Vi hành được sáng tác vào đầu năm 1923 để cùng với các tác phẩm khác như vở kịch Con rồng tre, truyện ngắn Lời than vãn của bà Trưng Trắc… nhằm lật tẩy âm mưu của bọn thực dân Pháp.
Dưới đây là tài liệu giới thiệu về tác phẩm Vi hành, sẽ được học trong chương trình Ngữ Văn lớp 11. Mời quý bạn đọc cùng tham khảo.
Tác phẩm Vi hành của Nguyễn Ái Quốc
I. Đôi nét về tác giả Nguyễn Ái Quốc
- Nguyễn Ái Quốc (1890 - 1969) là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc và cách mạng Việt Nam. Người đã lãnh đạo nhân dân ta trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
- Nguyễn Ái Quốc có tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung. Quê ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
- Gia đình: Thân phụ là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc - một nhà Nho yêu nước có tư tưởng tiến bộ có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của Người. Thân mẫu của Người là bà Hoàng Thị Loan.
- Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Người đã sử dụng nhiều tên gọi khác nhau: Nguyễn Tất Thành, Văn Ba, Nguyễn Ái Quốc... Tên “Nguyễn Ái Quốc” được sử dụng lần đầu tiên trong hoàn cảnh: Ngày 18 tháng 6 năm 1919, thay mặt “Hội những người An Nam yêu nước”, Nguyễn Tất Thành đã mang tới Hội nghị hòa bình Versailles diễn ra tại Pháp, bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” - ký tên là Nguyễn Ái Quốc.
- Không chỉ là một nhà hoạt động cách mạng lỗi lạc, Người còn được biết đến với tư cách là một nhà văn nhà thơ lớn, được UNESCO công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới.
- Một số tác phẩm nổi bật:
- Tuyên ngôn độc lập (1945, văn chính luận)
- Bản án chế độ thực dân Pháp (1925, văn chính luận)
- Đường Kách Mệnh (1927, tập hợp những bài giảng)
- Con rồng tre (1922, kịch )
- Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946)
- Các truyện ngắn: Vi hành (1923), Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu (1925)...
- Nhật kí trong tù (thơ, 1942 - 1943)...
II. Giới thiệu về tác phẩm Vi hành
1. Hoàn cảnh sáng tác
- Năm 1922, thực dân Pháp đưa vua bù nhìn Khải Định sang Pháp để dự cuộc đấu xảo (hội chợ) thuộc địa ở Mác-xây. Với mục đích lừa gạt nhân dân Pháp, làm cho họ tưởng rằng vị quốc vương An Nam đã hoàn toàn quy phục “mẫu quốc”, sang Pháp để cảm tạ công ơn “bảo hộ” và “khai hóa” của “mẫu quốc”. Qua sự có mặt và thái độ hèn hạ của Khải Định, chúng muốn làm cho nhân dân của mình tin rằng tình hình Đông Dương đang rất ổn định, cần đầu tư lớn để khai thác kinh tế, tiếp tục đem “văn minh” khai hóa cho dân bản xứ còn mông muội.
- Nguyễn Ái Quốc viết “Vi hành” vào đầu năm 1923 để cùng với các tác phẩm khác như vở kịch Con rồng tre, truyện ngắn Lời than vãn của bà Trưng Trắc… lật tẩy âm mưu nói trên của bọn thực dân cướp nước.
- Tác phẩm được viết bằng tiếng Pháp, đăng trên báo Nhân đạo, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Pháp, số ra ngày 19 tháng 2 năm 1923.
2. Bố cục
Gồm 2 phần:
- Phần 1. Từ đầu đến “và vì những lý do không cao thượng bằng, cũng “vi hành” đấy”. Cuộc trò chuyện của đôi trai gái về vua Khải Định.
- Phần 2. Còn lại. Thái độ, suy nghĩ của nhân vật “tôi” về vua Khải Định.
3. Tóm tắt
Trên một chuyến xe điện ngầm, đôi trai gái người Pháp nhìn thấy nhân vật tôi - một người An Nam và tưởng rằng đó là vua Khải Định. Họ nghĩ rằng nhân vật “tôi” không biết tiếng Pháp, nên đã thản nhiên nhận xét về Khải Định, coi hắn như một tên hề, một trò giải trí rẻ tiền. Khi đôi trai gái xuống tàu, người kể chuyện nhớ về ngày ấu thơ, về câu chuyện vi hành của Vua Pie, vua Thuấn, rồi bình luận về cuộc Vi hành mờ ám vì mục đích riêng của Khải Định.
Vi hành
Nghe đọc tác phẩm Vi hành:
- Hắn đấy!
- Đâu phải!
- Đúng mà! Anh đã bảo là chính hắn đấy.
- Chắc thật à? Em thì em đã thấy hắn ở trường đua, trông hắn có vẻ nhút nhát hơn, lúng ta lúng túng hơn cơ, có cả cái chụp đèn chụp lên cái đầu quấn khăn, các ngón tay thì đeo đầy những nhẫn.
- Thế hay là hắn đã đem tất cả các thứ đó đến tiệm cầm đồ rồi? Nhưng mà nhìn kỹ xem kìa! Chẳng phải vẫn cái mũi tẹt ấy, vẫn đôi mắt xếch ấy, vẫn cái mặt bằng như vỏ chanh ấy đấy à?
- Ừ nhỉ. Thì cũng có thể là anh đúng. Nhưng hắn đến đây làm gì nhỉ, trong đường xe điện ngầm này, và tụi các ông quan bà kiếc đi theo thì đâu cả?
- Có khi đã gửi tất ở kho hành lí nhà ga để đi chơi vi hành đấy.
Đấy cô em họ thân mến của tôi! Tôi đã thuật lại y nguyên câu chuyện giữa một đôi bạn trẻ ngồi cùng toa xe với tôi. Họ ngấu nghiến trông tôi với cặp mắt ma mãnh, tò mò, nhưng lại ra bộ không nhìn tôi gì cả.
Cuộc đối thoại tiếp diễn như sau:
- Thế em nghĩ thế nào về người khách của chúng ta? - Người con trai hỏi, ngỡ tôi là một đấng hoàng thượng và tưởng rằng tôi không hiểu họ nói gì với nhau.
- Hắn còn làm mình bật cười hơn nữa cơ lúc hắn đeo lên người hắn đủ cả bộ lụa là, đủ cả bộ hạt cườm. - Người bạn gái anh ta trả lời.
- Hạt châu báu đấy chứ! Em thích có chỗ châu báu ấy quá đi, chứ còn gì!
- Em mà có ấy à, thì em cố tình đánh mất đi, để được báo chí nói đến, và thế là được trở thành một ngôi sao. Thế còn anh, anh nghĩ gì về người dân bảo hộ của chúng ta nào?
- Ích cho chúng ta lắm đấy. Cái lò ở Găng-be đã bán rồi. Cái rương của Hê-ra Miếc-ten cũng đã thanh toán rồi. Vụ án người bị chặt ra từng khúc thì không thu hút được công chúng lắm vì không thuộc giới thượng lưu. Và thế là cái kho giải trí của chúng ta sắp cạn ráo như B.Đ.D. vậy. Nhật báo chẳng còn cái gì để bôi bác lên giấy cả. Đúng lúc đó thì...
- Đổi xe ở đây chứ, anh yêu ơi?
- Không, ga sau. Đúng lúc đó thì có một anh vua đến với chúng ta.
- Em thì em thích Sác-lô hơn. Với lại, vua, thì tốn lắm.
- Đâu có! Thế em còn nhớ buổi dạ hội thuộc địa ở Nhà hát Ca vũ đấy chứ? Phải trả những nghìn rưởi phơ-răng để xem vợ lẽ nàng hầu vua Cao Miên, xem tụi làm trò leo trèo nhào lộn của sư thánh xứ Công-gô; hôm nay thì chúng mình có mất tí tiền nào đâu mà được xem vua đang ngay cạnh? Nghe nói ông bầu Nhà hát Múa rối có định ký giao kèo thuê đấy...
Tàu đỗ, cặp trai gái bước xuống, mắt cứ liếc nhìn trộm tôi, và tôi thì buồn cười quá bỗng đâm ra nghĩ, và nghĩ đến cô. Tôi như còn trông thấy cái ngày mà cô với tôi đôi chúng ta, như đôi chim ấy thôi, đậu vắt vẻo trên đầu gối ông bác thân yêu, nghe bác kể chuyện cổ tích. Tôi nhớ chuyện vua Thuấn, vì muốn đích thân tai nghe mắt thấy dân có bằng lòng mình không, nên cải trang làm dân cày đi dò la khắp xứ. Lại nhớ chuyện vua Pi-e nước Nga đi làm thợ và đến làm việc ở các công trường nước Anh. Bên những bậc cải trang vĩ đại ấy muốn đi sâu vào cuộc sống của nhân dân, ngày nay còn có những ông hoàng, ông chúa, để tiện việc riêng và vì những lý do không cao thượng bằng, cũng “vi hành” đấy.
Tôi không được rõ ý đồ nhà “vi hành” của chúng ta ra sao. Phải chăng là ngài muốn biết dân Pháp, dưới quyền ngự trị của bạn ngài là A-lếch-xăng Đệ nhất, có được sung sướng, có được uống nhiều rượu và được hút nhiều thuốc phiện bằng dân Nam, dưới quyền ngự trị của ngài, hay không? Phải chăng ngài muốn học sử dụng (theo kiểu Pháp) cái liềm của nhà nông cùng cái búa của thầy thợ để sau cuộc ngao du, đem về chút ấm no mà đám “dân” bất hạnh của ngài tới nay hoàn toàn chàng biết đến? Hay là, chán cảnh làm một ông vua to, giờ ngài lại muốn nếm thử cuộc đời của các cậu công tử bé?
Thế nào thì thế, ít lâu nay tôi đã trở thành một đấng hoàng thượng bất đắc dĩ. Bất cứ tôi đi đâu, là có người nhìn tôi, ganh tị tôi, mỉm cười với tôi, tán tụng tôi, đi theo tôi.
Cô em thân mến, hẳn cô bảo tôi rằng thế là cái bánh xe vô lượng nó đã quay rồi đấy. Đến nay, tất cả những ai ở Đông Dương có màu da trắng đều là những bậc khai hoá, thì bây giờ đến lượt tất cả những ai có màu da vàng đều trở thành hoàng đế ở Pháp.
Cô không thể tưởng tượng được cảnh đón tiếp tốt đẹp người ta dành cho chúng tôi ở đây. Quần chúng cứ là tự phát mà biểu lộ nhiệt tình khi vừa thoáng thấy một đồng bào ta. Những tiếng “Hắn đấy!” hay “Xem hắn kìa!” là những lời chào mừng kín đáo và kính trọng mà chúng tôi thường gặp dọc đường.
Cái vui nhất là ngay đến Chính phủ cũng chẳng nhận ra được khách thật của mình nữa, và để chắc chắn khỏi thất thố trong nhiệm vụ tiếp tân, Chính phủ bèn đối đãi với tất cả mọi người An Nam vào hàng vua chúa và phái tuỳ tùng đi hộ giá tuốt! Đó là những người phục vụ thầm kín, rụt rè, vô tư và hết sức tận tuỵ. Các vị chẳng nề hà chút công sức nào để bảo vệ bọn tôi, và giá cô được trông thấy các vị ân cần theo dõi tôi chẳng khác bà mẹ hiền rình con thơ chập chững bước đi thứ nhất, thì hẳn cô phải phát ghen lên được về nỗi niềm âu yếm của các vị đối với tôi. Có thể nói là các vị bám lấy đế giày tôi, dính chặt với tôi như hình với bóng. Và thật tình là các vị cuống cuồng cả lên nếu mất hút tôi chỉ trong năm phút? Cô thử nghĩ, làm sao mà không xúc động sâu xa được, khi được đối đãi như thế?
Ngày nay, cứ mỗi lần ra khỏi cửa, thật tôi không sao che giấu nổi niềm tự hào được là một người An Nam và sự kiêu hãnh được có một vị hoàng đế.