Dàn ý vẻ đẹp hung bạo của sông Đà tổng hợp 7 mẫu dàn ý chi tiết đầy đủ nhất kèm theo sơ đồ tư duy. Qua đó giúp các bạn học sinh nắm vững được kiến thức nắm được các luận điểm chính để biết cách triển khai bài văn phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà.
Vẻ đẹp hung bạo của Sông Đà khiến cho chúng ta phải e sợ nhưng nó lại là một nét nổi bật làm cho người ta nhớ đến sông Đà hơn bất kì thứ gì hết. Nhiều năm tháng qua đi nhưng vẻ đẹp hung bạo, dữ tợn của dòng sông Đà dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân cũng như vẻ đẹp của sông Đà nói chung vẫn còn nguyên vẹn và sống mãi trong lòng bạn đọc. Bên cạnh đó các bạn xem thêm: phân tích Người lái đò sông Đà, dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà, Dàn ý hình tượng người lái đò sông Đà.
Dàn ý phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
- Dàn ý vẻ đẹp hung bạo của sông Đà - Mẫu 1
- Dàn ý phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà - Mẫu 2
- Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà dàn ý - Mẫu 3
- Dàn ý vẻ đẹp hung bạo của sông Đà - Mẫu 4
- Dàn ý sông Đà hung bạo - Mẫu 5
- Dàn ý vẻ đẹp hung bạo của Sông Đà - Mẫu 6
- Sông Đà hung bạo dàn ý - Mẫu 7
- Sơ đồ tư duy vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
Dàn ý vẻ đẹp hung bạo của sông Đà - Mẫu 1
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Dẫn dắt vấn đề
2. Thân bài
- Hướng chảy của sông Đà cho thấy đó là một dòng sông đầy cá tính “Chúng thủy giai đông ...”.
- Bờ sông dựng vách thành: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá ... như một cái yết hầu”
- Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đò.
- Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”, thuyền qua đoạn hút nước “y như ô tô ...mượn cạp ngoài bờ vực”,
- Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:
- Xa: âm thanh thác đá “con xa lắm” mà đã nghe tiếng thác “réo gần mãi lại, réo to mãi lên”, âm thanh ấy hiện lên với nhiều trạng thái khi “oán trách”, lúc “van xin”, khi “khiêu khích”, “chế nhạo”; cách so sánh độc đáo: “rống lên như một ngàn con trâu ... cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước).
- Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “méo mó”, “”hất hàm”, “oai phong”, “bệ vệ”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “canh”, “đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”
- Sự biến hóa linh hoạt của trùng vi thạch trận: có 3 vòng, vòng 1 có 5 cửa sinh, một cửa tử (tả ngạn), vòng 2 có nhiều cửa tử, 1 cửa sinh (hữu ngạn), vòng 3 có ít cửa và 1 cửa sinh (giữa), gợi hình ảnh con sông Đà có tâm địa nham hiểm, mẹo lược, biến hóa khôn lường.
- Nhận xét: sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng thác hùm beo”, thứ kẻ thù số một của con người
3. Kết bài
- Khái quát lại vấn đề
Dàn ý phân tích vẻ đẹp hung bạo của sông Đà - Mẫu 2
a) Mở bài:
- Là một nhà văn tài hoa, độc đáo, Nguyễn Tuân thích miêu tả những cái gì dữ dội, mãnh liệt hoặc đẹp một cách tuyệt đỉnh. Những trang viết hay nhất của ông thường là những trang tả đèo cao, vực sâu, thác nước.
- Nguyễn Tuân yêu thiên nhiên tha thiết, ông có nhiều phát hiện tinh tế về vẻ đẹp của núi sông, cỏ cây trên đất nước mình. Bút kí "Người lái đò sông Đà" đã thể hiện đậm nét phong cách Nguyễn Tuân. Cảm hứng về dòng sông Đà "hung bạo và trữ tình" chảy trên trang văn của Nguyễn Tuân biến vùng sông nước ấy thành một hình tượng nghệ thuật đặc sắc.
b) Thân bài:
* Phân tích tính cách hung bạo của con sông Đà:
- Vách đá "đá bờ sông dựng vách thành" và những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy lòng sông hẹp. Cái hẹp của lòng sông tác giả tả theo đủ cách:
- "Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời"
- "Con hổ con nai có thể vọt qua sông, và chỉ cần nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách"
- "Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện"
-> So sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng. Cảm giác như Nguyễn Tuân luôn lục lọi đến tận kiệt cùng cái kho ấn tượng ăm ắp này để tìm cho được một cách nói có thể làm kinh động hồn trí con người.
- Gió trên sông Đà: "Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm" -> bằng lối viết tài hoa, những câu văn diễn đạt theo kiểu móc xích, cấu trúc câu trùng điệp, gợi hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, dữ dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt con người.
- Những hút nước ở quãng Tà Mường Vát: "nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc", "chỗ giếng nước sâu ặc ặc lên", "những cái hút nước lôi tuột bè gỗ xuống hoặc hút những chiếc thuyền xuống rồi đánh chúng tan xác" -> Lối so sánh độc đáo khiến con sông Đà không khác gì loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như muốn khủng bố tinh thần và uy hiếp con người.
- Âm thanh thác nước sông Đà:
- Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật hùng tráng bài ca của gió thác xô sóng đá.
- Ban đầu tác giả mới để cất lên khúc như đang "oán trách", "van xin", "khiêu khích", "giọng gằn mà chế nhạo". Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ, các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại: "nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa", "rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng" -> Sự liên tưởng vô cùng phong phú, âm thanh của thác nước sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì âm thanh của một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, Nguyễn Tuân quả là đã chơi ngông lắm trong nghệ thuật.
- Bằng thủ pháp nhân hóa, người đọc nhận ra từng sắc diện người trong những hình thù đá vô tri. Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào từng thớ đá: "Cả một chân trời đá" mặt hòn nào trông cũng "ngỗ ngược", "nhăn nhúm", "méo mó" -> Những hòn đá vô tri vô giác nhưng qua cái nhìn của Nguyễn Tuân chúng mang vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại và hung dữ với ba trùng vi thạch trận.
- Trùng vi thạch trận thứ I: Bọn đá đứa thì "hất hàm" đứa thì "thách thức", "mặt nước hò la ùa vào bẻ gãy cán chèo", sóng nước "đá trái, thúc gối vào bụng vào hông thuyền".
- Trùng vi thạch trận thứ II: "Sông nước bài binh bố trận ở khắp nơi, tăng nhiều cửa tử, cửa sinh nằm ở phía hữu ngạn"
- Trùng vi thạch trận thứ III: Sông Đà sắp đặt bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở ngay giữa.
=> Con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác gì "kẻ thù số một của con người". Nhưng cũng chính từ hình ảnh con sông ấy lại là kẻ tôn vinh tài năng nghệ thuật tài hoa, tài tử và cực kì uyên bác của một ngòi bút số một về thể loại tùy bút Việt Nam.
c) Kết bài:
Cảm nhận của em về tính cách hung bạo của sông Đà.
Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà dàn ý - Mẫu 3
1. Mở bài:
Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm “Người lái đò sông Đà” (Nguyễn Tuân là nhà văn xuất sắc có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học Việt Nam).
2. Thân bài:
a. Cảnh núi đá hai bên sông dựng đứng như bức tường thành, ở giữa là khúc sông hẹp
‐ Dòng sông Đà bị một hòn đá chắn ngang giống như một cái yết hầu.
‐ Đứng bờ bên này cẩn thận ném hòn đá sang bờ bên kia. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia.
‐ Chỉ lúc đúng ngọ thì mặt sông mới có mặt trời.
→ Người viết sử dụng nhiều giác quan để cảm nhận (thị giác, xúc giác).
b. Cảnh ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng
‐ Dòng sông dài hàng cây số. Cảnh tượng sông dữ dội nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm giống như lúc nào cũng đòi nợ người lái đò sông Đà
‐ Quãng này mà chủ quan, khinh suất tay lái thì dù tay lái có điêu luyện đến đâu cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra
→ Sử dụng nhiều câu rút gọn, điệp ngữ và các điệp cấu trúc gợi lên sự chuyển động dồn dập của sóng và gió phối hợp với nhau tạo nên những đường nét dữ dội cho sông Đà.
c. Cảnh ở quãng Tà Mường Vát
‐ Dòng sông có những cửa hút nước giống như ai đó thả cái giếng bê tông xuống dòng sông để chuẩn bị làm móng cầu
‐ Nước ở đây rít và kêu lên như cái cửa cống bị sặc, những cái giếng sâu nước cứ ặc ặc lên như dầu sôi vừa được rót vào
‐ Những cái giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý
→ Việc sử dụng biện pháp so sánh, liên tưởng, nhân hóa độc đáo tạo cảm giác về sự nguy hiểm của sông Đà.
3. Kết bài:
Khẳng định lại vẻ đẹp hung bạo của con sông Đà và giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm
Dàn ý vẻ đẹp hung bạo của sông Đà - Mẫu 4
a) Mở bài
– Là một nhà văn tài hoa rất độc đáo, tác giả Nguyễn Tuân thích miêu tả những cái gì dữ dội, mãnh liệt hoặc với những đẹp một cách tuyệt đỉnh. Những trang viết hay nhất của ông thường là trang tả đèo cao, vực sâu, thác nước.
– Nguyễn Tuân yêu thiên nhiên tha thiết, khi ông có nhiều phát hiện tinh tế về vẻ đẹp của núi sông, cỏ cây trên khung hình đất nước mình. Bút kí “Người lái đò sông Đà” đã thể hiện đậm nét phong cách nhà văn Nguyễn Tuân. Cảm hứng về dòng sông Đà “hung bạo và trữ tình” với sự chảy trên trang văn của Nguyễn Tuân biến vùng sông nước ấy thành một hình tượng nghệ đặc sắc.
b) Thân bài
* Phân tích tính cách hung bạo của dòng sông Đà:
– Vách đá “đá bờ sông dựng vách thành” những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy lòng sông hẹp. Cái hẹp của lòng sông của tác giả tả theo đủ cách:
- “Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ cũng mới có mặt trời”
- “Con hổ con nai có thể vọt qua sông, và cũng chỉ cần nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ bên này rồi qua bên kia vách”
- “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, khi mà đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà với sự ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào trên các tầng nhà thứ mấy nào cũng vừa tắt phụt đèn điện”
-> So sánh vừa chính xác, rất tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng. Cảm giác như Nguyễn Tuân luôn lục lọi đến tận những kiệt cùng cái kho ấn tượng ăm ắp này để tìm cho được một trong những cách nói có thể làm kinh động hồn trí con người.
– Gió trên sông Đà: “Dài hàng cây số nước xô đá, có đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt nhiều năm” -> bằng chính những lối viết tài hoa, những câu văn diễn đạt theo nhiều kiểu móc xích, cấu trúc câu trùng điệp, gợi hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, đã dữ dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt hết con người.
– Những hút nước ở quãng Tà Mường Vát khi: “nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc” và “chỗ giếng nước sâu ặc ặc lên”, “những cái hút nước lôi tuột bè gỗ xuống hoặc hút những chiếc thuyền xuống rồi cũng đánh chúng tan xác” -> Lối so sánh độc đáo khiến con sông Đà không khác gì những loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như muốn khủng bố đến tinh thần và uy hiếp con người.
– Âm thanh những con thác nước sông Đà:
Nguyễn Tuân như một người nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật hùng tráng bài ca của gió thác đá xô sóng đá.
Ban đầu tác giả mới để cất lên khúc như đang “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích” và “giọng gằn mà chế nhạo”. Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ, với các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở chính đỉnh điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại mà: “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa những rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa”, “rừng lửa cùng cần gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng” -> với sự liên tưởng vô cùng phong phú, âm thanh của thác nước sông Đà được tác giả Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì những âm thanh của một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa với thời tiền sử. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, khi mà Nguyễn Tuân quả là đã chơi ngông lắm khi trong nghệ thuật.
– Bằng thủ pháp nhân hóa, người đã đọc nhận ra từng sắc diện người trong những hình thù đá vô tri. Nhà văn Nguyễn Tuân đã dùng đến sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào từng thớ đá là: “Cả một chân trời đá” mặt hòn nào cũng trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó” -> Những hòn đá đã vô tri vô giác nhưng qua cái nhìn của Nguyễn Tuân chúng mang dáng vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại, hung dữ với ba trùng vi thạch trận.
- Trùng vi thạch trận thứ I: Bọn đá đứa thì “hất hàm” đứa thì “thách thức”, “mặt nước hò la ùa vào bẻ gãy cán chèo”, khi sóng nước “đá trái, thúc gối vào bụng vào bên hông thuyền”.
- Trùng vi thạch trận thứ II: “Sông nước bài binh bố trận ở khắp nơi, tăng nhiều cửa tử, cửa sinh đã nằm ở phía hữu ngạn”
- Trùng vi thạch trận thứ III: Sông Đà sắp đặt bên phải bên trái đều là những luồng chết, luồng sống ở ngay giữa.
=> Con sông Đà hung bạo, tàn ác không hề khác gì “kẻ thù số một của con người”. Nhưng cũng chính từ hình ảnh con sông ấy lại chính là kẻ tôn vinh tài năng nghệ thuật tài hoa, tài tử và thật cực kì uyên bác của một ngòi bút số một về thể loại tùy bút của đất nước Việt Nam.
c) Kết bài
Cảm nhận của các bạn về tính cách hung bạo và đầy những biến động của sông Đà.
Dàn ý sông Đà hung bạo - Mẫu 5
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân, tác phẩm Người lái đò sông Đà và vẻ đẹp của con sông Đà ở thượng nguồn.
2. Thân bài
a. Cảnh vách đá hai bên sông dựng đứng như vách thành và ở quãng sông hẹp
- Có vách đá chẹt dòng sông Đà như một cái yết hầu.
- Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia.
- Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.
→ Tác giả sử dụng nhiều giác quan (thị giác, xúc giác) để cảm nhận.
b. Cảnh ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng
- Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà...
- Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.
→ Sử dụng nhiều câu văn ngắn, điệp từ, điệp cấu trúc gợi lên nhịp chuyển động gấp gáp của sóng gió đang phối hợp với nhau, tạo thêm nét hung bạo của sông Đà.
c. Cảnh ở quãng Tà Mường Vát
- Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống dòng sông để chuẩn bị làm móng cầu.
- Nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc... những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.
- Nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống.
→ Sử dụng các biện pháp so sánh, liên tưởng, nhân hóa độc đáo gợi lên cảm giác về những mối nguy hiểm của sông Đà.
3. Kết bài
Khẳng định lại giá trị của tác phẩm.
Dàn ý vẻ đẹp hung bạo của Sông Đà - Mẫu 6
I. Mở bài:
– Giới thiệu đoạn trích nói về sông Đà hung bạo
– Cách cảm nhận và khám phá vẻ đẹp thiên nhiên của nhà văn Nguyễn Tuân: tài hoa, uyên bác, giàu chất thơ
II. Thân bài:
- Tác giả, tác phẩm
- Phân tích
1. Vẻ đẹp hung bạo của sông đà – cái hút nước sông Đà
- Một loạt phép so sánh, nhân hoá: “như cái giếng bê tông…”, “y như là…mượn cạp ra ngoài bờ vực”, “…như cửa cống cái bị sặc”, “…như vừa rót dầu sôi vào”,… -> Đặc tả cái “huyệt chết” Sông Đà
- Mọi giác quan đều được huy động: thính giác, thị giác, trường liên tưởng, tưởng tượng phong phú. => là Sự hung bạo, dữ dằn, đe dọa và trấn áp của con sông hiện lên sinh động, trực quan, tác động mạnh vào cảm giác của người đọc
- Âm thanh: “ặc ặc như vừa rót dầu sôi vào” và từ láy tượng thanh “ặc ặc” => Gợi hình ảnh hút nước trở thành vạc dầu sôi nóng bỏng, chết chóc, “tựa như tiếng kêu của một loài quái thú”, “Nước như bị bức tử trong cái giếng bê tông, không sao thoát ra được, đành kêu lên tiếng kêu đầy ai oán, não nề và bất lực.”
- Hình ảnh: cái hút nước “quay lừ lừ cánh quạ đàn”, “xoáy tít đáy” khắc họa lực hút khủng khiếp như “miệng hố đen”, có thể kéo tuột hay nuốt chửng mọi thứ không thương tiếc =>Thấp thoáng “cánh quạ đàn” – bóng dáng của thần chết rình rập, dọa dẫm => rùng mình, ớn lạnh.
- Liên tưởng, trải nghiệm thực tế: Con thuyền chèo nhanh qua cái hút nước như “ô tô sang số ấn ga…ngoài bờ vực” => Mượn trải nghiệm đường bộ để tả trải nghiệm đường sông. “Những bè gốc rừng đi nghênh ngang…khuỷnh sông dưới” => Tăng cảm giác hãi hùng, kịch tính cho người đọc. Mọi góc cạnh của cái “huyệt chết”, “hố tử thần” Sông Đà hiện ra sống động, chính xác, ấn tượng, “đập mạnh vào giác quan”.
2. Nghệ thuật, cảm nhận về thiên nhiên
- Khám phá thiên nhiên, tạo vật ở phương diện thẩm mỹ. Vận dụng tri thức của nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghệ thuật khác nhau
- Độc đáo, tài hoa và rất mực uyên bác, trong ánh mắt của Nguyễn Tuân, Sông Đà là một sinh thể có tâm hồn và tính cách độc đáo. Chi tiết khắc họa cái hút nước Sông Đà chính là làm nên sự tột cùng cho vẻ đẹp hung bạo, hùng vĩ, dữ dội của dòng Đà giang, xem “Cái bình thường là cái chết của nghệ thuật”, đặc biệt ấn tượng với những cảnh tượng gây tác động mạnh vào giác quan.
- Sở hữu vốn liếng từ vựng phong phú, có khả năng điều khiển, chỉ đạo đội quân Việt ngữ tài tình
- Lời văn, câu văn như “tung hoành sảng khoái” giữa “dòng thác ngôn từ” tạo ra hiệu quả nghệ thuật đối với người đọc
III. Kết bài:
Khái quát vấn đề nghị luận.
Sông Đà hung bạo dàn ý - Mẫu 7
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Dẫn dắt vấn đề
II. Thân bài
1/ Cảnh đá bờ sông “dựng vách thành”
– Hình ảnh “vách thành” đã phần nào thể hiện sự vững chãi thâm nghiêm và những sức mạnh bí ẩn đầy đe dọa của vách núi như thành cao, vực thẳm, như hào sâu.
– Tác giả đã dùng những chi tiết tưởng như bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng lại có giá trị gợi tả gián tiếp độ hẹp của dòng sông, độ cao của vách đá, như mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Đến việc đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách.
– Cách so sánh vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu – động từ “chẹt” và hình ảnh so sánh với cái “yết hầu” đã đem đến ấn tượng mãnh liệt cho người đọc về độ hẹp của lòng sông khi bị vách đá chèn ép tới nghẹt thở.
– Miêu tả thế giới sự vật thông qua cảm giác rất quen thuộc của Nguyễn Tuân đã được thể hiện độc đáo khi nhà văn tạo ra ấn tượng tương phản của xúc giác với chi tiết ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, tạo ra ấn tượng của thị giác khi lấy hè phố để miêu tả mặt sông, lấy nhà cao gợi tả vách đá, truyền cho người đọc những hình dung về cái tăm tối lạnh lẽo đột ngột khi con thuyền đi từ ngoài vào khúc sông có đá hun hút dựng vách thành qua hình ảnh so sánh về một khung cửa sổ nào trên cái tầng thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.
2/ Mặt “ghềnh Hát Loóng”
– Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm… Câu văn miêu tả có nhịp ngắn, nhanh, dồn dập kết hợp với các thanh sắc, những từ ngữ điệp nối tiếp thế chỗ nhau trong các cụm từ ngữ đã tái hiện sinh động quần thể những sức mạnh thiên nhiên dữ dội nhất của nước, sóng, gió, và đá sông Đà, trong đó cuồn cuộn những con sóng dữ vút lên, chồm lên nhau, trùng điệp ghê rợn trên mặt ghềnh.
– Từ láy “gùn ghè” và hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hóa về việc sóng gió trên mặt ghềnh Hát Loóng lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy đã thể hiện sinh động sự hung hãn lì lợm và cuồng bạo của dòng sông.
3/ Những “cái hút nước” trên sông Đà
– Một loạt những so sánh sống động, đặc sắc khiến hút nước thiện ra trong hình ảnh như một cái giếng bê tông xoáy tít, trong âm thanh của một cửa cống cái bị sặc, trong cả hình ảnh và âm thanh như mặt nước bị rót dầu sôi.
– Từ láy tượng hình “lừ lừ”, từ láy tượng thanh tăng nghĩa “ặc ặc” cùng những chi tiết so sánh mang sắc thái nhân hóa khi miêu tả nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc, tất cả góp phần làm hiện ra cả hình ảnh và âm thanh của hút nước như một quái vật đang giận dữ tới ghê người.
– Hình ảnh liên tưởng đến quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực đã giúp người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác hãi hùng nếu phải đi thuyền men gần hút nước đáng sợ. Nhà văn còn phát huy trí tưởng tượng phong phú khi hình dung ra những bè gỗ to lớn nghênh ngang bị “lôi tuột xuống” đáy hút nước, hay chiếc thuyền bị hút trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi… tan xác ở khuỷnh sông dưới.
– Không dừng lại trong những hình dung tưởng tượng về cái bè gỗ hay một con thuyền bất hạnh nào đó phải làm mồi cho hút nước, Nguyễn Tuân còn tạo ra một giả tưởng li kì dẫn dụ người đọc vào trò chơi cảm giác, kéo họ xuống tận đáy hút nước xoáy tít, sâu hoắm cùng một anh bạn quay phim táo tợn. Hút nước vì thế đã được miêu tả bằng thủ pháp điện ảnh, hất ngược từ dưới lên một cách sống động, truyền cảm từ hình khối của một thành giếng xây toàn bằng nước cho đến màu sắc của dòng sông “nước xanh ve”, và thậm chí cho đến cả cảm giác sợ hãi rất chân thực của con người khi phải đứng trong lòng một khối pha lê xanh như sắp vỡ tan, bất cứ lúc nào cũng như sắp đổ ụp vào người.
4/ Thác đá sông Đà
a/ Thác đá khi ở xa:
– Khi còn xa mới tới thác, Nguyễn Tuân đã miêu tả âm thanh của tiếng nước thác bằng những từ ngữ chỉ cảm xúc, thái độ, tâm trạng của con người khi “oán trách”, “van xin”, khi khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo, khi “rống lên”. Nghệ thuật nhân hóa đã khiến thác nước sông Đà thực sự trở thành một sinh thể sống đang giận dữ, gầm gào, đe dọa con người ngay cả khi nó chưa xuất hiện.
– Sự tài hoa tinh tế của Nguyễn Tuân còn thể hiện qua cách nhà văn dùng hệ thống những từ ngữ miêu tả âm thanh theo những cung bậc tăng dần cả về sắc thái cảm xúc và âm lượng để vừa miêu tả sống động sự đe dọa hung bạo của dòng sông, vừa miêu tả khoảng cách ngắn dần của người quan sát của thác đá sông Đà – và có lẽ đây cũng là cách làm tăng dần cảm giác hãi hùng, hồi hộp, kì thú.
– Những phép so sánh kì thú trong một câu văn dài đầy ắp những hình ảnh dữ dội với hàng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng nhà văn đã thể hiện sự tài hoa độc đáo khi lấy hình ảnh gợi tả âm thanh, lấy lửa tả nước, lấy rừng tả sông, đặt những hình ảnh tương phản trong một trường liên tưởng bất ngờ, thú vị. Cách miêu tả ấy khiến âm thanh của thác đá không chỉ được cảm nhận bằng thính giác, không chỉ được hình dung qua trí tưởng tượng mà còn hiện ra trong những ấn tượng đặc biệt sống động của thính giác, thị giác.
b/ Thác đá khi ở gần:
– Khi thác đá hiện ra, sau câu văn ngắn như một tiếng reo ngỡ ngàng, thích thú: Tới cái thác rồi, nhà văn đã đồng thời tả cả đá và nước thác với sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Tính từ “trắng xóa” lặp lại nhiều lần gây ấn tượng về sóng, về gió, về bọt nước trào sôi dữ dội, lại gợi tả làn hơi nước như mờ đi trên một diện rộng mênh mông của mặt sông; cùng với hình ảnh “chân trời đá”, câu văn miêu tả của Nguyễn Tuân đã làm hiện ra sự hùng vĩ tới choáng ngợp của thác đá sông Đà.
– Đá sông Đà cùng với nước với sóng với gió sông Đà được miêu tả qua một hình ảnh nhân hóa đặc sắc: Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông… mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện… là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Sử dụng thuật ngữ của quân sự, Nguyễn Tuân đã gợi dậy cái sự bí ẩn và hiểm ác của đá sông Đà trong sự vĩnh hằng của thiên nhiên khi ngàn năm mai phục, khi dữ dằn, đột ngột hiện ra sau cái dập dềnh của sóng để nhổm cả dậy vồ lấy thuyền.
– Một loạt những thuật ngữ của quân sự, võ thuật, thể thao như “thạch trận”, “cuộc giáp lá cà”, “hàng tiền vệ”, “boongke”, “pháo đài”… một hệ thống dày đặc những động từ mang sắc thái nhân hóa, đặt trong những câu văn ngắn, dồn dập: mặt sông rung tít như thác nước reo hò… hò la… ùa vào… bẻ gãy… thúc gối… đội thuyền… đánh miếng đòn độc hiểm… tóm lấy thuyền… khuýp quật vu hồi… khiến thác đá sông Đà thực sự trở thành một chiến trường với những trận “hỗn chiến” ác liệt giữa con người với thiên nhiên. Sự ác liệt còn được tô đậm thêm bởi những âm thanh mãnh liệt của một trận nước vang trời thanh la não bạt… Có lúc thác đá được động vật hóa để làm tăng thêm sự hung hãn hoang dại trong hình ảnh dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Thậm chí, sự hiểm ác và sức mạnh ghê gớm phi phàm của thác đá sông Đà còn được nhà văn đẩy lên đến mức độ thần linh trong hình ảnh ẩn dụ về binh pháp của thần sông, thần đá.
– Tùy theo hình dạng, kích thước của đá và cách nhìn của nhà văn mà đá sông Đà được miêu tả trong những cảm nhận khác nhau, khi thì “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm méo mó” bởi sự gồ ghề, lúc to lớn qua dáng “bệ vệ oai phong lẫm liệt”, khi này là tảng đá với những cạnh sắc nhọn hất ngược lên đem đến cảm nhận về sự “xấc xược” trong cái “hất hàm” thách thức, lúc khác lại là tảng đá nhẵn xanh xuôi chảy từ trên xuống qua hình ảnh thằng đá tướng… tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng… Thác đá sông Đà còn vô cùng xảo quyệt khi dụ chiếc thuyền của đối phương, khi dàn sẵn trận địa và nhất là khi bày thạch trận mai phục và tấn công con người: Vòng đầu, mở ra năm cửa… cửa sinh nằm lập lờ ở phía tả ngạn; vòng thứ hai tăng thêm nhiều cửa tử… cửa sinh lại bố trí lệch qua phía hữu ngạn; vòng thứ ba bên phải, bên trái đều là luồng chết… luồng sống lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác…
⇒ Nghệ thuật nhân hóa cùng những từ láy gợi hình đầy sức biểu cảm và nhân hóa là những tính từ chỉ tính cách, thái độ, cảm xúc đã giúp Nguyễn Tuân làm hiện lên một trong những phần khủng khiếp nhất của sông Đà, đó là thác đá trên dòng sông. Kết hợp với sóng, gió và nước thác, đá sông Đà không im lìm như đặc tính vốn có tự ngàn năm mà sống động, dữ dằn, thét gào, ác hiểm khiến đá sông Đà không chỉ lộ “diện mạo” mà cả “tâm địa” của thứ kẻ thù số một của con người.
III. Kết bài:
Khái quát vấn đề nghị luận.