+ Suy nghĩ về vấn đề chủ quyền độc lập dân tộc trong thời điểm hiện nay. Được sống trong cuộc sống tự do, hòa bình như ngày nay là công lao của bao thế hệ ông cha bảo vệ xây dựng nên.
+ Nhận thức được trách nhiệm của bản thân trong việc giữ gìn, bảo vệ xây dựng Tổ quốc.
bài cảm nghĩ
Mở đầu đoạn trích, tác giả đã thể hiện lòng tự hào dân tộc qua việc nêu cao nguyên lý nhân nghĩa, là nguyên lý cơ bản làm nền tảng, cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa.
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Nhân nghĩa vốn là khái niệm đạo đức của Nho giáo nói về đạo lí, cách ứng xử và tình thương giữa con người với nhau. Ở đây tác giả đã tiếp thu tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo theo hướng lấy lợi ích của nhân dân làm gốc và mở rộng khái niệm nhân nghĩa. Nhân nghĩa không những trong quan hệ giữa người với người mà còn có trong quan hệ giữa dân tộc với dân tộc. Đây là nội dung mới, sự phát triển tư tưởng mới về nhân nghĩa của Nguyễn Trãi so với Nho giáo. Cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là “yên dân” và “trừ bạo”. “Yên dân” nghĩa là nhân dân được sống yên vui, hạnh phúc. Mà muốn yên dân thì trước hết phải tiêu diệt những kẻ tàn ác, bạo ngược để bảo vệ dân lành. Người dân mà tác giả nói đến ở đây là những người dân Đại Việt đang phải chịu bao đau khổ dưới ách thống trị của giặc Minh. Những kẻ bạo ngược mà tác giả nói đến ở đây là những kẻ đã gây ra biết bao đau thương, khổ cực cho nhân dân ta, đó chính là quân xâm Minh nói riêng và bề lũ xâm lược nói chung. Đối với Nguyễn Trãi yêu nước gắn liền với đánh giặc để cứu nước cứu dân, vì độc lập của đất nước, vì tự do, hạnh phúc, hòa bình của nhân dân. Có thể nói, tư tưởng nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi không còn là phạm trù đạo đức hạn hẹp mà là một lí tưởng xã hội tiến bộ, tích cực, nhân quyền dân tộc: phải chăm lo cho nhân dân được sống cuộc hạnh phúc, yên bình. Điều quan trọng hơn là ở đây, Nguyễn Trãi nâng lý tưởng, nỗi niềm ấy lên thành một chân lí. Ông không nói đến nhân nghĩa một cách chung chung mà đi vào khẳng định hạt nhân cơ bản, cốt lõi và có giá trị nhất.Dựa vào nhân nghĩa và chính tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi mà nó đã trở thành sức mạnh vô địch để nghĩa quân của ta chiến thắng giặc Minh.
Sau khi tuyên ngôn về nhân nghĩa, tác giả đã thể hiện lòng tự hào dân tộc qua việc tuyên ngôn về nền độc lập, có chủ quyền của nước Đại Việt:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cỡi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu Đinh Lí Trần bao đời xây nên độc lập
Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Nguyễn Trãi đã đưa ra những yếu tố căn bản để xác định độc lập, chủ quyền dân tộc: nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử riêng, chế độ riêng với “hào kiệt đời nào cũng có”. Những thực tế khách quan mà tác giả đưa ra là chân lí không thể phủ nhận. Khi nêu chân lí khách quan, Nguyễn Trãi đã phát biểu đồng thời một cách hoàn chỉnh quan niệm của mình về quốc gia, dân tộc. Người đời sau vẫn thường xem đoạn thơ trên là tiêu biểu và kết tinh học thuyết về quốc gia, dân tộc của Nguyễn Trãi.
Sức thuyết phục của văn chính luận Nguyễn Trãi là ở chỗ kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và thực tiễn. Quả đúng như vậy! Người anh hùng Nguyễn Trãi đã tự tin khẳng định truyền thống văn hiến lâu đời của nước Việt ta, được hình thành từ khi đất nước ta tồn tại theo hàng nghìn năm lịch sử đã tạo nên một diện mạo riêng của dân tộc.
Và quả thực chúng ta rất tự hào bởi trên thực tế:
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Nhân dân ta có chủ quyền, có thuần phong mỹ tục riêng làm nên hai phương Bắc - Nam khác biệt. Ở đây, Nguyễn Trãi nhấn mạnh cả Trung Quốc và Đại Việt đều có những nét riêng không thể nhầm lẫn, thay đổi hay xóa bỏ được.
Chúng ta tự hào về những trang lịch sử:
Từ Triệu Đinh Lí Trần bao đời xây nên độc lập
Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Ta có nền độc lập vững vàng được xây bằng những trang sử vẻ vang, có tổ chức nhà nước với người đứng đầu là vua. Việc xưng đế đã thể hiện ý chí tự tôn dân tộc. Bởi lẽ trong quan niệm ngày xưa, chỉ có Trung Hoa được xưng đế còn vua của nước nhỏ chỉ được xưng chư hầu không được xưng đế. Việc xưng đế đã khẳng định chắc nịch một điều ta và Trung Hoa là những nước độc lập bình đẳng với nhau. Chính vì vậy không có lí do gì để Trung Hoa kéo quân xâm lược nước ta.
Hơn thế nữa, bao đời nay:
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Điều quan trọng làm nên sự thịnh vượng của một quốc gia không thể không kể đến yếu tố nhân tài. Nhân tài chính là vận mệnh đất nước. Trong cả một quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước đã có biết bao nhiêu vị anh hùng làm rạng danh non sông cũng như có biết bao nhiêu thế hệ với ngàn ngàn lớp lớp người vô danh đã ngã xuống để bảo vệ độc lập dân tộc. Câu thơ như lời răn đe đối với những ai, những kẻ nào, nước nào muốn thơn tính Đại Việt.
Tác giả đã sử dụng nhiều lớp từ ngữ diễn đạt tính chất hiển nhiên, vốn có lâu đời của nước đại việt ta. các từ như: từ trước, vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác,… Bên cạnh đó, biện pháp so sánh kết hợp với liệt kê cũng tạo cho đoạn văn hiệu quả cao trong lập luận (tác giả đặt nước ta ngang hàng với Trung Hoa về nhiều phương diện như: trình độ chính trị, văn hóa,…), nếu không có một lòng tự hào dân tộc mãnh liệt thì không thể nào có sự so sánh cực kì hay và tinh tế như vậy. Đặc biệt, những câu văn biền ngẫu, chạy song song liên tiếp với nhau cũng giúp cho nội dung chân lí mà tác giả muốn khẳng định chắc chắn và rõ ràng hơn.
So với ý thức về quốc gia dân tộc trong bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc – bài thơ “Nam quốc sơn hà” thì học thuyết về quốc gia, dân tộc của Nguyễn Trãi phát triển cao hơn bởi tính toàn diện và sâu sắc của nó. Toàn diện vì ý thức về dân tộc trong “Nam quốc sơn hà” của Lí Thường Kiệt mới chỉ ra độc lập dân tộc trên lĩnh vực cương vực lãnh thổ và căn cứ mà Lí Thường Kiệt xác định tại sách trời ở trong câu “Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”, nhưng đối với Nguyễn Trãi, ý thức về độc lập dân tộc còn được mở rộng, bổ sung thành các yếu tố mới: đó là nền văn hiến lâu đời, đó là phong tục tập quán riêng, truyền thống lịch sử anh hùng, hào kiệt, ông lấy thực tiễn lịch sử là căn cứ xác định độc lập dân tộc chứ không ở “thiên thư” – sách trời. Sâu sắc ở chỗ : trong quan niệm về dân tộc, Nguyễn Trãi đã ý thức được “văn hiến”, truyền thống lịch sử là yếu tố cơ bản nhất, là hạt nhân để xác định dân tộc. Với những yếu tố căn bản này, Nguyễn Trãi đã phát biểu một cách toàn diện hơn, tiến bộ hơn quan niệm về quốc gia dân tộc. Tất cả các yếu tố đó tạo nên tầm vóc Đại Việt, sức mạnh Đại Việt để đánh bại mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù.
Cuối cùng niềm tự hào dân tộc còn được tác giả khẳng định qua sức mạnh nhân nghĩa:
Vậy nên:
“Lưu Cung… Chứng cớ còn ghi”
Đây là những chứng cớ về những chiến công đã từng được ghi trong sử sách có sức thuyết phục cao mang tính hiển nhiên. Kẻ nào đến xâm phạm nước ta chắc chắc sẽ bị trừng trị chuốc lấy bại vong. Nguyễn Trãi đã tổng kết những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giữ gìn nền độc lập dân tộc. Cách liệt kê, chỉ ra dẫn chứng rõ ràng, cụ thể, xác thực đã được công nhận bằng những lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Người đọc thấy ở đây ý thức dân tộc của Nguyễn Trãi đã vươn tới một tầm cao mới khi nêu cụ thể, rõ ràng từng chiến công oanh liệt của quân và dân ta: “cửa Hàm Tử”, “sông Bạch Đằng”,..thêm vào đó là sự xem thường, căm ghét đối với sự thất bại của những kẻ xâm lược không biết tự lượng sức : “Lưu Cung..tham công”, “Triệu Tiết… thích lớn”, Toa Đô, Ô Mã, tất cả chúng đều phải chết thảm. Đoạn thơ đã một lần nữa khẳng định rằng: Đại Việt là một quốc gia có độc lập, tự chủ, có nhân tài, có tướng giỏi, chẳng thua kém gì bất cứ một quốc gia nào. Kẻ nào đến xâm lược nước ta chắc chắn sẽ bị trừng trị chuốc lấy bại vong. Cuộc chiến chống lại quân giặc, bảo vệ dân tộc là một cuộc chiến vì chính nghĩa, lẽ phải, chứ không như nhiều cuộc chiến tranh phi nghĩa khác, cho nên, dù thế nào đi nữa, chính nghĩa nhất định thắng gian tà theo quy luật của tạo hóa.
Nguyễn Trãi là một nhà chính trị, quân sự tài ba và lỗi lạc, ông tích cực tham gia và đóng góp nhiều nhiều công lao to lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh của Lê Lợi với vai trò là một quân sư.Nói đến ông là nói đến một nhà nho yêu nước hết lòng, có vốn hiểu biết sâu rộng trong nhiều lĩnh vực, hơn cả là chính trị và văn chương. Văn chương của ông bừng sáng với những tác phẩm như: Bình Ngô đại cáo, Quốc Âm thi tập, Ức Trai thi tập,.... Trong số đó Bình Ngô đại cáo được coi là tác phẩm tiêu biểu, làm tên tuổi Nguyễn Trãi sáng ngời trên văn đàn. “Bình ngô Đại Cáo” cho thấy sự mới mẻ, tiến bộ trong cách nhìn, cũng như quan niệm về độc lập, chủ quyền và những giá trị nhân văn cốt lõi cao đẹp của Nguyễn Trãi.
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
“Nhân nghĩa” là tư tưởng cốt lõi, xuyên suốt cả tác phẩm Bình ngô đại cáo, đó là tư tưởng yêu thương dân, mà rộng hơn là lòng thương người, không vì quỷ kế hèn mọn mà chịu khuất phục. Tư tưởng “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi được ảnh hưởng khá nhiều bởi tư tưởng của đạo Phật, do đó mà thấm nhuần tính nhân văn và những chân giá trị truyền thống của dân tộc . Nhân nghĩa trong tư tưởng của Nguyễn Trãi là “yên dân”, nghĩa là làm sao để nhân dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc, an lạc, thái bình, thịnh trị, không có chiến tranh loạn lạc xảy ra khắp nơi. Muốn được như thế, điều mà quân điếu phạt phải làm, cần phải nêu cao đó là “trừ bạo”. Chỉ khi diệt trừ các thế lực bạo tàn,đang lăm le xâm lược bờ cõi nước ta thì dân chúng may ra mới không phải chịu cảnh loạn lạc, tư tưởng “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi đã khiến độc giả cảm động bởi tấm lòng yêu thương dân đen con đỏ, một lòng vì nước, vì dân.
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có".
Chỉ bằng những câu thơ ngắn gọn, tác giả đã điểm qua hàng loạt các triều đại cũng như truyền thống lâu đời của dân tộc với giọng điệu tự hào. Một lần nữa thi hào Nguyễn Trãi khẳng định nền văn hiến lâu đời, khẳng định chiều dài lịch sử nghìn năm văn hiến của dân tộc, lập luận một cách hào sảng những chiến tích lừng lẫy của cha ông ta để góp phần giữ giang sơn vững chắc. Nếu như trước đó, trong “Nam quốc sơn hà”, ác giả Lý Thường Kiệt cũng khẳng định độc lập về chủ quyền, lãnh thổ của dân tộc, nhưng dựa vào những chứng cứ sách lực siêu nhiên là “thiên thư”, phần nào có sự trừu tượng, xa xôi. Nhưng đến Nguyễn Trãi, ông đã lấy quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc để làm bảo chứng, do đó vô cùng thuyết phục, gần gũi, mà rất đỗi thiêng liêng cao cả. Dẫn chứng được ông chọn lọc vô cùng thuyết phục, rằng Đại Việt là nước độc lập có nền văn hiến lâu đời, có truyền thống tốt đẹp và có nền văn hóa riêng biệt, mỗi vùng miền trên đất nước đều mang những phong tục tập quán khác nhau. Bên cạnh đó, nhà thơ còn so sánh ta cùng các triều đại phong kiến phương Bắc với giọng điệu hùng hồn. Như một lời nhấn mạnh, lời tuyên bố cho sự tồn tại độc lập chủ quyền của một quốc gia.
Thêm vào đó, trong những câu thơ kết thúc đoạn mở đầu của tác phẩm, tác giả Nguyễn Trãi đã khéo léo điểm lại những chiến thắng lịch sử huy hoàng, vang dội của quân và dân ta trong lịch sử.
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cứ còn ghi.
Ông đã đưa ra những chứng cứ, những sự việc đã xảy ra trong lịch sử với sự thất bại thảm hại của quân giặc - Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã như một lời khẳng định về sức mạnh, về sự chiến thắng tất yếu dành cho những con người, những dân tộc luôn đứng trên nền tảng của chính nghĩa để đấu tranh.Cuối cùng, Nguyễn Trãi đã tái hiện lại những thất bại thảm hại của quân giặc sang xâm chiếm Đại Việt. Bằng những từ ngữ miêu tả sự thảm bại của quân giặc và tự hào về những chiến công oanh liệt của dân tộc, người đọc thấy được 1 tinh thần hào sảng của nhà thơ.
Tóm lại, có thể thấy, đoạn mở đầu của tác phẩm "Bình Ngô đại cáo" với giọng văn hào hùng, tràn đầy niềm tự hào dân tộc, Nguyễn Trãi đã làm bật nổi tư tưởng chính nghĩa và chân lí độc lập khách quan của dân tộc.. Bình Ngô đại cáo được so sánh là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai và có sức tồn tại vĩnh cửu trong nền văn học Việt Nam.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 10 - Năm thứ nhất ở cấp trung học phổ thông, năm đầu tiên nên có nhiều bạn bè mới đến từ những nơi xa hơn vì ngôi trường mới lại mỗi lúc lại xa nhà mình hơn. Được biết bên ngoài kia là một thế giới mới to và nhiều điều thú vị, một trang mới đang chò đợi chúng ta.
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK