Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858) tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hi Văn, sinh ra trong một gia đình Nho học. Ông là một tác giả tiêu biểu của thơ ca giai đoạn Trung đại. Tác phẩm của ông có thể kể đến là Bài ca ngất ngưởng được giới thiệu trong chương trình Ngữ Văn lớp 11.
Tài liệu có nội dung chi tiết sẽ giới thiệu về tác giả Nguyễn Công Trứ và tác phẩm Bài ca ngất ngưởng. Mời bạn đọc tham khảo để có thêm kiến thức hữu ích cho bản thân.
Bài ca ngất ngưởng
Bài ca ngất ngưởng
Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc bình Tây, cờ đại tướng
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên
Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng
Được mất dương dương người tái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không tiên, không vướng tục
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
I. Đôi nét về tác giả Nguyễn Công Trứ
- Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858) tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hi Văn, sinh ra trong một gia đình Nho học.
- Người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
- Từ nhỏ cho đến năm 1819, ông sống trong hoàn cảnh khó khăn, chính thời gian này, ông có điều kiện tham gia sinh hoạt ca trù.
- Năm 1819, thi đỗ Giải nguyên và được bổ làm quan, nhưng con đường làm quan không mấy bằng phẳng.
- Các tác phẩm của ông chủ yếu viết bằng chữ Nôm
- Một số tác phẩm tiêu biểu: Bài ca ngất ngưởng, Tự thuật, Vịnh mùa thu…
II. Giới thiệu về bài thơ Bài ca ngất ngưởng
1. Hoàn cảnh sáng tác
Bài thơ được sáng tác năm 1848, sau khi Nguyễn Công Trứ cáo quan về hưu.
2. Bố cục
Gồm 3 phần
- Phần 1. 6 câu đầu: ngất ngưởng trên con đường công danh, sự nghiệp
- Phần 2. 12 câu tiếp: sự ngất ngưởng trong lối sống, suy nghĩ.
- Phần 3. Còn lại: lời khẳng định cá tính của nhà thơ.
3. Thể loại
Hát nói là một điệu của ca trù nên có người còn gọi chung về ca trù. Hát nói là đã khá phổ biến từ các thế kỉ trước, nhất là cuối thế kỉ XVIII, song Nguyễn Công Trứ là người đầu tiên đã có công đem đến cho hát nói một nội dung phù hợp với chức năng và cấu trúc của nó.
4. Nội dung
Ngất ngưởng là cách Nguyễn Công Trứ thể hiện bản lĩnh cá nhân trong cuộc sống.
5. Nghệ thuật
Thể loại hát nói đặc sắc, giọng thơ hóm hỉnh, sử dụng điển cố điển tích…
6. Mở bài và kết bài
- Mở bài: Nguyễn Công Trứ là một trong những tác giả có phong cách sáng tác độc đáo. Bài thơ Bài ca ngất ngưởng của ông đã thể hiện bản lĩnh cá nhân trong cuộc sống. Tác phẩm được sáng tác năm 1848, sau khi Nguyễn Công Trứ cáo quan về hưu.
- Kết bài: "Ngất ngưởng" là cách Nguyễn Công Trứ thể hiện bản lĩnh cá nhân trong cuộc sống. Bài thơ mang đậm dấu ấn phong cách sáng tác của nhà thơ.
III. Dàn ý phân tích Bài ca ngất ngưởng
(1) Mở bài
Dẫn dắt, giới thiệu về tác giả Nguyễn Công Trứ, bài thơ Bài ca ngất ngưởng.
(2) Thân bài
a. Sự ngất ngưởng trên con đường công danh, sự nghiệp
- “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” (Mọi việc trong trời đất đều là phận sự của ta): quan niệm con người sinh ra do “ý của trời đất” bởi vậy cần phải có trách nhiệm, phải gánh vác việc đời.
- “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”:
- Hình ảnh ẩn dụ “vào lồng”: diễn tả cuộc đời làm quan, coi thường danh lợi của Nguyễn Công Trứ.
- Nhập thế là việc làm trói buộc, làm quan sẽ mất tự do, gò bó nhưng đó cũng là điều kiện để bộc lộ tài năng, hoài bão, trọn nghĩa vua tôi.
- 4 câu thơ tiếp: những việc đã làm ở chốn quan trường và tài năng của bản thân.
- Giỏi văn chương (khi thủ khoa), dùng binh (thao lược): văn võ toàn tài.
- Danh vị xã hội hơn người: Tham tán, Tổng đốc, Đại tướng (bình định Trấn Tây), Phủ doãn Thừa Thiên.
=> Lời tự thuật chân thành của nhà thơ, khẳng định tài năng và lí tưởng trung quân, lòng tự hào về phẩm chất, năng lực và thái độ sống tài từ, phóng khoáng, khác đời ngạo nghễ của một người có khả năng xuất chúng.
b. Sự ngất ngưởng trong lối sống, suy nghĩ
- Cách sống theo ý chí và sở thích cá nhân “Cưỡi bò đeo đạc ngựa, Đi chùa có gót tiên theo sau”: Sở thích kì lạ, khác thường, thậm chí có phần bất cần.
- Quan niệm sống:
- “Được mất dương dương người tái thượng/Khen chê phơi phới ngọn đông phong”: sống như người thời thượng cổ, không quan tâm chuyện được mất; bỏ ngoài tai mọi sự khen chê.
- “Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng/Không Phật, không tiên, không vướng tục”: cuộc sống hưởng thụ, không vướng trần tục.
=> Quan điểm sống kì lạ mang đậm dấu ấn riêng của nhà thơ.
- Quãng đời sau khi cáo quan về quê: “Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú/Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung”: sử dụng điển cố, ví mình sánh ngang với những người nổi tiếng có sự nghiệp hiển hách như Trái Tuân, Hàn Kì, Phú Bật. Qua đó ông cũng khẳng định tấm lòng của bậc trung thần, trước sau như một.
c. Lời khẳng định cá tính của nhà thơ
“Trong triều ai ngất ngưởng như ông”: lời hỏi cũng là lời khẳng định vị trí đầu triều về cách sống “ngất ngưởng”.
=> Khẳng định cá tính, sự mong muốn vượt ngoài quan điểm đạo đức Nho gia thông thường. Cái ngất ngưởng của ông không phải là cách sống tiêu cực mà sự khẳng định bản thân của mình, cái bản lĩnh dám sống ở đời, và một phong cách sống tài hoa tài tử.
(3) Kết bài
Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Bài ca ngất ngưởng.