Trinh ở đây lại hết sức mạnh mẽ, hùng hồn như đang bước vào một trận chiến mãnh liệt. Các từ ngữ “lừng lẫy”, “đánh tan”, “đập bể”... đã thể hiện được sức mạnh, tầm vóc của con người trong những công việc lao động vất vả, nhưng không hề vì thế mà nao núng, chán chường. Mà từ một công việc lao động khổ sai vất vả, Phan Châu Trinh đã biến nó thành một công cuộc chinh phục thiên nhiên đầy thách thức, mà con người trong đó luôn tràn trề sức sống, sinh lực, sẵn sàng chinh phục mọi đỉnh cao. Bộc lộ khẩu khí ngang tàn, ngạo nghễ của một con người tuy chịu cảnh tù đày thế nhưng vẫn hiên ngang mạnh mẽ, tinh thần lạc quan, tầm vóc sáng ngang sơn hà. Tạo dựng được một tượng đài về người anh hùng vượt lên trong nghịch cảnh, chiến thắng số phận, với khí phách hiên ngang lẫm liệt, sừng sững giữa đất trời, cũng như trong chính lòng giặc thù.
Nếu như bốn câu thơ đầu tập trung thể hiện khí phách, tầm vóc của người anh hùng giữa đất trời, thì ở bốn câu thơ cuối vẻ đẹp tâm hồn của Phan Châu Trinh lại càng được bộc lộ một cách rõ ràng, bổ sung cho phong thái ngạo nghễ, hiên ngang của người anh hùng trước những hoàn cảnh khó khăn, ngục tù, luôn giữ vững niềm tin và ý chí sắt son vào con đường mình đã chọn không đổi dời.
“Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con”
Vẻ đẹp tâm hồn kiên định cùng ý chí mạnh mẽ đã được tác giả thể hiện thật tinh tế qua sự đối lập trong hai câu thơ 5 và 6. Người đọc dễ dàng nhận ra các hình ảnh đối lập giữa “tháng ngày” - “mưa nắng”, “thân sành sỏi” - “dạ sắc son”. Hình ảnh đối lập cho thấy những khó khăn vất vả với cuộc sống tù đày tuy kéo dài đằng đẵng hết ngày này qua ngày khác. Nhưng nó chỉ càng làm cho thân thể, ý chí người chiến sĩ thêm bền bỉ, dẻo dai, với một tấm “thân sành sỏi” và tâm hồn tác giả thêm vững chãi, một lòng kiên trung với lý tưởng cách mạng. Nhờ có những khó khăn vất vả trong cảnh tù đày càng khiến người chiến sĩ cách mạng thêm quyết tâm và tin tưởng vào sự nghiệp, lý tưởng mà mình đang theo đuổi, càng trở nên mạnh mẽ và hiên ngang giữa trời đất, chứ không thể làm suy sụp hay chán chường trước nghịch cảnh.
Câu thơ cuối cùng khiến chúng ta liên tưởng đến truyền thuyết bà Nữ Oa đội đá vá trời cứu muôn vạn sinh linh. Đó là một sự kiện phi thường mà không phải ai cũng có thể làm được. Thì ở đây bản thân Phan Châu Trinh cũng ví công cuộc tìm đường cứu nước, làm cách mạng của mình chính là một công việc “vá trời” - hết sức phi thường. Điều này càng thể hiện được cái chí lớn và khí phách anh hùng của Phan Châu Trinh trước một thời đại đầy biến động. Qua đó nhà thơ cũng thể hiện ý chí quyết tâm mạnh mẽ, niềm tin hướng về một ngày tự do không xa của tác giả, đồng thời là sự coi thường những phương cách bỉ ổi của bè lũ thực dân đối với những chí sĩ yêu nước như tác giả.
“Đập đá ở Côn Lôn” quả thật là một bài thơ hay, thể hiện rất rõ vẻ đẹp, tư thế hiên ngang sánh ngang với trời đất của người làm trai trước một thời đại nhiều biến động dữ dội của đất nước. Qua bài thơ người đọc cũng cảm nhận được ý chí quyết tâm của người tù cách mạng với sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Cảm nhận về bài thơ Đập đá ở Côn Lôn - Mẫu 5
Có những người anh hùng dù bị gông tù giam cầm nhưng vẫn hiên ngang, ngẩng cao đầu hướng về tương lai. Có những người tù bị tra tấn dã man nhưng vẫn cất cao lời ca yêu nước, yêu dân. Bài “Đập đá ở Côn Lôn” của Phan Châu Trinh là một bài thơ tiêu biểu cho tinh thần như vậy, đồng thời khẳng định chí làm trai ở trên đời cần phải sống có lý tưởng, có mục tiêu.
Nhắc đến đảo Côn Lôn, chúng ta lại nhớ đến nhà tù Côn Đảo, nơi đã giam giữ biết bao nhiêu người con cách mạng. Nơi đó có máu, có nước mắt và có cả những khát khao được đập tung cánh cửa nhà tù, ra với thế giới bên ngoài để kháng chiến chống lại kẻ thù.
Bài thơ là tiếng hát, tiếng lòng của người anh hùng cách mạng được cất lên giữa gông cùm Côn Đảo. Giọng thơ hào hùng, đanh thép tạo nên âm hưởng chủ đạo cho cả bài thơ.
Hai câu thơ mở đầu đã khẳng định chí làm trai khi sống trên đời này cần phải hiên ngang, bất khuất:
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
Lừng lẫy làm cho lở núi non
Hình ảnh một con người hiện lên giữa nhà tù Côn Lôn thật hiên ngang, trong tư thế ngẩng cao đầu. Dù bị giam cầm, bị khổ sai nhưng vẫn “lừng lẫy”, công việc đập đá nặng nhọc, vất vả nhưng đối với người chiến sỹ cách mạng nó chỉ là việc “con con”. Người tù bỗng trở nên hùng vĩ, to lớn, mang tầm vóc vĩ đại.
Như vậy ngay từ đầu bài thơ, tác giả như ném một tiếng thét, tiếng lòng đầy sức sống vào giữa chốn ngục tù tăm tối; khắc họa thành công người con cách mạng. Đây cũng chính là cảm hứng chính của bài thơ.
Hành động đập đá được Phan Châu Trinh tái diễn rất chân thực, sinh động và không kém phần hào hùng. Nhịp thơ cứ thể dãn ra, dồn dập:
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hon
Một loạt động từ mạnh xuất hiện liên tiếp trong hai câu thơ đã đặc tả sự mạnh mẽ, dứt khoát của người tù cách mạng. Việc đập đá chỉ là việc thường tình. Hình ảnh ước lệ “năm bảy đống”, “mấy trăm hòn” mang ý nghĩa phóng đại thể hiện sức mạnh phi thường, không thể địch nổi của người anh hùng cách mạng.
Cá tính mạnh mẽ, hiên ngang của người chiến sỹ ấy không chỉ dừng lại ở đó mà còn được tác giả tái hiện qua khí phách:
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng càng bền dạ sắt son
Giữa nơi đất khách quê người, tù ải khổ sai, hứng chịu sự giận giữ của thiên nhiên nhưng người tù vẫn hiên ngang, không hề sợ hãi. Ngược lại dù nắng mưa thì nó càng khiến cho “bền dạ sắt son”. Một ý chí, nghị lực đáng khâm phục và ngưỡng mộ. Hình ảnh mưa nắng hoàn toàn đối lập với hình ảnh người chiến sỹ cách mạng có lẽ là dụng ý nghệ thuật của tác giả.
Và bài thơ khép lại bằng một hình ảnh hào hùng, kiên cường hơn nữa:
Những kẻ vá trời khi lỡ bước
Gian nan chi kể việc con con
Người tù khổ sai chỉ còn việc bị đày đọa ở nhà tù Côn Đảo chỉ là “lỡ bước”, và tự nhận mình là kẻ “vá trời”. Khi làm việc lớn thì những việc như thế này không có gì làm chùn bước được. Những việc gian nan, chông gai còn rất nhiều nên người tù xem rằng không đáng kể lể. Một chí khí thật ngang tàng, một châm ngôn sống khiến người khác phải ngưỡng mộ.
Phan Châu Trinh bằng ngòi bút phóng khoáng, giọng điệu thơ hào hùng đã khắc họa thành công hình ảnh người chiến sỹ cách mạng vẫn luôn ngang nhiên, ý chí quật cường. Đó là hình tượng của những người chiến sỹ cách mạng giữ nước, chống giặc ngoại xâm.