Em bé thông minh - Ngữ văn 6

Lý thuyết Bài tập

Tóm tắt bài

1.1. Tìm hiểu chung

a. Thể loại

  • Thuộc truyện cổ tích sinh hoạt, kiểu nhân vật thông minh.
  • Truyện không có yếu tố thần kì mà được cấu tạo theo lối xâu chuỗi nhiều mẫu chuyện, qua đó nhân vật bộc lộ sự thông minh và tài trí.
  • Thuộc loại truyện Trạng
    • Đề cao trí khôn dân gian và trí khôn kinh nghiệm
    • Tạo tiếng cười hồn nhiên, chất phát nhưng rất thâm thúy.

b. Đại ý

  • Em bé thông minh là truyện cổ tích về nhân vật thông minh, đề cao trí khôn dân gian, trí khôn kinh nghiệm, tạo được tiếng cười vui vẻ, hồn nhiên, chất phát mà không kém phần thâm thúy của nhân dân trong đời sống hàng ngày.

c. Tóm tắt

Có ông vua nọ, vì muốn tìm người hiền tài nên đã cho một viên quan đi dò la khắp cả nước. Viên quan ấy đến đâu cũng ra những câu đố oái oăm, hóc búa để thử tài.
Một hôm, viên quan thấy hai cha con đang làm ruộng bèn hỏi một câu rất khó về số đường cày con trâu cày được trong một ngày. Ông bố không trả lời được, cậu con trai nhanh trí hỏi vặn lại khiến viên quan thua cuộc. Biết đã gặp được người tài, viên quan nọ về bẩm báo với vua. Vua tiếp tục thử tài, bắt dân làng đó phải làm sao cho trâu đực đẻ ra trâu con. Bằng cách để cho nhà vua tự nói ra sự vô lí trong yêu cầu của mình, cậu bé đã cứu dân làng thoát tội. Cậu tiếp tục chứng tỏ tài năng bằng cách giải các câu đố tiếp theo và được nhà vua ban thưởng rất hậu.
Vua nước láng giềng muốn kéo quân sang xâm lược nhưng trước hết muốn thử xem nước ta có người tài hay không bèn cho sứ giả mang sang một chiếc vỏ ốc vặn thật dài và đố xâu sợi chỉ qua. Tất cả triều đình không ai giải được lại tìm đến cậu bé. Với trí thông minh khác người, lại sống gần gũi với thực tế, cậu bé vừa chơi vừa giải đố, kết quả là tránh được cho đất nước một cuộc chiến tranh. Nhà vua thấy thế bèn xây dinh thự ngay cạnh hoàng cung để cậu ở cho tiện việc hỏi han đồng thời phong cho cậu làm Trạng nguyên.

d. Bố cục

  • Chia làm 3 đoạn
    • Đoạn 1. Từ đầu..."lỗi lạc": Vua sai quan đi khắp nơi tìm người tài giỏi giúp nước.
    • Đoạn 2. "Một hôm"..."láng giềng": Sự mưu trí, thông minh của em bé qua các lần thử thách
      • Em bé giải câu đố của quan.
      • Em bé giải câu đố của vua lần 1 và 2
      • Em bé giải câu đố của sứ gải nước ngoài
    • Đoạn 3. Phần còn lại: Em bé trở thành trạng nguyên.

1.2. Đọc - hiểu văn bản

a. Hình thức thử tài

  • Hình thức: Dùng câu đố để thử tài
  • Tác dụng
    • Tạo thử thách để nhân vật bộc lộ tài năng, phẩm chất
    • Tạo tình huống cho cốt truyện phát triển
    • Gây hứng thú, hồi hộp cho người nghe

b. Sự mưu trí, thông minh của em bé qua các lần thử thách

Thử thách Lần 1 Lần 2 Lần 3 Lần 4
Đối tượng Viên quan Nhà vua Nhà vua Sứ thần nước ngoài
Tính chất nghiêm trọng  

Cả làng phải chịu tội

Liên quan đến vận mệnh quốc gia.

So sánh Với người cha Với dân làng Với nhà vua Với vua, quan, đại thần, các ông trạng và các nhà thông thái
Nội dung

"Trâu của lão một ngày cày được mấy đường?"

→ Oái oăm, bất ngờ khó trả lời

"Nuôi làm sao để  3 trâu đực đẻ được 9 con?"

→ Oái oăm, phi lí đến mức trái qui luật tự nhiên.

Làm ba cỗ thức ăn bằng một con chim sẻ.

Xâu chỉ qua đường ruột ốc vặn.

Cách giái

Hỏi vặn lại: "Ngựa của ông một ngày đi được mấy bước?"

 

Dùng phép “Gậy ông đập lưng ông” làm vua tự nói ra điều phi lý

Hỏi vặn lại: Đưa cây kim nhờ vua rèn thành một con dao.

 

Câu hát dân gian

Thú vị Đẩy thế bị động về người ra câu đố (lần 1 + lần 3) và làm cho người ra câu đố thấy cái phi lí (lần 2) Kinh nghiệm trong đời sống dân gian
  • Tổng kết

    • Nghệ thuật

      • Là truyện cổ tích kể về nhân vật thông minh, có nhiều tình huống bất ngờ và thú vị.
      • Dùng  câu đố thử tài, tạo tình huống thử thách nhân vật để bộc lộ tài năng, phẩm chất.
      • Cách dẫn dắt sự việc cùng mức độ tăng dần của những câu đố, và cách giải đố tạo tiếng cười hài hước.
    • Nội dung

      • Truyện đề cao trí thông minh, trí khôn dân gian (qua hình thức giải những câu đố và vượt qua nhwungx thử thách oái ăm()
      • Tạo ra tiếng cười vui vẻ và hồn nhiên trong đời sống hằng ngày.

Ví dụ

Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện cổ "Em bé thông minh".

Gợi ý làm bài

1. Mở bài

  • Nhân dân ta từ xưa đã đánh giá rất cao vai trò của trí tuệ trong đời sống.
  • Nhân vật em bé trong truyện "Em bé thông minh" tiêu biểu cho trí thông minh của người lao động.

2. Thân bài
a. Trí thông minh tuyệt vời của chú bé nông dân

  • Thể hiện qua nhiều tình huống có tính chất thử thách, càng về sau càng gay go
    • Trả lời câu hỏi của viên quan bằng chính cách hỏi: "Ngựa của ông một ngày đi được mấy bước?"
    • Hóa giải lệnh oái oăm của nhà vua là bắt dân làng nuôi trâu đực đẻ bằng câu chuyện bịa đặt và nhờ vua bắt cha mình đẻ em bé.
    • Vua thử tài chú bé, bắt làm cỗ từ một con chim sẻ. Chú yêu cầu sứ giả tâu với vua cho người rèn chiếc kim thành dao để mổ chim.
    • Sứ thần nước ngoài thách đố xâu sợi chỉ qua đường ruột của một chiếc vỏ ốc vặn, chú bé nghĩ ra mẹo và làm được.

b. Thái độ của nhà vua đối với chú bé thông minh

  • Khẳng định chú chính là nhân tài mà mình đang cần tìm.
  • Phong cho chú bé chức Trạng nguyên, lưu lại trong cung nuôi ăn học tử tế để sau này giúp nước.
  • Tin dùng và thường hỏi ý kiến của chú bé trong những công việc quốc gia đại sự.

3. Kết bài

  • Với truyện "Em bé thông minh", khao khát đổi đời của người lao động xưa kia đã được thoả mãn.
  • Qua truyện, trí tuệ và trí khôn dân gian được đề cao và ca ngợi
  • Tạo ra được tiếng cười hồn nhiên, vui vẻ trong cuộc sống hàng ngày.
  • Các chi tiết cường điệu khiến cho truyện trở nên thú vị và hấp dẫn.

Bài văn mẫu

     Từ thuở xưa, nhân dân ta đã coi trọng trí tuệ, bởi trí tuệ giúp con người vượt qua được khó khăn, thử thách trong cuộc sống hằng ngày. Bằng trí tượng trượng, họ đã sáng tạo ra những nhân vật tiêu biểu cho vẻ đẹp trí tuệ. Truyện "Em bé thông minh" đề cao trí khôn dân gian (qua hình thức giải những câu đố, vượt qua những thử thách oái ăm...), từ đó tạo ra tiếng cười vui vẻ, hồn nhiên nhưng không kém phần thâm thúy. Trong truyện, sự thông minh của em bé được thử thách cả thảy bốn lần.

     Lần đầu, em trả lời câu hỏi éo le của viên quan: "Trâu cày một ngày được mấy đường?"

Lần thứ hai, em hóa giải cái lệch ngược đời của vua về chuyện ban cho dân làng ba con trâu đực, bắt nuôi sao cho chúng đẻ thành chín con trong một năm.

Lần thứ ba, em vượt qua thử thách cực kì khó khăn: từ thịt một con chim sẻ, phải nấu thành ba mâm cỗ theo yêu cầu của nhà vua.

Lần thứ tư là làm được công việc oái ăm mà sứ thần nước ngoài thách đố: xâu một sởi chỉ mảnh qua đường ruột của một chiếc vỏ ốc vặn.

Thử thách ngày càng khó nhưng chú bé đều vượt qua một cách dễ dàng. Điều đó chứng tỏ trí thông minh tuyệt vời của em bé.

Bối cảnh của truyện là thời mà chế độ phong kiến Việt Nam đã phát triển đến mức độ cao. Trên có vua quan, dưới có tổ chức làng xã. Vua biết trọng dụng người hiền tài để phò tá cai trị đất nước. Bởi vậy nên mới có chuyện nhà vua sai một viên quan đi dò la để tìm cho ra người tài giỏi. Viên quan ấy đã đi rất nhiều nơi mà vẫn chưa tìm hấy ai như ý.

Một hôm, viên quan đi qua làng nọ, thấy hai cho con chú bé đang làm ruộng. Cha đánh trâu cày, con đập đất, những công việc quen thuộc hằng ngày của nhà nông. Khi viên quan cất giọng hách dịch hỏi: "Này, lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường?" Thì người cha bất ngờ và hốt hoảng nên cứ đứng ngẩn người ra chưa biết trả lời thế nào. Đứa con trai mới chừng bảy tám tuổi đã nhanh miệng vặn lại quan rằng: "Thế xin hỏi ông câu này đã. Nếu ông trả lời đúng ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của tôi cày một ngày được mấy đường".

Trong lần đầu tiên này, sự nhanh trí của chú bé thể hiện ở chỗ đã đánh đố lại viên quan. Chú bé biết lợi dụng chính cái lắt léo trong câu hỏi để đẩy ông ta vào thế bí. Chú đã xoay chuyển được tình thế, giành phần thắng về mình. Có ai để ý đếm bước chân ngựa trên đường? Vậy thì có ai đếm được trâu cày trong một ngày bao giờ? Mục đích của viên quan là nêu câu hỏi cắc cớ để dồn kẻ bị hỏi vào thế lúng túng, thì chú bé đã hỏi lại viên quan với ngụ ý: Nếu ông không trả lời được của tôi thì cha tôi không việc gì phải trả lời ông cả. Trái độ mạnh bạo, tự tin cùng câu hỏi thông minh của chú bé khiến viên quan nọ giật mình, há hốc mồm sửng sốt và nghĩ rằng có lẽ chú bé chính là nhân tài mà nhà vua đang cần tìm. Ông ta vội vã trở về triều, trong bụng mừng thầm.

Nghe viên quan tâu lại đầu đuôi câu chuyện về chú bé, nhà vua mừng rỡ nhưng muốn thử lại cho chắc chắn: Vua sai ban cho làng (của chú bé) ba thúng gạo nếp với ba con trâu đực, ra lệnh phải nuôi làm sao ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải đem nộp đủ, nếu không thì cả làng phải tội.

Cái lệnh kì quặc xưa nay chưa từng thấy của nhà vua làm cho dân làng lo lắng, sợ hãi, họp bàn liên tục mà không tìm ra cách giải quyết. Giải quyết sao được bởi xưa nay trâu đực có đẻ con bao giờ? Nhưng dẫu phi lí đến đâu chăng nữa thì đó cũng là lệnh vua. Không thực hiện đúng lệnh là mắc tội khi quân, ắt cả làng phải chịu tội chết. Đoạn kể về thái độ của dân làng khi nhận được lệnh vua thật cụ thể, sinh động, làm nổi bật không khí lo sợ kinh hoàng. Từ trên xuống dưới, mọi người đều tin là một tai họa.

Chuyện đến tai chú bé, chú bé thản nhiên bảo cha: ''Chả mấy khi được lộc vua ban, cha cứ thưa với làng giết thịt hai con trâu và đồ hai thúng gạo nếp để mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một con trâu và một thúng gạo, ta sẽ xin làng làm phí tổn cho cha con ta trẩy kinh lo liệu việc đó".

Sự tính toán đâu ra đấy và thái độ bình tĩnh, tự tin ấy quả là khác thường, kì lạ đối với cá tuổi lên bảy, lên tám của chú bé. Nghe con nói, người cha sợ hãi khuyên can, chú bé vẫn khăng khăng quả quyết: "Cha cứ mặc con lo liệu, thế nào cũng xong xuôi mọi việc".

Lần thứ hai này, chú bé vượt qua thử thách bằng cách khéo kéo gài bẫy để nhà vua phải công nhận sự vô lí trong lệnh của mình.

Nghĩ sao làm vậy, chú cùng cha lên kinh đô, tìm cách đến tận trước ngai vàng và ra mắt vua với điệu bộ, lời lẽ cố tình gây chú ý đối với mọi người: lẻn vào sân rồng, khóc um lên. Thấy chuyện lạ, vua sai lính điệu vào, phán hỏi: "Thằng bé kia, mày có việc gì? Sao lại đến đây mà khóc?". Chú bé chỉ chờ có thế để thực hiện mưu kế của mình: "Tâu đức vua! Mẹ con chết sớm mà cha con thì không chịu đẻ em bé để chơi với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ".
 
Lời nói ngộ nghĩnh của bé chú khiến nhà vua và quần thần đều bật cười về sự vô lí của nó. Vua phán: "Cha mày là giống đực, làm sao mà đẻ được!". Vậy là chú bé đã lừa nhà vua vào tròng một cách nhẹ nhàng, êm ái: "Thế sao làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ!".
 
Hiểu ý chú bé, đức vua bật cười bảo: "Ta thử đấy mà!". Chú bé đã tương kế tựu kế, dùng thuật gậy ông lại đập lưng ông để giành phần chủ động về mình, mạnh dạn lấy cái phi lí trong lời lẽ của mình để buộc đức vua phải tự công nhận sự phi lí trong lệnh của đức vua. Trí thông minh nhanh nhạy, tài ứng đối trôi chảy, lí lẽ sắc sảo của chú bé làm cho đức vua và triều thần đều chịu thằng bé là thông minh lỗi lạc.
 
Câu chuyện càng trở nên hấp dẫn khi chú bé lần lượt vượt qua hết thử thách này đến thử thách khác. Tuy đã tận mắt chứng kiến khả năng ứng xử thông minh của chú nhưng đức vua vẫn muốn thử một lần nữa. Những lần trước, trí thông minh của chú bé thể hiện qua lời nói; lần này, đức vua muốn được xem trí tuệ ấy thể hiện ra sao qua hành động.
 
Đức vua sai sứ giả mang tới cho chú bé một con chim sẻ và truyền lệnh chú bé phải làm thịt chim, dọn thành ba mâm cỗ. Không chút bối rối, chú bé bảo cha lấy cho mình một cây kim may rồi đưa cho sứ giả và bảo: "Ông cầm lấy cái này về tâu với đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim". Phản ứng của chú bé thật nhanh nhạy và cách xử trí cũng thật là đáng phục. Chú bé đã đẩy trả thế bí cho đối phương bằng cách đánh đố lại với ngầm ý: Nếu nhà vua rèn được cây kim này thành con dao thì tôi cũng sẽ làm được ba mâm cỗ từ thịt con chim sẻ. Tất nhiên, yêu cầu của chú đối với vua là không thể thực hiện được, do vậy sẽ không có chuyện ngược lại. Trí thông minh của chú bé thật tuyệt vời!
 
Để câu chuyện tăng tính hiện thực và mức độ thuyết phục, người xưa đã đưa vào chi tiết: Hồi đó có một nước láng giềng lăm le muốn xâm chiếm bờ cõi nước ta. Để dò xem bên này có nhân tài hay không, họ sai sứ đưa sang một cái vỏ ốc vặn rất dài, rỗng hai đầu, đố làm sao xâu một sợi chỉ mảnh xuyên qua đường ruột ốc. Kiểu thử tài này thường thấy trong truyện kể dân gian về các nhân vật thông minh, tài giỏi như Trạng Quỳnh, Mạc Đĩnh Chi, Trạng Hiền...
 
Sự thách đố oái ăm ấy làm cho các vị đại thần vò đầu suy nghĩ mà không sao tìm ra cách. Nhà vua đành phải nhờ đến trí thông minh của chú bé. Nghe qua, chẳng cần suy nghĩ lâu la gì, chú bé liền hát: "Tang tình tang! Tính tình tang. Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng. Bên thời lấy giấy mà bưng. Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang. Tang tình tang..." Câu hát hồn nhiên, nhí nhảnh nhưng lại chứa đựng một giải pháp cực kì sáng suốt, tuy đơn giản, dễ dàng như một trò chơi con trẻ. Dân gian chẳng có câu: Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ đó sao? Kiến ngửi thấy mùi mỡ ắt tìm mọi cách lần sang bằng được, do vậy sợi chỉ sẽ được kéo sang theo. Đơn giản thế mà đức vua và các nhà thông thái không sao nghĩ ra. Giải pháp đó chính là trí tuệ, là kinh nghiệm của dân gian được đúc kết từ cuộc sống.
 
Trí thông minh của chú bé càng ngày càng được bộc lộ ở mức độ cao hơn. Ban đầu, chú bé làm cho viên quan đi tìm người tài phải ngạc nhiên. Sau đó đến đức vua và quần thần trong triều đình. Cuối cùng, sứ thần ngoại bang cũng phải thán phục trước trí tuệ của nhân tài nước Nam. Tài trí thông minh tuyệt vời của chú bé thật xứng đáng với chức Trạng nguyên nhà vua ban tặng, xứng đáng với dinh thự nguy nga bên cạnh cung vua. Chú bé trở thành người được nhà vua tin dùng trong quá trình trị vì đất nước.
 
Truyện đề cao trí thông minh của người lao động. Trí thông minh của chú bé không thể hiện qua chữ nghĩa, văn chương, thi cử mà là qua thực tế cuộc sống hằng ngày. Cuộc đấu trí của chú bé xoay quanh những chuyện bình thường như đường cày, bước chân ngựa, con trâu, con chim sẻ, con ốc, con kiến vàng. Chú bé tiêu biểu cho trí tuệ dân gian được đúc kết từ đời sống và luôn được vận dụng trong thực tế.
 
Truyện còn mang ý nghĩa hài hước thâm thúy. Cách giải các câu đố của chú bé đều thông minh, hóm hỉnh, tạo ra những tình huống bất ngờ thú vị, đem lại tiếng cười vui vẻ.
 
Trong truyện, từ dân làng cho đến các ông trạng, các nhà thông thái và vua quan đều thua tài em bé. Nhân vật em bé thông minh khiến cho mọi người yêu thích bởi tính chất hồn nhiên, ngây thơ mà sắc sảo tuyệt vời.
 
     Chú bé thông minh được vua phong cho chức Trạng nguyên. Trí tưởng tượng và khao khát đổi đời của người xưa được thỏa mãn. Qua truyện này, nhân dân ta muốn khẳng định sức mạnh của trí tuệ, đồng thời thể hiện tình cảm mến yêu, thán phục đối với những người hiền tài đã làm rạng danh cho gia đình và đất nước.

3. Soạn bài Cậu bé thông minh

Truyện Cậu bé thông minh sẽ giúp các em nhận diện được đặc điểm của truyện cổ tích qua nhân vật, sự kiện, cốt truyện ở tác phẩm "Em bé thông minh". Để nắm vững được các kiến thức này, các em có thể tham khảo thêm bài soạn tại đây: Bài soạn Em bé thông minh.

4. Một số bài văn mẫu về văn bản Em bé thông minh

Tác phẩm Cậu bé thông minh được cấu tạo xâu chuỗi nhiều mẫu chuyện về những thử thách mà nhân vật đã vượt qua trong truyện cổ tích sinh hoạt. Để nắm được nội dung cốt truyện cũng như biết cách trình bày, phân tích hay kể lại câu chuyện cổ tích này, các em có thể tham khảo một số bài văn mẫu dưới đây:

 

Bạn có biết?

Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.

Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

Tâm sự Lớp 6

Lớp 6 - Là năm đầu tiên của cấp trung học cơ sở. Được sống lại những khỉ niệm như ngày nào còn lần đầu đến lớp 1, được quen bạn mới, ngôi trường mới, một tương lai mới!

Nguồn : ADMIN :))

Liên hệ hợp tác hoặc quảng cáo: gmail

Điều khoản dịch vụ

Copyright © 2021 HOCTAPSGK