Trang chủ Ngữ văn Lớp 9 giúp mk vs Phân tích tình yêu làng của ông...

giúp mk vs Phân tích tình yêu làng của ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân (viết bài văn nha) câu hỏi 3924528 - hoctapsgk.com

Câu hỏi :

giúp mk vs Phân tích tình yêu làng của ông Hai trong tác phẩm Làng của Kim Lân (viết bài văn nha)

Lời giải 1 :

Văn học Việt Nam đã xây dựng thành công hình ảnh những con người Việt Nam kiên cường, bất khuất với một tình yêu quê hương đất nước tha thiết, sâu nặng. Bên cạnh hình ảnh những chiến sĩ trực tiếp chiến đấu trên mặt trận còn có những con người hi sinh lặng thầm nơi hậu phương để góp phần vào thắng lợi của kháng chiến. Đó là những người nông dân có lòng yêu nước thiết tha, bình dị, sâu sắc. Truyện ngắn Làng của Kim Lân đã xây dựng thành công hình ảnh nhân vật ông Hai – một người nông dân chân chất nhưng mang nặng tình yêu làng và lòng yêu quê hương, có tinh thần kháng chiến mạnh mẽ.

          Ông không thuộc hàng cung đình mà số phận có thể tiêu biểu như một người nông dân một thời như anh Pha, chị Dậu; cũng không thuộc hàng vai vế có “miếng” có “tiếng” trong làng. Ông chỉ là một người nông dân hay làm, chịu khó và có lẽ khéo tay nữa. Nhưng ông không phải là người nông dân hiền lành, ăn no vác nặng, kiểu người mà tầm mắt và suy nghĩ suốt đời không vượt khỏi lũy tre làng. Ông Hai vui tính và hay chuyện nữa, và tinh khôn láu lỉnh, cái tinh khôn láu lỉnh của người nông dân đã đi đây đi đó, đã tiếp xúc nhiều. Cái buồn cười đáng mến của ông già cái gì – cũng – biết: “rất thành thạo mà chẳng đâu vào đâu”, cảnh mà ông đi “nghe đọc báo – ông khổ tâm hết sức nhưng không muốn ai biết mình đọc còn quá kém – “Ông ghét thậm những anh cậy ta đây lắm chữ, đọc báo lại cứ đọc thầm một mình, không đọc thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy. Chỉ một cảnh ông già nông dân nghe anh dân quân hình như mới đọc, đánh vần được chữ nào đọc luôn chữ ấy, ngòi bút kể chuyện của Kim Lân đã dựng nên rõ rệt cái không khí kháng chiến của một thời. Ông bàn những chuyện “quốc gia đại sự’, như để Đác-giăng li-ơ đi đi về về là sự sai khiến của ông. Ta bố trí nó thế này, ta bố trí nó thế khác, ta chính trị nó thế này, ta chính trị nó thế kia…” thật say sưa, sảng khoái và hưng phấn, mặc dù chính ông vẫn biết là “học lỏm cả đấy thôi”, nhưng vẫn thích thú tự hào.Chỉ bằng vài ba nét miêu tả, tác giả Kim Lân đã tái hiện được chân dung một mẫu người lí thú, rất thật, rất sống động, rất thường gặp ở xung quanh ta.

Tính cách của ông Hai bộc lộ ngay qua lời nói, cử chỉ, mà ta có cảm tưởng như dễ dàng biết hết cả: những con người như vậy làm sao chịu được cảnh tù túng trong gian nhà tản cư ở nhờ ở đậu, trong ánh sáng chập chờn của ánh đèn dầu, trong tiếng lầm nhầm tính toán của món tiền nhặt nhạnh hàng ngày của vợ… Ông phải đi tìm người nói chuyện, và câu chuyện thường là một điều tự nhiên trong tính cách của con người hay chuyện, ưa giao tiếp, thích hiểu biết, cái hiểu biết do học lỏm của người nghèo. Như đã nói đối với người nông dân, cái làng là tất cả và ông Hai thích khoe làng, khoe tất cả những cái gì “hơn người” ở làng ông, bởi cái làng chính là ông, là những gì tốt đẹp nhất của ông. Những nhận thức chính trị của người nông dân này tuy đơn giản mà dứt khoát và rạch ròi: Trước đây ông mê man ca ngợi cái làng của viên Tổng đốc người làng, đến lúc thấy thù, thấy khổ vì nó, ông lại khoe những gì ngược lại: thế giới của ông. Ông đi nghe những ngày tổng khởi nghĩa, những ngày kháng chiến… vẫn là cái làng ấy, nhưng bây giờ là cái làng “của ta”, của ông và những người như ông.

          Bây giờ trong lúc xa làng, trong cái cuộc sống chật hẹp tù túng này, cái làng càng trở nên đẹp đẽ. Những điều mà ông vẫn nói về làng trong lúc khỏe hẳn có tô vẽ lên thêm bây giờ trở thành niềm tin, sự say mê, thành ước vọng của ông. Tối này sang tối khác, ông nói về làng, “làm như bác Thứ (ông hàng xóm) cũng quen biết và bận tâm đến những thứ ấy bằng những lời đối thoại trách móc ông hàng xóm lãng ý không nghe chuyện, nhưng thực ra, ông Hai đâu có cần điều ấy lắm, ông nói cho chính mình, cho thỏa nỗi nhớ, nỗi ao ước của mình. Tình hơn khi miêu tả cuộc sống của “ba bốn nếp tản cư” trong những gia đình chủ nhà tinh quái như mụ chủ nhà ông Hai. Nhân vật mụ chủ này phảng phất sự tham lam tai ác của những nhân vật đàn bà nông thôn trước Cách mạng tháng Tám trong truyện ngắn của Nam Cao. Những người đàn bà xấu xí quá quắt mà không biết là mình ác. Tác giả vẽ hơi kĩ về mụ, là để viền một nét tương phản vào hình ảnh ông Hai. Ông dễ tính, xởi lởi nhưng không thể chấp nhận, con người đẹp trong ông tương phản gay gắt với những gì bình thường, tối tăm đến ti tiện với mụ chủ. Ông ghét lây cả người chồng hiền lành của mụ vì lẽ anh ta không biết “dạy” vợ. Khổ nhất cho ông Hai là phải bó mình trong gian nhà chật hẹp, lo đối phó với người đàn bà quá quắt như người đàn bà này. Vì thế, có dịp là ông bỏ nhà đi ngay, phó mặc mọi sự cho con, dù vẫn biết để dặn con: “Nó thì rút ruột ra…”.

          Phút giây sảng khoái, sung sướng nhất của ông Hai có lẽ là buổi trưa hôm ấy, lúc ông phóng bước trên con đường làng “Trời xanh lồng lộng, có những tảng mây sáng chói lừ đừ… Ông Hai đi nghênh ngang giữa đường vắng…” ông thoát ra ngoài sự tù túng, lao vào thế giới của ông. ông đi nghe tin tức, ông phấn khởi trước những thắng lợi của kháng chiến, ông vui cả với cái nắng chang chang để cho “Tây nó ngồi trong vị trí giờ này bằng ngồi tù” – “Ruột gan ông cứ múa cả lên…”. Đúng lúc ấy, cái tin sét đánh về làng ông đưa đến. Tin dữ không phải là cái làng đẹp đẽ ấy bị đốt trụi, nhà cửa, ruộng đất, mồ mả ông cha của ông bị mất, mà cả làng chúng nó Việt gian theo Tây…”. Tội nghiệp ông già vui tính, hay chuyện, mong ngóng chờ từng tin tức của làng, lúc này phải “vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác” rồi “cúi gằm mặt đi thẳng”, “cổ ông lão nghẹn đắng cả lại, da mặt tê rân rân… Ông lão lặng đi tưởng như không thở được”. Cơ sự ấy về làng ông có lẽ ông chưa bao giờ tưởng tượng, cũng như nỗi đau nỗi nhục đang đến trong ông có lẽ chưa từng biết. Phải chăng đến lúc này, lần đầu tiên ông mới phải dùng lí trí để suy nghĩ về cái làng của ông, mới phải trăn trở về tình yêu làng trong ông. Cái làng bây giờ không phải chỉ là thôn ngõ xóm, những hào những ụ giao thông, những ao làng những giếng làng xây đá ong, đường gạch đi không lấm chân… những cái hơn người mà ông từng khoe nữa. Làng bây giờ là một cái gì lớn hơn, là danh dự, là chỗ đứng, là cái lẽ để làm người. Suốt cả cái nước Việt Nam này, người ta ghê tởm thù hằn cái giống Việt gian bán nước…” Làng, bây giờ trong ý thức ông Hai, gắn liền với nước, với kháng chiến.

Tình yêu làng, yêu nước, hòa quyện trong tâm hồn người nông dân mộc mạc, chất phác thật đẹp biết bao. Làng của Kim Lân là một khúc ca về tình yêu quê hương đất nước mà những người lao động nghèo là những thanh âm trong trẻo, réo rắt nhất, để lại bao dư âm lắng đọng trong lòng độc giả.

Thảo luận

-- bn tự lm hả
-- Uk Sao bạn
-- mk hỏi cho chắc ấy mà , mk định lấy mấy câu
-- Uk

Lời giải 2 :

  Hình tượng người nông dân từ lâu đã trở thành đề tài quen thuộc, được các nhà văn nổi tiếng hướng đến thể hiện. Nếu như trước Cách mạng Tháng Tám, Ngô Tất Tố mang tới một chị Dậu với sức sống mãnh liệt của người nông dân, Nam Cao mang tới một Lão Hạc đầy lòng tự trọng và tình yêu thương con vô bờ bến,… thì sau Cách mạng Tháng Tám, Kim Lân – nhà văn nông dân – mang tới cho bạn đọc hình ảnh người nông dân thời kì đổi mới. Đó chính là nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” với tình yêu làng quê và lòng yêu nước sâu đậm, tha thiết.

 Sinh ra và lớn lên nơi làng quê Việt Nam, giữa những người nông dân chất phác, nhà văn Kim Lân đã sớm gắn bó và am hiểu sâu sắc về cuộc sống ở nông thôn, sáng tác nhiều tác phẩm về đề tài này. Trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi người dân miền Bắc được lệnh tản cư, ông lại một lần nữa khắc họa hình ảnh người nông dân trong truyện ngắn “Làng”, không phải trong những vấn đề thường nhật, mà về tình yêu làng quê và đất nước của những con người chân lấm tay bùn ấy. Tác phẩm được đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ năm 1948, đánh dấu bước chuyển biến tích cực trong hình tượng người nông dân và nhân thức của họ, đặc biệt qua nhân vật ông Hai.

  Nét tính cách đầu tiên và dễ nhận thấy nhất ở ông Hai là tình yêu tha thiết đối với làng Dầu. Đối với người nông dân, làng không chỉ là một đơn vị hành chính, địa lí. Ở đó chứa đựng cuộc sống của họ, tất cả những gì gần gũi và thân thuộc với họ. Làng chính là quê hương, là cuộc đời họ. Ông Hai cũng vậy, ông có tính hay khoe làng với tất cả niềm hãnh diện. “Ông nói về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai mắt ông sáng hẳn lên, khuôn mặt biến chuyển hoạt động.” Tình yêu làng đã biến ông Hai thành một con người hoàn toàn khác so với một ông Hai bị gò bó, tù túng trong căn bếp tản cư. Một nguồn sinh lực mới như dồi dào trong ông lúc đó. Tối này đến tối khác, ông nói đi nói lại về cái làng của ông. Kim Lân điểm nhịp câu chuyện bằng những lời trách móc ông hàng xóm nhãng ý không nghe chuyện, nhưng kỳ thực là để cho ta thấy rằng ông Hai không thực sự cần bác Thứ nghe, ông nói cho chính mình, nói để cho sướng miệng và cũng để thỏa nỗi nhớ làng. “Ông lại nghĩ về cái làng của ông, lại nghĩ đến những ngày cùng làm việc với anh em. […] Ông lại muốn về làng, lại muốn được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá.” Những ký ức về làng xưa, xóm cũ trở thành niềm an ủi, động viên ông Hai mỗi khi chán nản. Chỉ cần được ở lại làng, cùng chiến đấu với anh em thì như có một luồng sinh lực mới chảy dồi dào trong ông, và dù có gian khổ, khó nhọc, nguy hiểm đến bao nhiêu ông cũng chịu được. Hình ảnh đó hoàn toàn trái ngược với ông Hai lúc nào cũng buồn chán, bức bối, không biết làm gì trong căn bếp tản cư. Thế nhưng đó cũng chỉ là hồi ức, một hồi ức tươi vui và đầy tự hào đến nỗi mỗi khi nhớ lại, trong ông lại trào dâng một nỗi nhớ khôn nguôi: “Ông Hai nhớ cái làng, nhớ cái làng quá.” Với ông, ngôi làng của ông vốn đã là một điều gì đó vô cùng thiêng liêng và đẹp đẽ. Nay ở trong căn bếp tản cư chật hẹp, cái làng ấy lại càng đẹp hơn, trở thành một niềm mong ước, khao khát mãnh liệt. Điều đó hoàn toàn không phải phóng đại. Tâm sự của ông Hai là tâm sự của một người gắn bó với làng tha thiết, yêu làng bằng một niềm tự hào chân chính.

Không những thế, ông còn quan tâm nồng nhiệt đến tình hình kháng chiến của làng. Mỗi ngày, ông đều đi bộ ra phòng thông tin để theo dõi tin tức kháng chiến của làng, của dân tộc. Ông không biết chữ nên ông coi đó là điều cản trở ông nghe ngóng tin tức, ông tìm mọi cách để biết tin kháng chiến ở mọi nơi và "chẳng sót một câu nào". Khi nghe tin chiến thắng của quân dân ta, ông vui mừng lắm. Ông vui mừng vì thắng lợi của dân tộc, đến nỗi “Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!”. Niềm vui ấy diễn tả thật chân thật tấm lòng của ông đối với quê hương, đất nước. Đó là biểu hiện của lòng yêu nước sâu sắc.

Tình yêu làng của ông càng được bộc lộ một cách sâu sắc và cảm động trong hoàn cảnh thử thách. Kim Lân đã đặt nhân vật vào tình huống gay gắt để bộc lộ chiều sâu tình cảm của nhân vật. Đó là tin làng chợ Dầu làm Việt gian theo giặc. Từ phòng thông tin ra, đang phấn chấn, náo nức vì những tin vui của kháng chiến thì gặp những người tản cư, nghe nhắc đến tên làng, ông Hai quay phắt lại, lắp bắp hỏi, hy vọng được nghe những tin tốt lành, nào ngờ biết tin dữ: "Cả làng Việt gian theo Tây". Như sét đánh ngang tai, ông từ chối tin vào điều đó. “Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng chừng như không thở được. Một lúc sau ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ.” Nếu như tin dữ ấy là cái làng đẹp đẽ của ông bị đốt trụi, nhà cửa, ruộng vườn của ông bị cướp mất thì có lẽ ông cũng không đau khổ bằng tin làng mình theo Tây. Tội nghiệp ông lão vui tính, xởi lởi giờ đây phải “cúi gằm mặt đi thẳng”, “nước mắt ông cứ giàn ra”. Giá ông không quá yêu làng, không quá tự hào về làng thì ông đã không thấy tủi nhục đến thế. Mấy chữ “cả làng chúng nó Việt gian theo Tây” như găm vào trái tim ông, vào niềm tự hào về cái làng mà ông yêu vô cùng. Tất cả những gì ông trân trọng giữ gìn trong tim giờ đây như đều sụp đổ tan tành. Ông không chấp nhận được sự thật ấy và đấu tranh nội tâm dữ dội. Lúc đầu là nghi ngại (“Nhưng sao lại nảy ra cái tin như vậy được?“), nhưng sau đó là đau đớn khi được biết những bằng chứng rõ ràng (“Mà thằng chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi“). Phải thừa nhận cái tin đó, không thể nào tả được nỗi đau của ông lúc ấy. “Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian!” Có lẽ trong đời mình, ông Hai chưa từng chịu đựng hay thậm chí tưởng tượng được một nỗi đau, nỗi nhục như thế. Những tiếng ấy như thốt lên từ trái tim bị tổn thương, từ niềm tự hào bị chà đạp của ông, khiến người đọc cũng như cảm nhận được nỗi xót xa, tủi nhục của ông lúc ấy. Mà ông Hai đâu chỉ đau cho mình, đau cho làng, mà ông còn đau cho những người đồng hương, đồng cảnh ngộ. “Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa?” Có thể những con người ấy trước kia có hiềm khích với ông, nhưng trước nỗi đau, nỗi nhục quá lớn này, tình yêu làng trỗi lên thật mạnh mẽ và đánh thức tình đồng hương trong ông. Kim Lân đã rất tài tình khi sử dụng hàng loạt câu cảm, câu hỏi liên tiếp trong nghệ thuật độc thoại nội tâm để lột tả sự đau khổ, xót xa, uất ức mà ông Hai phải chịu đựng. Lúc này đây, làng không chỉ là nơi chôn rau cắt rốn nữa, mà là một cái gì đó lớn lao hơn, là lòng tự trọng, là danh dự.

Không chỉ thế, tình yêu làng còn trở thành một nỗi ám ảnh day dứt trong ông, buộc ông phải lựa chọn giữa làng và nước. Nếu lúc trước ông tự hào, ông thao thao bất tuyệt về làng mình bao nhiêu thì bây giờ ông xấu hổ, trốn tránh bất nhiêu. Cái tin đồn quái ác kia trở thành một nỗi ám ảnh, một nỗi sợ vô hình luôn đè nặng lên tâm trí ông. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông… là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!” Lẽ thường tình, khi người ta suy nghĩ quá nhiều về một điều gì đó, lúc nào ta cũng có cảm tưởng những người khác cũng như vậy. Thế thì nỗi ám ảnh và lo sợ của ông Hai phải lớn đến chừng nào để ông bị dằn vặt tới vậy! Lòng yêu làng của ông phải lớn biết chừng nào! Kim Lân đã diễn tả rất cụ thể và sâu sắc tâm trạng nặng nề ấy, vì bản thân tác giả cũng từng gặp hoàn cảnh tương tự. Ông Hai đã trải qua những giờ phút không thể đau đớn và tủi hổ hơn khi bị mụ chủ nhà nói móc nói máy để đuổi khéo. Người đọc như cảm nhận được từng lời từng chữ của mụ như xoáy sâu vào tình yêu làng vốn đã quá tổn thương của ông.

Đến khi phải lựa chọn giữa làng và nước, tình yêu ấy mới bộc lộ rõ rệt. Dù bị tin đồn làng mình theo Tây dồn vào “tuyệt đường sinh sống”, ông vẫn nhất quyết không trở về làng. Đến đây, ta mới hiểu rõ về con người hay chuyện tưởng chừng rất đơn giản, bộc trực kia. Tình yêu làng giờ đây đã trở thành tình yêu có ý thức, hòa nhập và lòng yêu nước. “Về làm gì cái làng ấy nữa. Về làng là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ.” Nhớ lại những tháng ngày đen tối bị đàn áp xưa kia, ông đã có quyết định rõ ràng, đúng đắn. Là người nông dân chân lấm tay bùn nhưng ông Hai có nhân thức cách mạng rõ ràng: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.” Nhận thức rất mới này là một nét đặc biệt trong tính cách của ông Hai, đánh dấu sự thay đổi của người nông dân sau Cách mạng Tháng Tám.

Thế nhưng, dù đã dứt khoát đi theo kháng chiến, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm sâu đậm với làng quê, và vì thế mà ông càng đau xót, tủi hổ hơn. Bởi vậy, ông tìm cách giãi bày nỗi lòng ấy của mình bằng cách trò chuyện với đứa con út. Tuy nói chuyện với đứa con, nhưng thực chất ông đang mượn lời đứa trẻ để bày tỏ tâm sự. Những gì đứa trẻ nói chính là những gì đang dâng trào trong lòng ông mà không nói ra được. “Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ.” Ông Hai nói với đứa con như thể nói với anh em đồng chí, để minh oan cho tấm lòng thành thật của mình, để nỗi khổ tâm trong lòng như vơi đi được đôi phần. Lòng yêu nước của ông thật giản dị nhưng vô cùng chân thành, sâu sắc và cảm động. Chính điều ấy đã giúp ông chịu đựng được tin đồn quái ác về làng mình, vì ông có niềm tin vào cách mạng, vào kháng chiến. Từ đây, ông Hai nói riêng hay người nông dân nói chung, đã nhìn rộng hơn, xa hơn lũy tre làng. Không chỉ yêu làng, trong ông còn có một tình yêu lớn gấp nhiều lần – lòng yêu nước.

Đến khi tin làng chợ Dầu theo giặc được cải chính, tình yêu làng, yêu nước của ông Hai mới được vẽ lên hoàn chỉnh. Ông Hai như sống lại. “Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên.” Một lần nữa, tình yêu làng, yêu nước của ông được thể hiện một cách chân thực, cảm động. Nguồn sinh lực ngày nào lại trở về trong ông. Ông Hai lại là ông Hai xưa. Ông lại nói về làng mình, về “Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn!” Niềm vui sướng của ông được thể hiện thật hồn nhiên, chân thật và rất mãnh liệt. Có lẽ không ai trên đời lại đi khoe, đi mừng việc nhà mình bị đốt như thế. Nhưng với ông Hai, điều đó đâu có là gì so với niềm vui khi thanh danh của làng được rửa. Vì sự mất mát ấy cũng là sự hồi sinh của một làng Chợ Dầu mà ông hằng yêu và xứng đáng với tình yêu ấy: làng Chợ Dầu kháng chiến. Tình yêu làng là cơ sở, là biểu hiện hùng hồn nhất của tình yêu nước trong ông Hai. Quả đúng như nhà văn I-li-a Ê-ren-bua đã từng nói: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê làm nên lòng yêu tổ quốc.” Nếu so với lão Hạc của Nam Cao hay chị Dậu của Ngô Tất Tố trước Cách mạng tháng Tám – những người nông dân cả cuộc đời đầu tắt mặt tối trong ruộng vườn thì nhân vật ông Hai đã có nhận thức rõ ràng về cách mạng, về kháng chiến. Ông đã nhận ra rằng: Đất nước còn thì làng còn, đất nước mất thì làng cũng mất. Đây không chỉ là sự thay đổi trong suy nghĩ người nông dân, mà còn là suy nghĩ của mỗi người dân Việt Nam thời điểm đó. Họ sẵn sàng hy sinh những cái riêng, những cái nhỏ vì sự nghiệp chung, vì cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Họ không hề quên đi cội nguồn của mình mà gìn giữ nơi ấy ở trong tim, biến thành động lực chiến đấu để giải phóng đất nước, giải phóng quê hương.

Truyện ngắn “Làng” đã xây dựng thành công nhân vật ông Hai, đặc biệt qua tình huống làng Chợ Dầu bị đồn là theo Tây. Nguyễn Minh Châu từng nói: “Tình huống là một loại sự kiện đặc biệt của đời sống, được sáng tạo ra theo hướng lạ hóa. Tại đó, vẻ đẹp nhân vật hiên ra sắc nét, ý nghĩa tư tưởng phát lộ toàn diện.” Kim Lân đã sáng tạo được một tình huống truyện có tính căng thẳng để thử thách nhân vật. Nó đã cho ta thấy chiều sâu của nhân vật ông Hai, những nét tính cách, những chuyển biến trong nhận thức và tính cảm của ông, và hơn hết là tình yêu làng, yêu nước tha thiết. Nhà văn cũng vô cùng thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, khi thì miêu tả cử chỉ hành động, khi thì độc thoại nội tâm, độc thoại, đối thoại để lột tả tính cách nhân vật. Ngôn ngữ kể chuyện rất linh hoạt, tự nhiên, lúc dềnh dàng, lúc đột ngột tùy theo diễn biến. Bên cạnh đó, tác giả vốn am hiểu cuộc sống nông thôn nên ngôn ngữ của ông Hai là khẩu ngữ, rất bình dị và gần gũi, đậm chất nông dân. Với nhân vật ông Hai, Kim Lân quả thực rất xứng đáng là một cây bút “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”.

Nguyễn Đình Thi từng viết rằng: “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh.” Truyện ngắn “Làng” đã được viết nên từ những điều nhà văn từng trải nghiệm, khắc họa một cách chân thực nhất những tháng ngày đi tản cư của nhân dân miền Bắc trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, cũng như những chuyển biến trong nhận thức và tình cảm của họ. Thông qua nghệ thuật xây dựng tình huống truyện và miêu tả tâm lí, ngôn ngữ nhân vật, Kim Lân đã mang đến cho bạn đọc nhân vật ông Hai với tình yêu làng quê và lòng yêu nước sâu đậm, thiết tha. Nhân vật ông Hai đã góp phần neo đậu tên tuổi tác giả Kim Lân và tác phẩm Làng trong tâm trí bao thế hệ bạn đọc.

 

Bạn có biết?

Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.

Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

Tâm sự 9

Lớp 9 - Là năm cuối ở cấp trung học cơ sở, sắp phải bước vào một kì thi căng thẳng và sắp chia tay bạn bè, thầy cô và cả kì vọng của phụ huynh ngày càng lớn mang tên "Lên cấp 3". Thật là áp lực nhưng các em hãy cứ tự tin vào bản thân là sẻ vượt qua nhé!

Nguồn : ADMIN :))

Liên hệ hợp tác hoặc quảng cáo: gmail

Điều khoản dịch vụ

Copyright © 2021 HOCTAPSGK