TOP 4 Đoạn văn phân tích khổ 2 Bếp lửa ngắn gọn, đặc sắc nhất, giúp các em học sinh lớp 9 có thêm nhiều thông tin bổ ích, thấy rõ những kí ức tuổi thơ gian khó nhưng ấm áp bên bà của nhà thơ.
Khổ 2 bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt đã tái hiện lại bức tranh về nạn đói năm 1945 ở Việt Nam một cách vô cùng chân thực, xúc động, để lại bao ấn tượng khó phai trong lòng độc giả. Mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn để ngày càng học tốt môn Văn 9.
Viết đoạn văn phân tích khổ 2 Bếp lửa của Bằng Việt
Viết đoạn văn phân tích khổ 2 Bếp lửa
Với khổ thơ thứ hai của thi phẩm "Bếp lửa", Bằng Việt đã tái hiện lại bức tranh về nạn đói năm 1945 ở Việt Nam một cách vô cùng chân thực, xúc động. Kí ức của nhân vật trữ tình trở về năm bốn tuổi. Ở cái tuổi ấy, người cháu "đã quen mùi khói" khi cùng bà nhóm bếp mỗi ngày. Đó là một phần không thể thiếu của tuổi thơ, khiến đứa cháu ngậm ngùi xúc động mỗi lần nhớ lại. Và tiếp đó là những cảm xúc xót xa khi hồi tưởng về "những năm đói mòn đói mỏi". Cái đói, cái nghèo bủa vây cả xã hội. Nó như một nỗi ám ảnh khôn nguôi đối với hai bà cháu cũng như đối với toàn bộ người dân trên đất nước Việt Nam. Hình ảnh người cha vất vả bươn chải, kéo xe đến "khô rạc ngựa gầy" chính là minh chứng rõ ràng nhất cho nỗi đau của dân tộc lúc bấy giờ. Bởi lí do ấy, nhân vật trữ tình đã dâng trào cảm xúc nghẹn ngào, xót xa. Những kí ức tuổi thơ dần mờ nhòa theo thời gian, nhưng cái mùi khói nồng đậm thì vẫn được nhân vật nhớ kĩ. Chi tiết "cay sống mũi" có thể được dùng để diễn tả phản ứng khi bị khói phả vào của con người. Nhưng bên cạnh đó, chi tiết này cũng có thể được hiểu là sự xúc động, nghẹn ngào đang bị dồn nén. Tất cả các yếu tố kể trên đều là thành phần không thể thiếu để tái hiện lại một thời kì lịch sử đau thương mà dân tộc phải trải qua. Nhờ vậy, các thế hệ sau lại càng trân trọng nền hòa bình, ấm no như ngày hôm nay của chính mình.
Đoạn văn phân tích khổ 2 Bếp lửa
Bếp lửa của Bằng Việt là tiếng lòng người cháu nơi xa xôi nhớ về bà, nhớ về những kỉ niệm của tuổi thơ có bà, qua đó bày tỏ lòng kính yêu vô hạn và những suy ngẫm sâu sắc về cuộc đời bà. Những kỉ niệm tuổi thơ được gợi nhắc thông qua khổ thơ thứ 2 của bài. Mùi khói bếp đã trở thành một phần tuổi thơ của cháu "Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói". Mùi khói bếp không chỉ gợi nhớ về cuộc sống bình yên, ấm áp bên bà mà còn làm cháu nhớ về những tháng ngày gian khó, đó là khi nạn đói bao trùm xóm làng "đói mòn đói mỏi". Cái đói dai dẳng, quay quắt như vắt kiệt sự sống của con người. Bố vất vả mưu sinh đến "khô rạc ngựa gầy". Cái đói, cái nghèo đã trở thành một phần kí ức mà người cháu không thể nào quên. 5 câu thơ gợi ra hiện thực đen tối của đất nước khi nạn đói bùng nổ, những câu thơ thấm đượm cảm xúc khiến người đọc không khỏi xót xa trước những nhọc nhằn, thăng trầm của hai bà cháu và rất nhiều người lao động nghèo khổ khác. Những kí ức sống động tràn về trong tâm trí khiến cho người cháu như cảm nhận được hương vị cay nồng của khói bếp, để giờ đây khi nhớ lại, người cháu không giấu nổi sự xúc động "đến giờ sống mũi còn cay". Qua khổ thơ thứ hai, tác giả Bằng Việt đã tái hiện lại những kỉ niệm yêu thương bên bà, đó là những tháng ngày cơ cực, đói khổ nhưng đầy ấm áp bởi có tình thương của bà.
Đoạn văn phân tích khổ 2 bài thơ Bếp lửa
Bài thơ "Bếp lửa" là bài thơ của Bằng Việt viết về người bà, về những năm tháng tuổi thơ vất vả mà ấm áp bên bà. Trong khổ hai, nhà thơ đã tái hiện lại những năm tháng tuổi thơ bên bà. Bài thơ đưa người đọc trở về với tuổi thơ của tác giả, khi tác giả còn là cậu bé bốn tuổi. Đó là một tuổi thơ đầy những gian khổ, khó khăn. Từ bé, tác giả đã sống bên bà, mùi hương cay nồng của bếp lửa cũng đã trở thành một phần tuổi thơ của người cháu ấy "Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói". Trong những tháng ngày tuổi thơ ấy, người cháu đã sống bên bà, cùng bà trải qua những ngày "đói mòn đói mỏi". Nghĩ về tuổi thơ đầy gian khổ ấy, cảm xúc của người cháu bỗng trào dâng mãnh liệt "Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay". Mùi khói bếp lửa cũng như những năm tháng tuổi thơ cơ cực như quyện chặt lấy tâm hồn của cháu, dù có trưởng thành nhưng không bao giờ có thể quên. Bởi, chỉ cần nhớ lại thì cuộc đời bà lam lũ vất vả, nhọc nhằn của bà lại khắc khoải trong tâm hồn. Các từ láy "đói mòn đói mỏi" cùng hình ảnh tả thực "khô rạc ngựa gầy" trong khổ thơ khiến cho nạn đói hiện lên rõ nét, chân thực. Ngôn ngữ thơ dân dã, bình dị, giọng điệu da diết, khắc khoải đã đưa khổ thơ chạm tới được những rung cảm của người đọc đã giúp những hồi tưởng của Bằng Việt sâu sắc và chân thực tới mức người đọc cũng cảm thấy cay cay, nghẹn ngào.
Đoạn văn phân tích khổ 2 bài Bếp lửa
Trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, tình cảm bà cháu được khơi nguồn từ hình ảnh bếp lửa bình dị mà thấm đượm bao kí ức tuổi thơ bên bà, từ đó bộc lộ tấm lòng kính yêu, biết ơn của tác giả với bà của mình. Đặc biệt, trong khổ thơ thứ 2, tác giả đã đưa người đọc về với những năm tháng tuổi thơ cơ cực nhưng ấm áp bên bà. Thời gian được nhắc đến trong dòng hồi tưởng của người cháu là khi cháu lên bốn tuổi, dấu ấn trong tuổi thơ của cháu là mùi khói bếp, là cuộc sống nghèo đói, gian khổ, chật vật mưu sinh của hai bà cháu. "Đã quen mùi khói" nghĩa là đã thân thuộc, gần gũi và gắn bó từ rất lâu rồi. Cả tuổi thơ của cháu bị bao trùm trong bóng đen của nạn đói, trong cái nghèo, cái khổ. Đó là năm đói mòn, đói mỏi khiến cho hàng triệu người khốn đốn. Trong nạn đói và chiến tranh phải, bố phải vất vả mưu sinh cũng không đủ miếng ăn "khô rạc ngựa gầy", Mới bốn tuổi nhưng kí ức về cảnh bi thương, nghèo đói xơ xác và chết chóc đã in hằn trong trí nhớ của cháu, để rồi chỉ cần nhớ về làn khói hun nhèm mắt là cháu lại nhớ về năm tháng tuổi thơ khốn khó ấy, nhớ về cái nhọc nhằn, vất vả và sự hy sinh của bà. Khổ thơ thứ hai như một thước phim quay chậm về những năm tháng tuổi thơ bên bà, qua đó thấy được tình cảm thương nhớ chân thành, da diết của tác giả dành cho bà.