Vào/ đời/ Hùng Vương/ thứ 6, ở /àng Gióng /có/ hai/ vợ chồng /ông lão /chăm/ làm ăn /và /có /tiếng /là phúc đức. Hai /ông bà /ao ước /có /một/ đứa con. Một hôm /bà/ ra/ đồng /trông thấy/ một/ vết/ chân to/ quá, liền /đặt /bàn chân /mình /lên/ ướm thử/ để xem /thua/ kém bao nhiêu.Không ngờ /về /nhà/ bà /thụ thai /và /mười hai tháng /sau/ sinh /một /thằng bé /mặt mũi /rất/ khôi ngô. Hai /vợ chồng/ mừng lắm. Nhưng /lạ thay! Ðứa trẻ /cho đến khi /lên ba/ vẫn/ không biết nói,/ biết cười,/ cũng/ chẳng biết đi,/ cứ đặt đâu /thì /nằm đấy.
Bấy giờ /có/ giặc Ân/ đến /xâm phạm/ bờ cõi/ nước ta. Thế /giặc mạnh, nhà vua /lo sợ. Bèn/ truyền'/cho /sứ giả/ đi /khắp nơi /tìm/ người tài giỏi/ cứu nước. Ðứa bé /nghe /tin,/ bỗng/ dưng /cất/ tiếng nói: "Mẹ/ ra /mời /sứ giả /vào đây". Sứ giả /vào,/ đứa bé/ bảo: "Ông/ về /tâu/ vua/sắm /cho ta /một /con ngựa sắt, /một/cái roi sắt /và /một tấm áo /giáp sắt, ta /sẽ /phá tan/ lũ giặc này".Sứ giả /vừa /kinh ngạc/, vừa/ mừng rỡ,/vội vàng/ về/ tâu /vua. Nhà vua/ truyền/ cho /thợ ngày đêm /làm gấp/ những vật /chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, /sau hôm /gặp /sứ giả, chú bé/ lớn/ nhanh như thổi. Cơm /ăn /mấy cũng không no, /áo/ vừa/ mặc xong/ đã căng đứt chỉ. Hai/ vợ chồng /làm /ra bao nhiêu/ cũng không đủ /nuôi con, thành thử /phải /chạy/ nhờ /bà con, /hàng xóm. Bà con/ đều /vui lòng/ gom góp /gạo thóc /nuôi/ chú bé, vì /ai /cũng /mong chú /giết /giặc,/ cứu nước.
Giặc/ đã /đến/ chân núi Trâu. Thế nước /rất nguy, người người /hoảng hốt. Vừa lúc đó,/ sứ giả /đem/ ngựa sắt,/ roi sắt,/ áo giáp sắt /đến. Chú bé /vùng dậy,/ vươn vai /một cái /bỗng /biến/thành/ một tráng sĩ /mình/cao hơn trượng, /oai phong /lẫm liệt. Tráng sĩ /bước lên/ vỗ/ vào mông ngựa. Ngựa hí/ dài mấy tiếng/ vang dội. Tráng sĩ /mặc áo giáp, /cầm roi /nhảy/ lên mình ngựa. Ngựa/ phun lửa, tráng sĩ /thúc /ngựa/ phi thẳng /đến nơi/ có /giặc, đón /đầu chúng /đánh /giết /hết lớp này /đến lớp khác,/ giặc /chết /như rạ. Bỗng/ roi sắt /gẫy. Tráng sĩ/ bèn /nhổ/ những cụm tre/ cạnh/ đường /quật /vào giặc. Giặc /tan vỡ. Ðám /tàn quân/ giẫm/ đạp/ nhau /chạy /trốn, tráng sĩ /đuổi /đến /chân núi Sóc (Sóc Sơn). Ðến đấy,/ một người/ một ngựa,/ tráng sĩ/ lên /đỉnh núi /cởi /giáp sắt /bỏ lại, rồi/ cả người /lẫn /ngựa /từ từ bay lên trời.
Vua /nhớ /công ơn, /không biết lấy gì /đền đáp, phong/ là Phù Ðổng Thiên Vương /và /lập đền thờ/ ngay/ ở/ quê nhà.
Hiện nay/ vẫn còn/ đền thờ/ ở /làng /Phù Ðổng, /tục /gọi là/ làng Gióng. Mỗi năm/ đến/ tháng tư /làng/ mở /hội /to lắm. Người ta /kể rằng/những bụi tre đằng ngà /ở /huyện Gia Bình /vì /ngựa/ phun lửa /bị cháy/ mới /ngả mầu vàng óng /như thế, /còn /những vết chân ngựa /nay/thành những/ hồ ao /liên tiếp. Người ta/ còn nói /khi /ngựa /thét lửa, /lửa /đã /thiêu cháy /một/ làng, /cho nên /làng /đó/ về sau /gọi là /làng Cháy.
Vào/ đời/ Hùng Vương/ thứ 6, ở /àng Gióng /có/ hai/ vợ chồng /ông lão /chăm/ làm ăn /và /có /tiếng /là phúc đức. Hai /ông bà /ao ước /có /một/ đứa con. Một hôm /bà/ ra/ đồng /trông thấy/ một/ vết/ chân to/ quá, liền /đặt /bàn chân /mình /lên/ ướm thử/ để xem /thua/ kém bao nhiêu.Không ngờ /về /nhà/ bà /thụ thai /và /mười hai tháng /sau/ sinh /một /thằng bé /mặt mũi /rất/ khôi ngô. Hai /vợ chồng/ mừng lắm. Nhưng /lạ thay! Ðứa trẻ /cho đến khi /lên ba/ vẫn/ không biết nói,/ biết cười,/ cũng/ chẳng biết đi,/ cứ đặt đâu /thì /nằm đấy.
Bấy giờ /có/ giặc Ân/ đến /xâm phạm/ bờ cõi/ nước ta. Thế /giặc mạnh, nhà vua /lo sợ. Bèn/ truyền'/cho /sứ giả/ đi /khắp nơi /tìm/ người tài giỏi/ cứu nước. Ðứa bé /nghe /tin,/ bỗng/ dưng /cất/ tiếng nói: "Mẹ/ ra /mời /sứ giả /vào đây". Sứ giả /vào,/ đứa bé/ bảo: "Ông/ về /tâu/ vua/sắm /cho ta /một /con ngựa sắt, /một/cái roi sắt /và /một tấm áo /giáp sắt, ta /sẽ /phá tan/ lũ giặc này".Sứ giả /vừa /kinh ngạc/, vừa/ mừng rỡ,/vội vàng/ về/ tâu /vua. Nhà vua/ truyền/ cho /thợ ngày đêm /làm gấp/ những vật /chú bé dặn.
Càng lạ hơn nữa, /sau hôm /gặp /sứ giả, chú bé/ lớn/ nhanh như thổi. Cơm /ăn /mấy cũng không no, /áo/ vừa/ mặc xong/ đã căng đứt chỉ. Hai/ vợ chồng /làm /ra bao nhiêu/ cũng không đủ /nuôi con, thành thử /phải /chạy/ nhờ /bà con, /hàng xóm. Bà con/ đều /vui lòng/ gom góp /gạo thóc /nuôi/ chú bé, vì /ai /cũng /mong chú /giết /giặc,/ cứu nước.
Giặc/ đã /đến/ chân núi Trâu. Thế nước /rất nguy, người người /hoảng hốt. Vừa lúc đó,/ sứ giả /đem/ ngựa sắt,/ roi sắt,/ áo giáp sắt /đến. Chú bé /vùng dậy,/ vươn vai /một cái /bỗng /biến/thành/ một tráng sĩ /mình/cao hơn trượng, /oai phong /lẫm liệt. Tráng sĩ /bước lên/ vỗ/ vào mông ngựa. Ngựa hí/ dài mấy tiếng/ vang dội. Tráng sĩ /mặc áo giáp, /cầm roi /nhảy/ lên mình ngựa. Ngựa/ phun lửa, tráng sĩ /thúc /ngựa/ phi thẳng /đến nơi/ có /giặc, đón /đầu chúng /đánh /giết /hết lớp này /đến lớp khác,/ giặc /chết /như rạ. Bỗng/ roi sắt /gẫy. Tráng sĩ/ bèn /nhổ/ những cụm tre/ cạnh/ đường /quật /vào giặc. Giặc /tan vỡ. Ðám /tàn quân/ giẫm/ đạp/ nhau /chạy /trốn, tráng sĩ /đuổi /đến /chân núi Sóc (Sóc Sơn). Ðến đấy,/ một người/ một ngựa,/ tráng sĩ/ lên /đỉnh núi /cởi /giáp sắt /bỏ lại, rồi/ cả người /lẫn /ngựa /từ từ bay lên trời.
Vua /nhớ /công ơn, /không biết lấy gì /đền đáp, phong/ là Phù Ðổng Thiên Vương /và /lập đền thờ/ ngay/ ở/ quê nhà.
Hiện nay/ vẫn còn/ đền thờ/ ở /làng /Phù Ðổng, /tục /gọi là/ làng Gióng. Mỗi năm/ đến/ tháng tư /làng/ mở /hội /to lắm. Người ta /kể rằng/những bụi tre đằng ngà /ở /huyện Gia Bình /vì /ngựa/ phun lửa /bị cháy/ mới /ngả mầu vàng óng /như thế, /còn /những vết chân ngựa /nay/thành những/ hồ ao /liên tiếp. Người ta/ còn nói /khi /ngựa /thét lửa, /lửa /đã /thiêu cháy /một/ làng, /cho nên /làng /đó/ về sau /gọi là /làng Cháy.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 6 - Là năm đầu tiên của cấp trung học cơ sở. Được sống lại những khỉ niệm như ngày nào còn lần đầu đến lớp 1, được quen bạn mới, ngôi trường mới, một tương lai mới!
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK