TOP 11 Bài thu hoạch chính trị hè 2023 của giáo viên đầy đủ, chi tiết, giúp thầy cô có thêm nhiều ý tưởng mới để hoàn thiện bài kiểm tra cuối khóa lớp bồi dưỡng chính trị hè 2023 của mình.
Với 11 bài thu hoạch chính trị hè 2023, thầy cô dễ dàng trả lời các câu hỏi, đánh giá lại những gì đã học trong thời gian vừa qua, rồi đưa ra đề xuất, ý kiến đánh giá cá nhân để góp phần xây dựng mục tiêu chung. Mời thầy cô cùng theo dõi bài viết dưới đây của Download.vn:
Bài thu hoạch chính trị hè năm 2023 của giáo viên
- Bài thu hoạch chính trị hè 2023
- Bài thu hoạch lớp bồi dưỡng chính trị hè 2023
- Bài thu hoạch thảo luận lớp bồi dưỡng chính trị hè 2023
- Bài thu hoạch lớp bồi dưỡng chính trị hè cho cán bộ quản lý, giáo viên
- Bài thu hoạch học tập Chính trị hè năm 2023
- Bài thu hoạch Chính trị hè 2023 về Xây dựng không gian văn hóa
- Bài thu hoạch chính trị hè 2023
- Bài thu hoạch chính trị hè năm 2023 - Mẫu 1
- Bài thu hoạch chính trị hè năm 2023 - Mẫu 2
- Bài thu hoạch chính trị hè năm 2023 - Mẫu 3
- Bài thu hoạch chính trị hè năm 2023 - Mẫu 4
Bài thu hoạch chính trị hè 2023
Câu 1: Qua nghiên cứu chuyên đề “ Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về phát huy văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam gắn với khát vọng xây dựng tỉnh Khánh Hòa trở thành thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2030”, anh chị sẽ làm gì để bồi đắp ý chí tự lực, tự cường, thắp lên ngọn lửa khát vọng của bản thân và học sinh, góp phần thực hiện hóa mục tiêu của tỉnh?
Bài làm
Học tập, làm theo và nêu gương Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất, không chỉ kết tinh những thành tựu của quá khứ, không chỉ thể hiện đỉnh cao của trí tuệ và tâm hồn thời đại mà còn là những phẩm chất tiêu biểu cho nền văn hóa tương lai. Học tập Bác: Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Khánh Hòa luôn xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, văn hóa là mục tiêu, động lực và hệ điều tiết của sự phát triển; chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa đều phải được coi là quan trọng như nhau; mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, suốt đời phấn đấu hy sinh cho mục tiêu lý tưởng của Đảng, lấy ấm no, hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; luôn thương yêu, quý trọng con người; việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh. Thực hành văn hóa nêu gương trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, giúp dân, có trách nhiệm với dân; phát huy vai trò, sức mạnh của dân trong xây dựng văn hóa mới, con người mới.
Quan tâm giữ gìn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc đi đôi với tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Không ngừng nỗ lực học tập, rèn luyện cả về chuyên môn và phẩm chất đạo đức và lối sống văn hóa để làm giàu trí tuệ, phẩm chất của mình hướng đến các giá trị “chân, thiện, mỹ”. Phải kiến tạo môi trường và điều kiện cần thiết, thuận lợi để văn hóa thật sự thấm sâu trong tâm lý quốc dân, vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người; xây dựng, kiến tạo đời sống tinh thần phong phú, cao đẹp. Các cấp ủy đảng, chính quyền phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế, văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân.
Phát triển con người toàn diện và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh để văn hóa thực sự soi đường, trở thành sức mạnh nội sinh, động lực cho sự phát triển nhanh và bền vững. Chú trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị về văn hóa, đạo đức; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, để Đảng ta và hệ thống chính trị thật sự là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho lương tri và phẩm giá con người Việt Nam. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, tận tụy, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân.
Nêu gương: Chiều sâu của các giá trị văn hóa chính là sức cảm hóa, sức thuyết phục từ trái tim đến trái tim, bằng những lời nói, hành động tác phong giản dị, hàm súc, có sức lan tỏa mạnh mẽ; theo gương Bác, mỗi cán bộ, đảng viên phải có tư cách chuẩn mực, thật sự là tấm gương tiêu biểu trên các phương diện tự mình phải: Cần kiệm. Hòa mà không tư. Cả quyết sửa lỗi mình. Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm; làm việc phải: Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng cảm. Phục tùng đoàn thể. Trong cách ứng xử với nhân dân phải có thái độ ân cần, niềm nở, vừa thân ái vừa nhiệt tình, thể hiện tấm lòng độ lượng, khoan dung. Đề cao vai trò, trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu trong thực hiện văn hóa công vụ. Lấy gương người tốt, việc tốt hằng ngày để giáo dục lẫn nhau để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, văn hóa mới. Người có chức vụ càng cao, cương vị càng lớn càng phải gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác để cán bộ, đảng viên và nhân dân noi theo; phải thể hiện được tư tưởng vững vàng, quan điểm đúng đắn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, hết lòng vì nước, vì dân; có phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, sâu sát thực tiễn, thật sự là hạt nhân đoàn kết, quy tụ, tạo động lực và phát huy trí tuệ tập thể. Việc nêu gương của cán bộ, đảng viên phải theo phương châm“trên trước, dưới sau”,“trong trước, ngoài sau”,“học đi đôi với làm theo”; cấp ủy viên nêu gương cho đảng viên, đảng viên nêu gương cho quần chúng; cán bộ cấp trên nêu gương cho cán bộ cấp dưới; thủ trưởng cơ quan, đơn vị nêu gương cho công chức, viên chức và người lao động. Từ việc nêu gương của mỗi cán bộ, đảng viên hướng tới việc xây dựng tập thể nêu gương, đơn vị nêu gươngđể từng bước lan tỏa giá trị của người cán bộ, đảng viên và của tổ chức đến nhân dân.
Đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của phát triển văn hóa, xây dựng con người trong đổi mới và phát triển bền vững. Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, hệ thống chính trị và toàn xã hội xác định nhiệm vụ phát triển văn hóa và xây dựng con người là một nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt. Trong nhận thức và hành động phải luôn xác định văn hóa là hồn cốt của dân tộc, là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển nhanh và bền vững. Chấn chỉnh, khắc phục thái độ xem nhẹ việc xây dựng và đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa. Gắn các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển văn hóa và xây dựng con người với các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của các cơ quan, đơn vị, các ngành, các cấp. Tuyên truyền, giáo dục trong đảng viên và nhân dân nhận thức, vận dụng đúng đắn, sáng tạo quan điểm xây dựng và phát triển văn hóa, con người trước yêu cầu mới.
Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát, khen thưởng, xử lý các hoạt động lãnh đạo, quản lý văn hóa, nhất là việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ về phát triển văn hóa, xây dựng con người.
Đổi mới phương thức lãnh đạo theo hướng vừa đảm bảo cho văn hóa, văn nghệ, văn học, nghệ thuật, báo chí phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa đảm bảo quyền tự do, dân chủ cá nhân trong sáng tạo văn hóa, nghệ thuật, khoa học công nghệ trên cơ sở phát huy tính tự giác cao với mục đích đúng đắn. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan thông tin đại chúng, mạng xã hội, Internet… trong việc tuyên truyền, phổ biến về lịch sử - văn hóa nhằm nâng cao kiến thức cho đoàn viên, hội viên và nhân dân. Phát huy vai trò chủ thể của nhân dân trong xây dựng và hưởng thụ đời sống văn hóa. Nâng cao kiến thức, ý thức bảo vệ, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, di sản văn hóa, di tích lịch sử trên địa bàn.
Xây dựng văn hóa trong Đảng và hệ thống chính trị phải được thực hiện trước hết trong các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể, trong cán bộ, công chức, viên chức, người lao động Nhà nước để tạo động lực, niềm tin và lan tỏa mạnh mẽ trong nhân dân.
Thứ nhất, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; gương mẫu triển khai, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, tạo sự thống nhất cao về chính trị, tư tưởng, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Bảo đảm thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tổ chức, cấp dưới phục tùng cấp trên. Tăng cường đoàn kết, nhất trí trong Đảng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc gắn với việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Thứ hai, thường xuyên thực hành văn hóa tự phê bình và phê bình; mỗi cấp ủy, cán bộ, đảng viên cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong thực hiện đồng bộ, quyết liệt các giải pháp văn hóa tự phê bình và phê bình, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu phải gương mẫu tự soi, tự sửa, giúp đồng chí và quần chúng tự soi, tự sửa. Phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu trên tinh thần tiến hành từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, từ cấp ủy, người đứng đầu đến cán bộ, đảng viên. Duy trì và thực hiện nghiêm túc, thường xuyên, hiệu quả các nguyên tắc xây dựng Đảng, Điều lệ Đảng; kết hợp chặt chẽ giữa công tác tư tưởng với công tác tổ chức; phát huy dân chủ; đề cao
tính tự giác, trách nhiệm, thái độ và phương pháp tự phê bình và phê bình đúng đắn, phù hợp, bảo đảm tính văn hóa, tính khoa học, tính nhân văn của mỗi cán bộ, đảng viên. Phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng, nhất là nhân dân tại mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị trong giám sát, phê bình tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên với các hình thức phù hợp.
Thứ ba, tăng cường rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần, tự soi, tự đối chiếu, tự sửa chữa và làm theo, gắn chặt với phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”,“tự chuyển hóa” trong nội bộ. Kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái,“lợi ích nhóm” và tình trạng nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít. Phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trong thực hiện tốt các quy định liên quan đến văn hóa công vụ, đạo đức, lối sống; ra sức rèn luyện đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Đánh giá, sử dụng đúng cán bộ, kiên quyết xử lý nghiêm cán bộ vi phạm về phẩm chất đạo đức, lối sống.
Thứ tư, coi trọng văn hóa nêu gương, văn hóa trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân
Trọng tâm xây dựng và phát triển văn hóa là xây dựng con người có nhân cách văn hóa và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh; chú trọng mối quan giữa văn hóa và chính trị, văn hóa và kinh tế; xây dựng văn hóa trong Đảng và hệ thống chính trị; xây dựng văn hóa công chức, văn hóa công vụ, đặc biệt là đạo đức công vụ, chú trọng sự nêu gương của cán bộ, đảng viên. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Coi trọng phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh, tạo điều kiện thuận lợi để các giá trị văn hóa, chuẩn mực con người Khánh Hòa không ngừng được bổ sung, phát triển, thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển nhanh và bền vững của tỉnh. Mỗi cộng đồng dân cư, cơ quan, đơn vị, tổ chức phải là một môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, lối sống. Gắn kết xây dựng môi trường văn hóa với bảo vệ môi trường sinh thái. Xây dựng gia đình thực sự là nơi hình thành, nuôi dưỡng nhân cách văn hóa và giáo dục nếp sống cho con người. Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Xây dựng và nhân rộng các mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu, có nền nếp, ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, vợ chồng hòa thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu nhau.
Xây dựng mỗi trường học phải thực sự là một trung tâm văn hóa giáo dục, rèn luyện con người về lý tưởng, phẩm chất, nhân cách, lối sống; giáo dục truyền thống văn hóa cho thế hệ trẻ. Xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đoàn kết, dân chủ, văn minh, đạt chuẩn về văn hóa; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; xây dựng nếp sống văn hóa, văn minh, nhất là trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; lồng ghép, gắn kết các hoạt động văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, chương trình xây dựng nông thôn mới. Từng bước thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các địa phương, các tầng lớp nhân dân, giữa thành thị và nông thôn, vùng biên giới, vùng đặc biệt khó khăn.
Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng; khuyến khích các hoạt động tôn giáo gắn bó với dân tộc, hướng thiện, nhân đạo, nhân văn, tiến bộ,“tốt đời, đẹp đạo”. Khuyến khích các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”,“uống nước nhớ nguồn”, từ thiện, nhân đạo. Phê phán và ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan. Tiếp tục nâng cao hình ảnh và con người Khánh Hòa, đẩy mạnh việc giới thiệu, phát huy các giá trị, bản sắc văn hóa đặc trưng của tỉnh. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, nâng cao các giá trị đạo đức xã hội, trước hết là đối với các xã nông thôn mới, các xã, phường, thị trấn văn hóa. Khơi dậy truyền thống văn hóa của con người Khánh Hòa: Năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì mục tiêu phát triển của tỉnh và chung sức thực hiện các chính sách an sinh xã hội vì cộng đồng. Xây dựng và thực hiện các chuẩn mực văn hóa trong lãnh đạo, quản lý; chú trọng xây dựng môi trường văn hóa công sở lành mạnh, dân chủ, đoàn kết, nhân văn; ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm bệnh quan liêu, bè phái, mất đoàn kết, chủ nghĩa cơ hội và thực dụng. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân và kinh doanh. Coi trọng xây dựng và lan tỏa các giá trị văn hóa cả trong chính trị và kinh tế, nhất là trong các cơ quan, đơn vị, cộng đồng dân cư để văn hóa thực sự thấm sâu, tạo động lực thúc đẩy kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội phát triển bền vững. Chú trọng xây dựng văn hóa ứng xử lành mạnh trong xã hội, phát huy những giá trị tích cực về thuần phong, mỹ tục của gia đình và xã hội; nêu cao tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết; trọng tình nghĩa, trọng công lý và đạo đức xã hội. Bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững của truyền thống văn hóa địa phương.
Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về xây dựng văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, xây dựng hình ảnh con người Khánh Hòa với các phẩm chất tốt đẹp đó là: Cần kiệm, trung thực, mến khách, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương pháp luật; có tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống lành mạnh, phong phú; có trí tuệ, bản lĩnh và tinh thần trách nhiệm cao với bản thân, gia đình, cộng đồng, xã hội; có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, có ý thức đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung; có tầm vóc, thể lực tốt đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; hiểu biết sâu sắc và tự hào về truyền thống văn hóa của các dân tộc trong tỉnh.
Chú trọng giữ gìn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, những phong tục, tập quán tốt đẹp của các dân tộc. Phát động các phong trào thi đua xây dựng con người Khánh Hòa phát triển toàn diện cả về thể chất và tinh thần gắn với các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể và phong trào thi đua tạo môi trường văn hóa, động lực tinh thần để mỗi người dân phấn đấu hoàn thiện, phát triển bản thân theo các chuẩn mực đã đề ra.
Câu 2: Qua nghiên cứu những nội dung cốt lỗi trong cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “ Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiểu cực, góp phần xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh”, anh chị nghĩ thế nào về vấn đề tham nhũng, tiêu cực trong giáo dục? Đề xuất các giải pháp để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong giáo dục.
Bài làm
Tác phẩm “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là cuốn cẩm nang về công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, có giá trị lý luận và thực tiễn quan trọng đối với công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị và sự nghiệp cách mạng của nước ta hiện nay với những giá trị cụ thể.
Tác phẩm là cẩm nang trong công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực, vấn đề rất cốt lỗi để xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, thể hiện nhuần nhuyễn phương châm: kết hợp đồng bộ giữa xây và chống; giữa đẩy lùi và ngăn chặn từ sớm, từ xa; giữa xử lý nghiêm minh và phòng ngừa, giáo dục; giữa xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị và tư tưởng, tổ chức và cán bộ gắn liền với suy thoái vêv đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; giữa quyết tâm chính trị của người đứng đầu Đảng, của toàn Đảng và cả hệ thống chính trị với sự đồng thuận, ủng hộ của nhân dân, bạn bè quốc tế
Tác phẩm có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn, là sự tổng kết thực tiễn phong phú rút ra những vấn đề có tính lý luận và các bài học kinh nghiệm quý để củng cố thêm bản lĩnh, sức mạnh và niềm tin; định hướng giải quyết thực hiện có hiệu quả công tác đấu tranh, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong thời gian tới.
Tác phẩm khẳng định thành tựu và ý nghĩa to lớn của công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong những năm qua với vai trò của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng tiêu cực dưới sự lãnh đạo , chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Tổng Bí thư, Trưởng Ban Chỉ Đạo, đã có nhiều cách làm hay, sáng tạo, khoa hoạc, bài bản, chắc chắn, hiệu quả. Nhiều tư tưởng quan điểm, phương châm chỉ đạo, nguyên tắc hành động, giải pháp cơ bản đề phòng, chống tham nhũng, tiêu cực do đồng chí Tổng Bí thư khởi xướng, chỉ đạo đã phát huy hiệu quả, được khẳng định qua thực tiễn, đã đúc kết, rút ra những bài học kinh nghiệm quý, có giá trị cả về lý luận và thực tiễn, trong đó, nhiều nội dung đã được cụ thể hóa, thể chế hóa thành các quy định của Đảng, pháp luật của nhà nước.
Tác phẩm cho thấy sự nhất quán giữa nói và làm; sự kiên trì đấu tranh không ngừng nghỉ; sự thống nhất giữa những nung nấu nhiều năm và hành động quyết liệt trong đấu tranh với tham nhũng, tiêu cực của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng để xây dựng, chỉnh đồn Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh; cho thấy tầm nhìn sự nhất quán cùng những trăn trở, suy nghĩ của đồng chí Tổng Bí thư để có các biện pháp, giải pháp đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có hiệu quả.
Tác phẩm khẳng định niềm tin, sự đồng tình, ủng hộ, cổ vũ của các tầng lớp nhân dân, đại biểu Quốc hội, chính khách, học giả nước ngoài với quyết tâm của Đảng và những chỉ đạo hiệu quả của đồng chí Tổng Bí thư trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam.
Qua nghiên cứu những nội dung cốt lỗi trong cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “ Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiểu cực, góp phần xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh”, những vấn đề tham nhũng, tiêu cực trong giáo dục như tham nhũng trong việc xây dựng trường lớp, cung cấp trang thiết bị giảng dạy và in ấn sách giáo khoa, hối lộ của các trường và giáo viên để nhận được các hình thức khen thưởng và danh hiệu “ảo”, Hiệu trưởng nhận phụ cấp mà không hề lên lớp, phụ huynh và học sinh hối lộ để nhận được điểm tốt và được tuyển sinh vào các trường, lớp theo nguyện vọng, ép buộc học sinh phải đi học thêm bằng cách “trù dập” những học sinh không đi học, thu những khoản lệ phí không chính thức..... và điều đặc biệt ở chỗ có đến 78% phụ huynh có con học trái tuyến hài lòng về các khoản phí và phụ huynh có con học đúng tuyến là 79%. Hơn nữa, có đến 49% phụ huynh có con học trái tuyến và 57% phụ huynh có con học đúng tuyến cho rằng việc thu các khoản ngoài quy định tạo cơ hội cho các gia đình đóng góp thêm cho các nhà trường để có điều kiện dạy và học tốt hơn.
Trong khi Thanh tra Chính phủ chỉ ra nạn “chạy trường, chạy lớp”, dạy thêm tràn lan, buộc học sinh đi học thêm... là các dạng “sai phạm” trong lĩnh vực giáo dục. Còn đứng từ góc độ nhà trường thì nhà trường đã “hợp thức hóa” các hoạt động ngoài quy định; sức ép của xã hội; sức ép từ văn hóa của nhà trường…Thiếu minh bạch trong giáo dục
Tuy nhiên, những tham nhũng ở giáo viên theo đánh giá chỉ là tham nhũng “vặt”, theo thói quen văn hóa có gốc rễ từ truyền thống. Điều này không đáng sợ bằng tham nhũng ở cấp quản lý. việc chạy trường, chạy lớp giáo viên chỉ được hưởng một phần nhỏ, các hiệu trưởng và cấp quản lý cao hơn mới được hưởng nhiều. Ngoài 3 hình thức tham nhũng trên (chiếm 49%) thì còn 3 hình thức tham nhũng khác được phản ánh nhiều là sách giáo khoa, đề bạt cán bộ và chạy điểm. có 3 nguyên nhân dẫn đến cảm giác bất an, trì trệ vẫn nặng nề trong giáo dục của Việt Nam. Đó là do sự thiếu ràng buộc và nếu có ràng buộc cũng là không tương xứng giữa quyền hạn quản lý, cấp phép và nghĩa vụ, trách nhiệm giải trình, xử lý vi phạm hay bất cập.
Thứ hai là sự thiếu chú trọng đến quản lý tài chính trong bộ máy quản lý cũng như trong toàn đội ngũ những người hoạt động giáo dục, kể cả giáo dục ngoài công lập.
Và nguyên nhân cuối cùng được là cơ bản nhất đó là quan hệ xin - cho và bản thân cơ chế quản lý tập trung quan liêu triệt tiêu trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục.
“Sự thiếu minh bạch mà ai cũng thấy và rất nhiều người là nạn nhân. Trước hết là thiếu minh bạch về học phí và chi phí khác cho học tập. Nhiều trường học Việt Nam nhất là trường công còn quá nhiều chi phí thiếu công khai, minh bạch mà phụ huynh phải chi cho giáo dục con em họ”.
Tham nhũng trong giáo dục sẽ để lại hậu quả rất nặng nề và lâu dài.
Để nâng cao hiệu quả công tác PCTNTC trong giáo dục, cần chú trọng triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất, tiếp tục triển khai, thực hiện có hiệu quả Luật PCTN năm 2018; Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 01/7/2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật PCTN năm 2018; Nghị định số 130/2020/NĐ-CP ngày 30/10/2020 của Chính phủ về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; Hướng dẫn số 25-HD/BCĐTW của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTNTC và các văn bản chỉ đạo của Trung ương và địa phương về công tác PCTNTC.
Thứ hai, tập trung thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với những lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực, chuyên môn sâu, hoạt động có tính khép kín, bí mật và các vấn đề nổi cộm, bức xúc trong xã hội. Đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện kết luận, kiến nghị sau kiểm tra, thanh tra, kiểm toán. Tiếp tục thực hiện nghiêm chỉ đạo của Tổng Bí thư Trung ương đảng, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTNTC và Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo về cơ chế phối hợp phát hiện, xử lý sai phạm trong quá trình kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; công tác giám định, định giá tài sản.
Thứ ba, phát huy vai trò người đứng đầu, chịu trách nhiệm toàn diện trong việc quản lý, kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực thi nhiệm vụ của công chức, viên chức và người lao động thuộc quyền quản lý; đặc biệt, tại các vị trí tiếp xúc, giải quyết công việc của người dân, doanh nghiệp; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm hành vi nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp trong giải quyết công việc.
Đồng thời, chú trọng giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo của các tổ chức và công dân có liên quan đến công tác PCTNTC. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả việc công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước, nâng cao trách nhiệm giải trình; tăng cường kiểm tra việc thực hiện các quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn; thực hiện nghiêm việc chuyển đổi vị trí công tác, quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức và việc tặng quà, nộp lại quà tặng; thường xuyên rà soát xung đột lợi ích trong thực hiện nhiệm vụ.
Thứ tư, đẩy nhanh tiến độ xử lý dứt điểm các vụ án, vụ việc tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm; xác minh, điều tra làm rõ hành vi tham nhũng, chiếm đoạt trong các vụ án, vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, sai phạm về kinh tế; nâng cao hiệu quả công tác thu hồi tài sản tham nhũng, thiệt hại, thất thoát trong các vụ án về tham nhũng, kinh tế. Tăng cường sự phối hợp giữa các ngành, các cấp chính quyền với Mặt trận Tổ quốc trong việc thực hiện công tác tuyên truyền, giám sát thu thập thông tin phản ánh, tố cáo; phát hiện xử lý tham nhũng; nâng cao hiệu quả phòng ngừa tham nhũng ở các ngành, các cấp. Đẩy mạnh cải cách hành chính; thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung, thay thế và chuẩn hóa danh mục thủ tục hành chính cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã theo quy định. Đẩy mạnh thực hiện dịch vụ công trực tuyến; tăng cường trao đổi văn bản điện tử và ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan nhà nước.
Thứ năm, thường xuyên giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức về lối sống, đạo đức cho cán bộ, công chức, viên chức; chú trọng giáo dục về bản lĩnh chính trị, kỷ luật, kỷ cương, đạo đức công vụ, ý thức tự phê bình và phê bình; tự giác trong rèn luyện cần, kiệm, liêm, chính giữ gìn phẩm chất, xây dựng đoàn kết nội bộ; Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “ tự diễn biến ”, “ tự chuyển hoá ”; Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị “về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Thứ sáu, rà soát, khắc phục hoặc kiến nghị khắc phục những sơ hở, bất cập trong cơ chế, chính sách, pháp luật liên quan đến đấu giá, đấu thầu, quản lý, sử dụng đất đai, tài sản công, xã hội hóa các dịch vụ công, ngân hàng, tài chính, tự chủ tài chính, quy hoạch xây dựng... và các vấn đề cụ thể khác mà các đoàn kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, cơ quan điều tra, truy tố, xét xử đã kiến nghị, đề xuất. Tăng cường thanh tra trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện pháp luật về PCTN, xử lý nghiêm các cá nhân, tổ chức vi phạm.
Ngoài ra, thường xuyên sâu sát cơ sở, gần dân, sát dân, tăng cường đối thoại, lắng nghe và kịp thời giải quyết các vấn đề bức xúc, những nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của Nhân dân. Kiên quyết chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, xa rời quần chúng.
Bài thu hoạch lớp bồi dưỡng chính trị hè 2023
ĐẢNG BỘ PHƯỜNG…… | ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ….., ngày 12 tháng 8 năm 2023 |
BÀI THU HOẠCH
LỚP BỒI DƯỠNG CHÍNH TRỊ HÈ NĂM 2023
-----
- Họ và tên: ………………..
- Năm sinh: …..
- Đảng viên chi bộ: Trường TH …..
- Đảng bộ: …………….
- Chức vụ, đơn vị công tác: Tổ trưởng CM, Trường……..
I. Câu hỏi trắc nghiệm
Đồng chí hãy dùng bút khoanh tròn vào đáp án ĐÚNG
Câu 1. Lễ ra mắt tác phẩm “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vào ngày, tháng, năm nào?
A. Ngày 02/3/2023
B. Ngày 02/02/2023
C. Ngày 03/02/2023
Câu 2. Tác phẩm “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gồm bao nhiêu trang, bao nhiêu hình ảnh minh họa và được chia làm mấy phần?
A. 523 trang, 100 hình ảnh minh họa, chia làm 4 phần
B. 603 trang, 112 hình ảnh minh họa, chia làm 3 phần
C. 623 trang, 111 hình ảnh minh họa, chia thành 3 phần
Câu 3. Phần thứ nhất có tiêu đề là gì và từ trang bao nhiêu?
A. Một số vấn đề rút ra từ thực tiễn công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam (từ trang 11 - trang 206).
B. Một số vấn đề từ thực tiễn công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam (từ trang 11 - trang 202).
C. Một số vấn đề từ cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam (từ trang 10 - trang 200).
Câu 4. Phần thứ hai có tiêu đề là gì? từ trang bao nhiêu? gồm bao nhiêu bài viết của Tổng Bí thư
A. Nhất quán phương châm: Phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực từ sớm từ xa; từ trang 207 - trang 522; gồm 29 bài viết của Tổng Bí thư.
B. Nhất quán phương châm: Phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực từ sớm từ xa, cả ngọn lẫn gốc; từ trang 207 - trang 522; gồm 22 bài viết của Tổng Bí thư.
C. Nhất quán phương châm Phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực cả ngọn lẫn gốc”; từ trang 207 - trang 522; gồm 35 bài viết của Tổng Bí thư.
Câu 5. Phần thứ ba có tiêu đề là gì? từ trang bao nhiêu
A. Tiêu đề “Trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”; từ trang 523 - trang 619
B. Tiêu đề “Trên dưới đồng lòng”; từ trang 523 - trang 600
C. Tiêu đề “Trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”; từ trang 520 - trang 635
Câu 6. Nhiệm kỳ 2020 - 2025, Thành ủy Ninh Bình đã xây dựng bao nhiêu chương trình công tác?
A. 4 chương trình công tác
B. 5 chương trình công tác
C. 6 chương trình công tác.
D. 7 chương trình công tác.
Câu 7. Nửa nhiệm kỳ qua, BTV Thành ủy đã thực hiện công tác luân chuyển, điều động cán bộ diện Ban Thường vụ Thành ủy quản lý, bao nhiêu đồng chí Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND phường, xã không là người địa phương?
A. 12 Bí thư Đảng ủy, 13 Chủ tịch UBND
B. 13 Bí thư Đảng ủy, 12 Chủ tịch UBND
C. 13 Bí thư Đảng ủy, 13 Chủ tịch UBND
D. 14 Bí thư Đảng ủy, 14 Chủ tịch UBND
Câu 8. Từ năm 2020 đến nay, BTV Thành ủy đã chỉ đạo tổ chức thi tuyển chức danh Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng các trường THCS, Tiểu học và Mầm non đối với bao nhiêu trường?
A. 11 trường
B. 12 trường
C. 13 trường
D. 14 trường
Câu 9. Trong nửa nhiệm kỳ vừa qua, BTV Thành ủy đã thành lập được bao nhiêu tổ chức Đảng, đoàn thể tại các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước theo Nghị quyết số 08 - NQ/TU của BTV Tỉnh uỷ?
A. 01 Tổ chức Đảng, 16 đoàn thể trong DN ngoài khu vực Nhà nước
B. 02 Tổ chức Đảng, 16 đoàn thể trong DN ngoài khu vực Nhà nước
C. 03 Tổ chức Đảng, 16 đoàn thể trong DN ngoài khu vực Nhà nước
D. 04 Tổ chức Đảng, 16 đoàn thể trong DN ngoài khu vực Nhà nước
Câu 10. Nửa nhiệm kỳ qua, Ban Thường vụ Thành uỷ đã kiểm tra bao nhiêu Tổ chức đảng, giám sát bao nhiêu Tổ chức Đảng và đảng viên?
A. 18 Tổ chức đảng, giám sát 13 Tổ chức Đảng, 29 đảng viên
B. 19 Tổ chức đảng, giám sát 14 Tổ chức Đảng, 30 đảng viên
C. 20 Tổ chức đảng, giám sát 15 Tổ chức Đảng, 31 đảng viên
D. 21 Tổ chức đảng, giám sát 16 Tổ chức Đảng, 32 đảng viên
Câu 11. Trong nửa nhiệm kỳ qua, Đảng ủy, UBKT cấp ủy cơ sở kiểm tra bao nhiêu Tổ chức đảng, đảng viên; giám sát bao nhiêu Tổ chức Đảng và đảng viên?
A. Kiểm tra 267 tổ chức Đảng
B. Kiểm tra 198 đảng viên
C. Giám sát 129 tổ chức Đảng và 57 đảng viên
D. Kiểm tra 267 tổ chức Đảng và 198 đảng viên; giám sát 129 tổ chức Đảng và 57 đảng viên.
Câu 12. Đến giữa nhiệm kỳ Đại hội, toàn thành phố đã xây dựng được bao nhiêu mô hình, điển hình “Dân vận khéo”?
A. 200 mô hình, điển hình “Dân vận khéo”
B. 300 mô hình, điển hình “Dân vận khéo”
C. 400 mô hình, điển hình “Dân vận khéo”
D. 372 mô hình, điển hình “Dân vận khéo”
(284 mô hình, điển hình cấp cơ sở; 88 cấp thành phố).
Câu 13. Năm 2022 thành phố đạt bao nhiêu phần trăm tỷ lệ gia đình văn hóa, thôn, phố và cơ quan doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa?
A. 91,7% gia đình đạt chuẩn văn hóa
B. 98,3% thôn, phố đạt chuẩn văn hóa
C. 96,7% cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa
D. Cả ba đáp án trên
Câu 14. Tỷ lệ % trường đạt chuẩn quốc gia mức độ I?
A. 94 % trường đạt chuẩn quốc gia mức độ I
B. 95 % trường đạt chuẩn quốc gia mức độ I
C. 95,7 % trường đạt chuẩn quốc gia mức độ I
D. 96 % trường đạt chuẩn quốc gia mức độ I
Câu 15. Hiện nay thành phố có bao nhiêu phường, xã không còn hộ nghèo?
A. 02 phường, xã không còn hộ nghèo
B. 03 phường, xã không còn hộ nghèo
C. 04 phường, xã không còn hộ nghèo
D. 05 phường, xã không còn hộ nghèo
II. Câu hỏi tự luận
Sau khi nghiên cứu tác phẩm “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đồng chí rút ra được những nội dung cốt lõi gì? Với vị trí công tác của mình, đồng chí cần làm gì để nâng cao hiệu quả tuyên truyền đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tại cơ quan, đơn vị?
Bài làm
1. Nội dung cốt lõi của Cuốn sách “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là:
Công cuộc đổi mới đất nước trải qua 35 năm đã để lại những chuyển biến rõ rệt, sâu sắc về nhiều mặt. Bên cạnh những thành tựu, đất nước ta còn gặp không ít những khó khăn, cần phải vượt qua cũng như những hạn chế cần khắc phục. Trong đó tham nhũng tiêu cực là một trong những mối đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng và chế độ, do đó cần phải loại bỏ hoàn toàn những mầm mống của tham nhũng để giữ Đảng trong sạch vững mạnh. Cuốn sách “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh”, của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được ra mắt nhân dịp kỷ niệm 93 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 – 3/2/2023) đã góp phần hệ thống hóa sự chỉ đạo của đồng chí Tổng bí thư - Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng tiêu cực, từ đó giúp cán bộ, đảng viên, Nhân dân hiểu rõ và thực hiện có hiệu quả công tác này.
Nội dung Tác phẩm gồm 623 trang, 111 hình ảnh minh họa, được trình bày theo phong các cách báo chí, hiện đại, chia thành 3 phần (Phần thứ nhất, có tiêu đề: “Một số vấn đề rút ra từ thực tiễn công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam”; Phần thứ hai, có tiêu đề: “Nhất quán phương châm: Phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực từ sớm từ xa, cả ngọn lẫn gốc”; Phần thứ ba, có tiêu đề: “Trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”).
Phần thứ nhất: Một số vấn đề rút ra từ thực tiễn công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam, gồm bài viết tổng quan của Tổng Bí thư đánh giá công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam từ khi thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng (năm 2013) đến nay; phát biểu kết luận của đồng chí Tổng Bí thư tại các hội nghị toàn quốc về công tác phòng, chống tham nhũng và kết luận tại các phiên họp, cuộc họp của Ban Chỉ đạo và Thường trực Ban Chỉ đạo. Các bài viết, bài phát biểu thể hiện tư duy lý luận về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; thực tiễn và những kết quả đạt được, những bước tiến trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam trong 10 năm (2012 - 2022). Xuyên suốt các bài viết, bài phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư cho thấy sự chỉ đạo rất sát sao, cụ thể và nhất quán của người đứng đầu Đảng, nhắc nhở mỗi cơ quan, đơn vị, đặc biệt là mỗi cán bộ, đảng viên phải nâng cao trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, góp phần làm cho “Đảng ta, Nhà nước ta luôn trong sạch, vững mạnh; toàn hệ thống chính trị vững mạnh”.
Phần thứ hai: Nhất quán phương châm: Phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực, từ sớm, từ xa, cả ngọn lẫn gốc, gồm 22 bài viết tiêu biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong công tác phòng, chống tham nhũng thì cùng với chống là xây, cùng với đấu tranh là ngăn chặn, do vậy xuyên suốt các bài viết của đồng chí Nguyễn Phú Trọng qua các thời kỳ, trên nhiều cương vị công tác, đảm nhiệm nhiều vị trí khác nhau cho thấy, đồng chí luôn dành sự quan tâm đặc biệt tới công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, củng cố lòng tin của Nhân dân với vai trò lãnh đạo của Đảng, với công cuộc xây dựng đất nước.
Phần thứ ba: Trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt, gồm ý kiến đánh giá, sự đồng tình, ủng hộ, ghi nhận của Nhân dân trong nước cùng như bạn bè quốc tế đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, với vai trò của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng. Sự ủng hộ, tin tưởng của Nhân dân thuộc mọi tầng lớp, trên mọi vùng miền, từ nhà báo, nhà văn,… cho đến những cán bộ hưu trí, đảng viên, cho thấy sức lan toả rộng khắp, sự tham gia, vào cuộc của cả hệ thống chính trị trong cuộc chiến chống “giặc nội xâm” nhằm xây dựng Đảng, xây dựng đất nước. Sự tin tưởng vào tương lai, vào cơ đồ của dân tộc của đông đảo các tầng lớp nhân dân chính là sự phản bác đánh thép nhất trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam.
Cuốn sách là tài liệu rất giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn, có thể coi là cuốn “cẩm nang” về công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta. Qua đó giúp cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và người lao động hiểu rõ hơn về chủ trương, đường lối và quyết tâm đấu tranh chống “giặc nội xâm”, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước ta - một cuộc chiến không tiếng súng nhưng vô cùng quyết liệt, cam go.
Giá trị cốt lõi của tác phẩm nói trên của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chính là cái “tầm”, “tâm” và “tài” của một người đảng viên cộng sản suốt đời vì nước, vì dân với một tầm nhìn chiến lược về công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngay từ khi còn là một đảng viên trẻ cho đến khi trở thành vị lãnh đạo cao nhất của Đảng ta.
2. Với vị trí công tác của mình, đồng chí cần làm gì để nâng cao hiệu quả tuyên truyền đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tại cơ quan, đơn vị?
Tác phẩm của đồng chí Tổng Bí thư có ý nghĩa chính trị hết sức to lớn, hàm chứa những giá trị quan trọng về lý luận và thực tiễn, đang được Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Ninh Bình, chính quyền các cấp, hội, đoàn thể ở tỉnh ta cũng như cấp ủy, chính quyền nhiều địa phương khác triển khai học tập, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ, trở thành đợt sinh hoạt chính trị, tư tưởng sâu rộng. Việc nghiên cứu, quán triệt nội dung Cuốn sách có tác dụng định hướng công tác phòng, chống tham nhũng ở mỗi cấp, mỗi ngành, góp phần làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh. Muốn làm được những điều này thiết nghĩ từng tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên nhất là đội ngũ giáo viên cần thiết lan tỏa thông qua những biện pháp sau:
* Một là, giữ vững nền tảng tư tưởng, thường xuyên giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ và yêu cầu đặt ra đối với cán bộ, đảng viên trong từng giai đoạn cách mạng.
Chỉ có nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng mới bảo đảm cho cán bộ, đảng viên xác định đúng mục tiêu, lý tưởng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân. Thực hiện giáo dục liêm chính, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về phòng, chống tham nhũng: “Liêm” là luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân; trong sạch, không tham lam địa vị, tiền của, danh tiếng, không cậy quyền thế mà đục khoét, ăn của dân, dìm dập người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình. “Chính” là thẳng thắn, đứng đắn. Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn kiểm điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi những khuyết điểm. Đối với người: không nịnh hót người trên, xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa lọc. Ðối với việc: đặt việc công lên trên việc tư, làm việc gì cũng phải đến nơi, đến chốn, không ngại khó, nguy hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân, cho nước.
* Hai là, bản thân cần thực hiện nghiêm kế hoạch của cấp ủy cấp trên trong việc tuyên truyền, quán triệt nội dung của Cuốn sách.
Để thực hiện được điều này đòi hỏi phải xây dựng kế hoạch cụ thể gắn với triển khai quán triệt theo chức năng, nhiệm vụ của tổ chức, cơ quan, đơn vị, tránh triển khai hình thức, chiếu lệ, làm cho có, không có mục đích và kế hoạch rõ ràng, không cỗ vũ, động viên, khuyến khích cán bộ, đảng viên trong cơ quan, đơn vị tham gia.
* Ba là, thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên, đông đảo quần chúng nhân dân trong và ngoài nước tham gia nghiên cứu, quán triệt, góp phần lan tỏa giá trị, đóng góp vào công tác phòng, chống tham nhũng của nước ta.
Công tác tuyên truyền, vận động phải được thực hiện thông qua nhiều kênh thông tin chính thống khác nhau, với chủ thể tuyên truyền đa dạng, đối tượng được tuyên truyền đông đảo, rộng rãi, từ đó khuyến khích mọi người tham gia vào công tác phòng, chống tham nhũng, để công việc này trở thành việc làm thường xuyên của cán bộ, đảng viên và Nhân dân.
Trong công tác tuyên truyền, vận động cần chú trọng đến những nội dung cốt lõi, gắn với thực tiễn công tác của mỗi cấp ủy, chính quyền địa phương và từng cá nhân để giá trị của Cuốn sách tạo được hiệu ứng tích cực, phù hợp với tình hình thực tiễn. Tuyên truyền, vận động để mọi người nhận thức đượcnhững quan điểm xuyên suốt của công cuộc phòng, chống tham nhũng tiêu cực: Chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai và không chịu áp lực của bất cứ cá nhân nào.Công cuộc đấu tranh này không làm đơn độc mà phải gắn liền với chống tha hóa về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống,“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
* Bốn là, đối với tổ chức Đảng, để công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đạt hiệu quả cao nhất, trước hết mỗi cá nhân trong tổ chức phải tăng cường tự đổi mới, tự chỉnh đốn, phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, đặc biệt là “phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên”. Đây là cái “gốc” của vấn đề, là nhiệm vụ chính trị cấp bách, hệ trọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, phải được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và sự tham gia tích cực của toàn thể Nhân dân. Các cấp ủy Đảng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các vụ việc tham nhũng, tiêu cực; tiếp tục kiện toàn tổ chức, bộ máy của các cơ quan tư pháp, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, pháp chế trong công tác phòng, chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí.
Các cấp ủy, tổ chức Đảng triển khai cho cán bộ, đảng viên đọc, nghiên cứu, quán triệt sâu sắc nội dung Cuốn sách; đưa vào nội dung sinh hoạt chi bộ; đồng thời triển khai những công việc cụ thể để thực hiện tốt công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, kinh tế - xã hội không ngừng phát triển, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao.
* Năm là, cá nhân đảng viên phải có ý thức tự giác trong việc nghiên cứu, quán triệt, vận dụng vào thực tiễn công tác ở từng vị trí khác nhau để phát huy hết giá trị của Cuốn sách; mỗi cán bộ, đảng viên không ngừng rèn luyện bản lĩnh chính, tu dưỡng đạo đức cách mạng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống; gương mẫu trong công tác và cuộc sống, trong đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, tham nhũng, lãng phí; chấp hành Quy định về những điều đảng viên không được làm; luôntrung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng; không có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến, tự chuyển hóa”. Bên cạnh đó, cần tuyên truyền cho những người xung quanh cùng nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta, để từ đó mọi người chung tay góp phần xây dựng một nước Việt Nam phát triển thịnh vượng, bền vững, trong sạch.
* Sáu là, thường xuyên sơ kết, tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng để thấy được tác dụng triển khai công tác này từ khi quán triệt nội dung Cuốn sách, từ đó góp phần củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, tranh thủ thêm sự đồng thuận của đông đảo người dân đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí của Đảng và Nhà nước ta.
Bài thu hoạch thảo luận lớp bồi dưỡng chính trị hè 2023
Câu 1: Phân tích nội dung cốt lõi, những điểm mới trong các văn kiện Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII?
Câu 2: Phân tích nội dung cốt lõi, những điểm mới trong các văn kiện Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII?
Câu 3: Thầy/ Cô đề xuất giải pháp để thực hiện tốt chủ đề năm 2023 “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, có đạo đức cách mạng trong sáng, bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ”, góp phần xây dựng và phát triển thành phố Thủ Đức thành một khu đô thị “thông minh, sáng tạo, có chất lượng sống tốt, văn minh, hiện đại, nghĩa tình; phát triển nhanh, bền vững” tại đơn vị?
Câu 4: Thầy/ Cô nhận xét về nội dung triển khai xây dựng Không gian văn hóa Hồ Chí Minh gắn với giữ gìn và phát huy đặc trưng văn hóa của thành phố Thủ Đức hiện nay và giải pháp xây dựng Không gian văn hóa Hồ Chí Minh tại đơn vị?
>> Phần trả lời Bài thu hoạch chính trị hè giáo viên 2023 rất dài, mời các bạn xem trong file tải về.
Bài thu hoạch lớp bồi dưỡng chính trị hè cho cán bộ quản lý, giáo viên
Họ và tên:.............................. Chức vụ:.............................. Đơn vị công tác: Trường Tiểu học............ Số tờ bài thu hoạch:.................... Đảng viên: Có... Không..... | ĐIỂM BÀI THU HOẠCH |
BÀI THU HOẠCH
Lớp bồi dưỡng chính trị hè cho cán bộ quản lý, giáo viên các trường học năm 2023
-----
I. CÂU HỎI VIẾT THU HOẠCH:
Câu 1: (05 điểm)
- Qua học tập, nghiên cứu những nội dung cốt lõi và vấn đề mới trong các Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư, thứ năm Ban Chấp Hành Trung ương khóa XIII của Đảng, anh/chị tâm đắc nội dung nào nhất? Vì sao? (04 điểm)
- Liên hệ thực tiễn các nội dung trên tại đơn vị các anh/chị đang công tác? (01 điểm)
Câu 2: (05 điểm)
- Để triển khai và thực hiện có hiệu quả chuyên đề năm 2023 “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, thật sự tiên phong, gương mẫu, có đạo đức cách mạng trong sáng, bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và phát triển Thành phố Hồ Chí Minh” tại đơn vị công tác, theo anh/chị cần tập trung thực hiện những nội dung, giải pháp gì? (04 điểm)
- Liên hệ thực tiễn bản thân nhằm thực hiện tốt nội dung trên trong thời gian tới. (01 điểm)
II. NỘI DUNG VIẾT THU HOẠCH:
Câu 1:
Qua học tập, nghiên cứu những nội dung cốt lõi và vấn đề mới trong các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, tôi tâm đắc nhất nội dung “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển con người” vì phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.
Nhiệm vụ:
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát triển nhanh giáo dục và đào tạo, cần phải thực hiện tốt các vấn đề sau:
- Coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn. Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề.
- Thực hiện liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao động, cơ sở đào tạo và Nhà nước để phát triển nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội. Thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao đối với các ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức.
- Phát triển giáo dục phải thực sự là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội.
- Mở rộng giáo dục mầm non, hoàn thành phổ cập mầm non 5 tuổi. Thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở với chất lượng ngày càng cao. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng dạy nghề và giáo dục chuyên nghiệp. Rà soát, hoàn thiện quy hoạch và thực hiện quy hoạch mạng lưới trường đại học, cao đẳng và dạy nghề trong cả nước. Thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, bảo đảm cơ chế tự chủ gắn với nâng cao trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo. Tập trung đầu tư xây dựng một số trường, khoa, chuyên ngành mũi nhọn, chất lượng cao.
- Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp, bậc học. Tích cực chuẩn bị để thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới. Mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ. Nhà nước tăng đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy động toàn xã hội chăm lo phát triển giáo dục.
Đề xuất giải pháp:
Để nâng cao chất lượng giáo dục, các giải pháp cần được ngành giáo dục triển khai đồng bộ, đó là:
- Đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học; Đổi mới kiểm tra đánh giá và tăng cường quản lý đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá.
- Kiểm tra và phân loại học sinh đầu năm học, qua đó chỉ đạo bồi dưỡng phụ đạo học sinh yếu kém ngoài giờ lên lớp. Xác định các nguyên nhân học sinh bỏ học và áp dụng các biện pháp vận động tạo điều kiện về hỗ trợ kinh tế để giảm tỉ lệ học sinh bỏ học.
- Tổ chức chỉ đạo bồi dưỡng giáo viên các môn học thực hiện dạy học theo chuẩn kiến thức kỹ năng của Chương trình giáo dục phổ thông mới. Chỉ đạo dạy học hiệu quả, đổi mới phương pháp dạy học: Chỉ đạo dạy học theo chuẩn kiến thức kỹ năng trong chương trình giáo dục phổ thông. Chỉ đạo vận dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, sáng tạo khuyến khích khả năng tự học của học sinh. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin hợp lý; tổ chức dạy học sát đối tượng; sử dụng hợp lý Sách giáo khoa khắc phục dạy học theo lối đọc - chép. Qua đó từng bước làm thay đổi cách dạy của giáo viên.
- Trong kiểm tra đánh giá cũng cần thực hiện đổi mới. Đảm bảo đánh giá sát, đúng trình độ học sinh với thái độ khách quan, công minh và hướng dẫn học sinh biết tự đánh giá năng lực của mình; thực hiện đúng quy định của Quy chế đánh giá, xếp loại học sinh của Bộ đã ban hành.
- Cần tổ chức xây dựng và duy trì nguồn học liệu mở với các dữ liệu bám sát chuẩn kiến thức kỹ năng của Chương trình giáo dục phổ thông, cập nhật thường xuyên để phục vụ dạy học, kiểm tra đánh giá.
- Tập huấn, bồi dưỡng về chuyên môn và nghiệp vụ cho cán bộ quản lý, giáo viên: Bồi dưỡng giảng dạy theo chuẩn kiến thức, kỹ năng; bồi dưỡng hướng dẫn ra đề kiểm tra đánh giá.
- Tăng cường cơ sở vật chất thiết bị trường học cho trường học. Về thiết bị dạy học cần được tăng cường bổ sung hàng năm đáp ứng yêu cầu giảng dạy; các phòng học được củng cố đầu tư sửa chữa đảm bảo điều kiện học tập cho học sinh; phòng bộ môn đáp ứng được yêu cầu phục vụ khai thác, sử dụng của giáo viên. Sách giáo khoa được phát hành đầy đủ, kịp thời đến địa phương trong dịp hè để chuẩn bị năm học mới.
CÂU 2:
Để triển khai và thực hiện có hiệu quả chuyên đề năm 2023 “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, thật sự tiên phong, gương mẫu, có đạo đức cách mạng trong sáng, bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và phát triển Thành phố Hồ Chí Minh” tại đơn vị công tác cần tập trung thực hiện những nội dung, giải pháp đó là:
* Cần nhận thức sâu sắc, thấm nhuần tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Coi đây là công việc thường xuyên, không thể thiếu đối với mỗi cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường.
Nâng cao nhận thức cho cán bộ, giáo viên, nhân viên về nội dung, giá trị và ý nghĩa to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển, vận dụng sáng tạo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với việc thực hiện phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp của công tác xây dựng, chỉnh đốn đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên…
* Các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể đưa nội dung làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào chương trình, kế hoạch hành động thực hiện nghị quyết của đảng bộ cấp mình, gắn với nhiệm vụ chính trị.
Kết hợp chặt chẽ giữa học tập với giảng dạy, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thực hiện nhiệm vụ đơn vị.
* Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, lôi cuốn sự vào cuộc của toàn xã hội.
Đẩy mạnh tuyên truyền, gắn việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với các cuộc vận động, phong trào thi đua của các cấp, các ngành.
Làm cho mỗi cán bộ, giáo viên, nhân viên nhận thức sâu sắc và tự giác thực hiện bổn phận, trách nhiệm của bản thân, gắn bó chặt chẽ, liên hệ mật thiết với nhân dân, “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”.
Nghiên cứu tổ chức cuộc vận động “Toàn Đảng, toàn dân khơi dậy khát vọng phát triển đất nước”, với quyết tâm “sánh vai với các cường quốc” như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phát huy vai trò của báo chí và hệ thống thông tin đại chúng, đẩy mạnh tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong công tác tuyên truyền.
* Nêu cao trách nhiệm nêu gương trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí, tự lực, tự cường dân tộc, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh trong cán bộ, giáo viên, nhân viên, nhất là người đứng đầu. Trước hết là các đồng chí Hiệu trưởng, Hiệu phó, Chủ tịch công đoàn, các tổ trưởng chuyên môn theo phương châm cán bộ có chức vụ càng cao càng phải gương mẫu.
Mỗi cán bộ, giáo viên, nhân viên cần phát huy vai trò nêu gương trong xây dựng ý chí, khát vọng phát triển của bản thân và của cơ quan, đơn vị. Không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng, tự giác nêu gương cần, kiệm, liêm, chính, lao động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.
* Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp với điều kiện mới, làm cơ sở cho cán bộ, giáo viên, nhân viên tự giác tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao ý thức tu dưỡng, “nói đi đôi với làm”, “rèn luyện suốt đời”, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa”.
* Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện xây dựng, chỉnh đốn đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên nhằm cảnh tỉnh, cảnh báo, phát hiện từ sớm, kịp thời ngăn chặn vi phạm nội quy trường học, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm cho việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được thực hiện nghiêm túc, thực sự đi vào nền nếp, thực chất, hiệu quả.
Phát huy vai trò giám sát của ban thanh tra nhân dân trong thực hiện quy định của nhà trường. Xử lý kiên quyết, nghiêm minh các giáo viên, nhân viên vi phạm. Khen thưởng, biểu dương, động viên kịp thời những tấm gương tiêu biểu.
Liên hệ thực tiễn bản thân nhằm thực hiện tốt nội dung trên trong thời gian tới: Bản thân luôn cố gắng tự bồi dưỡng mang lại kết quả cao nhất trong bồi dưỡng thường xuyên giáo viên. Luôn trau dồi, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp, mạnh dạn học hỏi và luôn tìm tòi đổi mới phương pháp dạy học. Công tác chuyên môn:
* Thực hiện đúng qui chế chuyên môn:
Luôn có ý thức nghiêm túc, tự giác trong việc cải tiến lề lối làm việc, nâng cao năng suất lao động. Thực hiện nghiêm túc và tuân thủ đúng theo các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Chấp hành nghiêm túc quy chế của ngành, quy định cơ quan, đơn vị, đảm bảo số lượng, chất lượng ngày, giờ công lao động (Đảm bảo tham gia đầy đủ các buổi họp cơ quan, tổ chuyên môn, đảm bảo đúng giờ, tuyệt đối không bỏ tiết - quên tiết…).
* Hoạt động bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu kém, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện:
Với đối tượng là học sinh khá giỏi: Rèn luyện kĩ năng tư duy, sáng tạo thông qua các câu hỏi để mở rộng và đào sâu khai thác kiến thức chuyên môn, chủ động nỗ lực tạo điều kiện tối đa để HS phát huy tính chủ động và tự học – tự rèn…
Đối với học sinh yếu kém: Đảm bảo HS nắm được những kiến thức cơ bản nhất theo chuẩn kiến thức kĩ năng. Giảng giải cụ thể những, đàm thoại, thảo luận nhóm, phân công HS khá hỗ trợ giúp đỡ HS yếu... v.v
NGƯỜI VIẾT THU HOẠCH (ký tên, ghi rõ họ và tên)
|
Bài thu hoạch học tập Chính trị hè năm 2023
Câu hỏi: Qua nghiên cứu học tập các chuyên đề lớp bồi dưỡng chính trị hè năm 2023, Thầy (Cô) tâm đắc những nội dung nào nhất, hãy phân tích làm rõ nhận thức của mình ?
Bài làm
Trong các chuyên đề bồi dưỡng chính trị hè năm 2023 rất bổ ích đối với một nhà giáo như tôi. Nhưng trong tất các chuyên đề đó chuyên đề tôi tâm đắc nhất là chuyên đề “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về nâng cao tinh thần trách nhiệm, năng động, sáng tạo, phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 2023”.
PHẦN THỨ NHẤT
SỰ CẦN THIẾT PHẢI HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ NÂNG CAO TINH THẦN TRÁCH NHIỆM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Thời gian qua, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh tại Đảng bộ thành phố Cần Thơ đã từng bước đi vào nền nếp, trở thành nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, liên tục, góp phần tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng trong Đảng bộ và Nhân dân thành phố. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, việc học tập và làm theo Bác tiếp tục có những trọng tâm, trọng điểm, với mục đích, yêu cầu được xác định cao hơn, phạm vi sâu rộng hơn, gắn với bối cảnh, điều kiện và yêu cầu thực tiễn mới đặt ra.Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2030 và tầm nhìn phát triển đất nước đến năm 2045, định hướng và lãnh đạo, chỉ đạo toàn bộ các hoạt động của Đảng, Nhà nước và xã hội. Trong quan điểm chỉ đạo thực hiện đường lối đổi mới giai đoạn tới, Nghị quyết Đại hội đã khẳng định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Việc thực hiện nội dung nâng cao tinh thần trách nhiệm trong giai đoạn hiện nay sẽ góp phần đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, nhất là thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2023 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị (khóa XII) “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; cụ thể hóa chuyên đề toàn khóa phù hợp với thực tiễn của thành phố.
Năm 2023 là năm có ý nghĩa quan trọng, tạo nền tảng thực hiện các mục tiêu kế hoạch 05 năm (2023 - 2025). Dự báo tình hình quốc tế, trong nước có nhiều thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen; đặc biệt, những tác động tiêu cực, bất lợi của dịch bệnh Covid-19, thiên tai, biến đổi khí hậu... ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội và đời sống Nhân dân. Với mục đích vừa kiểm soát hiệu quả dịch bệnh Covid-19, vừa phục hồi phát triển kinh tế - xã hội thành phố, Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố xác định chủ đề năm 2023 là “Tập trung kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19; thích ứng an toàn, linh hoạt để khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội thành phố”, với 18 chỉ tiêu chủ yếu cùng 21 nhiệm vụ và giải pháp quan trọng trên các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh - nội chính và xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị.
Xuất phát từ những nội dung đó, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chuyên đề toàn khóa, chuyên đề năm 2023 về “NÂNG CAO TINH THẦN TRÁCH NHIỆM, NĂNG ĐỘNG, SÁNG TẠO, PHẤN ĐẤU THỰC HIỆN THẮNG LỢI NHIỆM VỤ
NĂM 2023 sẽ là một trong những giải pháp hiệu quả, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ Nghị quyết năm 2023, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Cần Thơ lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2020 - 2025 đã đề ra. Đồng thời, đây cũng chính là việc làm thiết thực để mỗi cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ thành phố phát huy cao độ ý thức trách nhiệm, tinh thần cống hiến, lao động sáng tạo, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.
PHẦN THỨ HAI NỘI DUNG TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ NÂNG CAO TINH THẦN TRÁCH NHIỆM
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về trách nhiệm và nâng cao tinh thần trách nhiệm
Trách nhiệm là điều mỗi người phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy.. Mỗi người đều có một vị trí nhất định trong gia đình, dòng họ, tập thể, tổ chức, địa phương, dân tộc, quốc gia và rộng nhất là nhân loại. Trong các mối quan hệ đó, trách nhiệm được hình thành trên cơ sở những quy định của luật pháp, quy chế, quy ước, công ước... Trách nhiệm còn được hình thành do dư luận xã hội và bị chi phối bởi dư luận xã hội.
Tinh thần trách nhiệm là kết quả nhận thức đúng đắn về trách nhiệm của con người, từ đó chi phối hành động tích cực, tự giác của họ. Những người có nhận thức và hành động như thế là có tinh thần trách nhiệm cao. Hồ Chí Minh đã nêu lên hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về những phẩm chất đạo đức của con người Việt Nam trong thời đại mới. Trong đó, có vấn đề về tinh thần trách nhiệm. Người chỉ rõ: Đạo đức công dân là tuân theo pháp luật nhà nước; tuân theo kỷ luật lao động; giữ gìn trật tự chung... Đó là đóng thuế vì lợi ích chung. Bảo vệ tài sản công cộng, bảo vệ Tổ quốc. Hăng hái thi đua, cần, kiệm xây dựng nước nhà,...
Trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, công chức đối với Tổ quốc, đối với Nhân dân bắt nguồn từ nguyên lý: “Nước lấy dân làm gốc”, “sự nghiệp cách mạng là do Nhân dân tiến hành”, “Nhân dân là người làm ra lịch sử”... Người khẳng định: Không có Nhân dân, Đảng, Chính phủ không đủ lực lượng. Sức mạnh Nhân dân là vô địch. Trong bầu trời không gì quý bằng Nhân dân. Có dân là có tất cả. Để tập hợp và phát huy sức mạnh vô địch của Nhân dân, Đảng, Chính phủ có trách nhiệm tổ chức, vận động Nhân dân, giảng giải lý luận, chiến lược, sách lược cho dân, làm cho dân nhận rõ tình hình, đường lối và định phương châm cho đúng.
Trong xã hội ta, nước là nước của dân; dân là chủ và dân làm chủ, có trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nước độc lập thì ai cũng được tự do; nếu mất nước thì ai cũng phải làm nô lệ. Trong chế độ mới, cán bộ, công chức là người phụ trách trước đồng bào; thực hiện bổn phận trung thành với Tổ quốc, với Nhân dân, tổ chức, lôi cuốn Nhân dân. Trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh tựu trung lại là “hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân”.
Trên cơ sở đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra các quan điểm về nâng cao tinh thần trách nhiệm, cụ thể như sau:
Thứ nhất, tích cực, tự giác thực hiện nhiệm vụ được giao
Khi được Đảng, Nhà nước hoặc cấp trên giao cho việc gì, bất kỳ dù to hay nhỏ, khó hay dễ, cũng phải đem cả tinh thần trách nhiệm, lực lượng ra làm cho đến nơi đến chốn, cố gắng vượt qua mọi khó khăn, gian khổ. Phải “có gan phụ trách”, dám nghĩ, dám làm, chủ động sáng tạo để có kết quả cao nhất. Phải luôn làm tròn trách nhiệm một cách tự giác, theo lương tâm, lương tri và làm việc phải theo nhu cầu nội tâm cá nhân. Nếu làm việc cẩu thả hoặc chỉ làm cho có chuyện, có làm; hay “dễ làm khó bỏ”, “đánh trống bỏ dùi”, “gặp sao làm vậy”,... thì những hành động này đều có thể xem là không có tinh thần trách nhiệm.
Thứ hai, ý thức đúng đắn về trách nhiệm của bản thân trên từng cương vị, vị trí công tác
Tất cả mọi người, ở các địa vị, vị trí công tác, trong từng hoàn cảnh khác nhau đều phải nâng cao tinh thần trách nhiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nghề nào cũng vinh quang và việc gì cũng phải cố gắng chuyên tâm, không chủ quan, đại khái, không phí phạm của công... Trong các bài nói, bài viết của mình, Người nêu rất cụ thể về trách nhiệm của mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi nghề. Ví dụ, người nấu bếp, luôn luôn lo làm cho cơm lành, canh ngọt, bát đũa sạch sẽ... Người cán bộ quân sự, thì luôn luôn học hỏi chính trị và kỹ thuật, chiến thuật; đồng thời, luôn quan tâm, hỗ trợ về tinh thần và vật chất cho chiến sĩ; giữ gìn đoàn kết nội bộ; thường xuyên giúp đỡ nhân dân. Mặt khác, khi nhận nhiệm vụ thì người cán bộ quân sự ấy sẽ kiên quyết chấp hành mệnh lệnh trên giao xuống. Đến khi đánh giặc thì thấm nhuần tinh thần quyết chiến, quyết thắng. Gặp việc khó khăn thì cố tìm mọi cách giải quyết đúng. Như thế, là có tinh thần trách nhiệm, hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Thứ ba, nắm vững chính sách và thực hiện đường lối quần chúng
Đảng và Chính phủ đề ra chính sách, cán bộ phải nghiên cứu, hiểu rõ, thấm nhuần những chủ trương, chính sách ấy. Từ đó, tiến hành tìm hiểu, điều tra, nghiên cứu, nắm chắc hoàn cảnh thực tế của đơn vị, địa phương mình. Sau đó, xây dựng kế hoạch rõ ràng, tỉ mỉ, thiết thực, để giải thích, tuyên truyền, cổ động quần chúng; làm cho mọi người hiểu rõ và ủng hộ chính sách của Đảng và Chính phủ như là của họ, rồi thi đua thực hiện đầy đủ chính sách ấy. Như thế là làm tròn nhiệm vụ.
Để thực hiện tốt chính sách, làm tròn nhiệm vụ, cán bộ chẳng những phải chịu khó nghiên cứu, quán triệt, giải thích, tuyên truyền, cổ động, mà còn phải bàn bạc với quần chúng, tham vấn ý kiến, gom góp sáng kiến của quần chúng. Lãnh đạo quần chúng và hoan nghênh quần chúng phê bình. Tóm lại, “phải đi đúng đường lối quần chúng. Thế là có tinh thần trách nhiệm đối với Đảng, đối với Chính phủ, đối với Nhân dân”.
Theo Hồ Chí Minh, “tách rời chính sách ra một đường, nhiệm vụ ra một đường là sai lầm. Tách rời chính sách và nhiệm vụ ra một đường và đường lối quần chúng ra một đường cũng là sai lầm. Tinh thần trách nhiệm là gắn liền chính sách và đường lối quần chúng, để làm trọn nhiệm vụ.
Thứ tư, trái ngược với tinh thần trách nhiệm là bệnh quan liêu, mệnh lệnh, chủ quan, hấp tấp, tự tư, tự lợi
Theo Hồ Chí Minh, quan liêu là xa rời thực tế, xa rời quần chúng nhân dân, xa rời mục tiêu lý tưởng của Đảng. Bệnh quan liêu là nguy cơ của Đảng cầm quyền, là nguyên nhân của nhiều căn bệnh khác. Quan liêu dẫn tới chủ quan, mệnh lệnh, hấp tấp, khi gặp khó khăn thì dễ dao động, ngả nghiêng... Đối với cán bộ, công chức, đảng viên, bệnh quan liêu dẫn tới chỉ biết dùng mệnh lệnh, không biết giải thích, tuyên truyền, “không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng”. Trong công việc “thì trọng hình thức mà không xem xét khắp mọi mặt, không vào sâu vấn đề. Chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi đến chốn”. Chỉ biết lo cho mình, không quan tâm đến Nhân dân, đến đồng chí. Trước mặt dân chúng thì lên mặt “quan cách mạng”. Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần chúng”, còn thực tế thì “chỉ biết ăn sang, diện cho kẻng; chẳng những không lo phụng sự Nhân dân, mà còn muốn Nhân dân phụng sự mình”.
Theo Hồ Chí Minh, bệnh quan liêu mệnh lệnh chỉ đưa đến một kết quả là hỏng việc; “thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững. Kết quả là những người xấu, những cán bộ kém tha hồ tham ô, lãng phí”. Nguyên nhân của bệnh quan liêu: do “xa Nhân dân; khinh Nhân dân; sợ Nhân dân; không tin cậy Nhân dân; không hiểu biết Nhân dân; không yêu thương Nhân dân”. Quan liêu là kẻ thù của Nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ, là “kẻ thù khá nguy hiểm, vì nó không mang gươm mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công việc của ta”, là “bạn đồng minh” của thực dân và phong kiến.
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về tinh thần trách nhiệm
Những năm tháng ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh mang theo hoài bão, khát vọng giành lại nền độc lập cho Tổ quốc. Những hoạt động của Người trong thời gian tìm đường cứu nước (1911 - 1920) là công việc tự giác, là trách nhiệm của một người dân đối với Tổ quốc, đối với Nhân dân. Suốt gần mười năm trải qua bao nhiêu gian khổ tìm tòi, chiêm nghiệm, khám phá..., cuối cùng Người đã tìm thấy và hoàn thành trách nhiệm đầu tiên do chính mình đặt ra.
Sau khi tìm được con đường cứu nước, Hồ Chí Minh tự xác định trách nhiệm thức tỉnh dân tộc Việt Nam, trước hết là lớp trí thức thanh niên yêu nước, về nhiệm vụ và con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Đầu năm 1930, Người đã hoàn thành được một nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, đó là sáng lập ra đội tiền phong của giai cấp công nhân và của cả dân tộc - Đảng Cộng sản Việt Nam - để lãnh đạo toàn dân đấu tranh giành lại nền độc lập của Tổ quốc.
Vào đầu những năm 30 của thế kỷ trước, khi còn ở trong nhà tù Victoria của thực dân Anh ở Hồng Kông, Hồ Chí Minh không nề gian khổ, đau đớn, thậm chí hy sinh cả tính mạng của mình, mà nỗi lo lớn nhất của Người là những công việc mình làm chưa xong, ai sẽ tiếp tục làm thay. Người tâm sự: Đối với người cách mạng, không gì khổ tâm bằng đã hoạt động được, lại mất liên lạc với đoàn thể lâu ngày. Điều đó làm cho người cách mạng đêm, ngày cô độc. Khi trở lại Mát-xcơ-va, Người được cử đi an dưỡng một thời gian để phục hồi sức khỏe. Tại Xô-chi trên bờ biển Đen, Người đặt kế hoạch tập luyện để phục hồi sức khỏe, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ mới. Trong thời gian nhận công tác tại Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa, Người trăn trở, sốt ruột về tình trạng “không hoạt động”, coi đó là một tình cảnh đau buồn, vì “như là sống ở bên cạnh, ở bên ngoài của Đảng”. Người sốt sắng nêu yêu cầu được hoạt động, mong muốn nhanh chóng được trở về nước cùng Đảng ta lãnh đạo cách mạng.
Ngay sau khi về nước, đầy khó khăn, gian khổ..., Người khẩn trương bắt tay vào thực hiện nhiều công việc quan trọng, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Người kêu gọi Nhân dân tham gia Mặt trận Việt Minh, coi trách nhiệm cứu quốc là việc chung, ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm. Người xác định trách nhiệm của mình: “Riêng phần tôi, xin đem hết tâm lực đi cùng các bạn, vì đồng bào mưu giành tự do độc lập, dầu phải hy sinh tính mệnh cũng không hề”.
Người đã vượt qua 13 tháng bị đọa đày trong hơn 30 nhà giam của chính quyền Quốc dân Đảng Trung Quốc tại tỉnh Quảng Tây. Trong hoàn cảnh lao tù, Người xác định “Muốn nên sự nghiệp lớn, tinh thần càng phải cao”, “Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng”. Việc bị bắt, Người tự nhận là vì “hành động không đủ khôn khéo để đồng bào, đồng chí phải phiền lòng” Lời tâm sự của Người đã nói lên ý thức với tinh thần trách nhiệm cao cả: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó… Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc lợi dân”.
Từ sau năm 1945, với cương vị là người đứng đầu Đảng và Nhà nước, trong hoàn cảnh cách mạng “ngàn cân treo sợi tóc” những năm 1945 - 1946, Người xác định trách nhiệm quan trọng nhất là cùng với Đảng, với dân bảo vệ được nền độc lập dân tộc mới giành được, để xây dựng đất nước, mang lại tự do, hạnh phúc cho Nhân dân.
Trong quan hệ với Nhà nước và Nhân dân, Hồ Chí Minh nhận thức rõ đó là nhận sự ủy thác của quốc dân, đồng bào; hoàn thành trách nhiệm được Tổ quốc giao phó “cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận”; với “ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành; xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới
PHẦN THỨ BA
NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP ĐỂ TRIỂN KHAI CÓ HIỆU QUẢ VIỆC HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ NÂNG CAO TINH THẦN TRÁCH NHIỆM, NĂNG ĐỘNG, SÁNG TẠO, PHẤN ĐẤU THỰC HIỆN THẮNG LỢI NHIỆM VỤ NĂM 2023
1. Các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, địa phương tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức lối sống cho cán bộ, đảng viên; nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên về tinh thần trách nhiệm, tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên
Tăng cường tuyên truyền, giáo dục sâu rộng, làm cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân nhận thức sâu sắc giá trị, ý nghĩa của việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về chuyên đề toàn khóa, chuyên đề năm 2023. Hiểu được việc học tập và làm theo Bác không chỉ đem lại lợi ích chung là đất nước giàu mạnh mà còn đem đến hạnh phúc, ấm no cho từng nhà, từng người. Qua đó, thúc đẩy mỗi cán bộ, đảng viên thành phố thấy được sự cần thiết phải tích cực, tự giác học tập, tu dưỡng, rèn luyện và thực hiện tốt nhiệm vụ. Biến việc tự học tập, tự rèn luyện trở thành việc làm thường xuyên, liên tục và không thể thiếu trong mỗi người.
Chú ý phát huy vai trò của các cơ quan báo chí và hệ thống thông tin đại chúng nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong công tác tuyên truyền, giáo dục nội dung chuyên đề.
2. Đẩy mạnh “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” chuyên đề toàn khóa, chuyên đề năm 2023 gắn với thực hiện tiêu chí người Cần Thơ “Trí tuệ - Năng động - Nhân ái - Hào hiệp - Thanh lịch”, nhất là năng động, sáng tạo, phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 2023
Tiếp tục phát huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo và trách nhiệm nêu gương của cấp ủy, người đứng đầu trong công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện chuyên đề toàn khóa, chuyên đề năm 2023 gắn với tiếp tục triển khai xây dựng người Cần Thơ “Trí tuệ - Năng động - Nhân ái - Hào hiệp - Thanh lịch” theo Nghị quyết số 45-NQ/TW ngày 17/02/2005 của Bộ Chính trị(khóa IX) về “Xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, song song với xây dựng người Cần Thơ đáp ứng yêu cầu công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” nhằm góp phần tạo chuyển biến mạnh mẽ về đạo đức, lối sống, ý thức tôn trọng pháp luật, tôn vinh truyền thống lịch sử văn hóa dân tộc. Qua đó, phát huy nhân tố con người Cần Thơ phát triển toàn diện, đóng vai trò động lực thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, góp phần xây dựng thành phố Cần Thơ ngày càng văn minh, hiện đại.
Gắn việc học tập chuyên đề năm 2023 với quán triệt, triển khai Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” Đó là hai nhiệm vụ lồng ghép, gắn bó với nhau. Việc học tập chuyên đề năm 2023 chính là một trong những giải pháp quan trọng nhằm thực hiện có hiệu quả Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; trên tinh thần đó, cấp ủy, tổ chức đảng, địa phương, cơ quan, đơn vị và mỗi cán bộ, đảng viên cần nắm vững mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp trong Kết luận để triển khai thực hiện có hiệu quả; đồng thời, nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình và tự giác, gương mẫu trong thực hiện, góp phần tạo sự chuyển biến tích cực, hiệu quả, thiết thực trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị.
3. Tăng cường việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bằng hành động cụ thể, thiết thực, gắn với các phong trào thi đua yêu nước, lôi cuốn sự tham gia tích cực của toàn xã hội
Các cấp ủy đảng, các địa phương, cơ quan, đơn vị quan tâm sát sao, lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo chuyên đề năm 2023 của thành phố có trọng tâm, trọng điểm, gắn với chương trình, kế hoạch thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, đơn vị. Trong đó, chú trọng các khâu đột phá phát triển và việc giải quyết các vấn đề tồn tại, các yêu cầu thực tiễn đề ra.
Thực hiện tốt Chỉ thị số 13/CT-UBND ngày 09/12/2023 của Ủy ban nhân dân thành phố về phát động thực hiện phong trào thi đua năm 2023, tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua do Thủ tướng Chính phủ phát động trong điều kiện “bình thường mới”: “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Cả nước chung tay vì người nghèo, không để ai bị bỏ lại phía sau”, “Doanh nghiệp Việt Nam hội nhập và phát triển”, “Cán bộ, công chức, viên chức thi đua thực hiện văn hóa công sở”, “Cả nước đoàn kết, đồng lòng thi đua phòng, chống và chiến thắng đại dịch Covid-19”,...
Đồng thời, tổ chức thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua do thành phố phát động gắn với thi đua thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Cần Thơ lần thứ XIV, nhiệm kỳ (2020 - 2025). Tiếp tục nâng cao chất lượng các phong trào thi đua cao điểm, theo đợt, chuyên đề trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh - nội chính... gắn với việc chào mừng các ngày lễ, sự kiện lớn của đất nước và thành phố với mục tiêu đưa thành phố Cần Thơ trở thành thành phố trung tâm, động lực phát triển của Vùng đồng bằng sông Cửu Long.
4. Phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu, nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, địa phương, cơ quan, đơn vị
Đề cao việc phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, trước hết là các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố; cấp ủy các địa phương, đơn vị theo phương châm cán bộ có chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, khẳng định vai trò lãnh đạo, tính tiên phong, gương mẫu “trên trước, dưới sau”, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”.
Lãnh đạo chủ chốt các cấp phải thể hiện tư tưởng vững vàng, quan điểm đúng đắn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, hết lòng vì nước, vì dân; có phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, sâu sát thực tiễn, thật sự là hạt nhân đoàn kết, quy tụ, tạo động lực và phát huy trí tuệ tập thể; luôn giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, khách quan, toàn diện, công tâm, công khai, minh bạch, chính xác, chống cục bộ địa phương, bè phái trong công tác cán bộ.
Mỗi cán bộ, đảng viên cần phải xác định rõ trách nhiệm của mình, tự giác nêu gương: Với bản thân thì phải nghiêm khắc, với mọi người thì phải khoan dung, với công việc phải tận tụy. Bất kỳ công việc nào, nhiệm vụ gì, dù lớn hay nhỏ, khó hay dễ, phức tạp hay đơn giản, đều ra sức phấn đấu hoàn thành bằng cả “tâm lực, trí lực và sức lực” của mình. Kết quả công việc là thước đo sự cống hiến của mỗi người. Ngoài ra, không chỉ làm gương trong công tác mà còn phải làm gương trong đạo đức, lối sống, ở mọi lúc, mọi nơi, là tấm gương cho quần chúng noi theo.
5. Chú trọng xây dựng môi trường dân chủ, nhân văn, sáng tạo, tạo điều kiện cần thiết cho mỗi người phát huy tinh thần trách nhiệm, ý chí tự lực tự cường; thường xuyên tự phê bình và phê bình, đánh giá phù hợp, sát thực tế
Cần quan tâm xây dựng và thực hiện các chuẩn mực văn hóa trong lãnh đạo, quản lý, làm sao trong từng cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp có môi trường thật sự dân chủ, nhân văn, mọi ý tưởng, sáng tạo đều được trân trọng, tạo điều kiện thì mới tạo ra động cơ, sức mạnh tự lực tự cường, tự học tập, tự rèn luyện bền bỉ và hiệu quả cho mỗi cá nhân.
Coi trọng xây dựng và thực hiện quy chế làm việc, xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng cá nhân, tổ chức, tăng cường kiểm tra, giám sát thực hiện, xử lý nghiêm minh khi có vi phạm. Trên cơ sở nhiệm vụ được giao, từng cá nhân phải chủ động lập kế hoạch, bám sát kế hoạch và tích cực, tự giác thực hiện; khi kết thúc phải tổng hợp báo cáo, đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ, xác định rõ nguyên nhân và trách nhiệm tập thể, cá nhân nếu có sai sót xảy ra.
Đấu tranh khắc phục những biểu hiện thiếu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, như: làm việc đối phó, làm cho có, lãnh đạo nhắc mới làm; có mặt lãnh đạo thì làm khác, không có mặt lãnh đạo thì làm khác; thực hiện giờ giấc làm việc không nghiêm; chất lượng và hiệu quả làm việc kém, tính chuyên nghiệp thấp;...
Nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ, củng cố nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh; tăng cường tính khoa học, tính chiến đấu trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 23-CT/TW của Ban Bí thư (khóa XII) về “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới” gắn với Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa
XII) về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Theo đó, đẩy mạnh và kịp thời phê phán, bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; uốn nắn những nhận thức lệch lạc, mơ hồ, dao động về tư tưởng, suy giảm niềm tin về chủ nghĩa xã hội và vai trò lãnh đạo của Đảng.
Chủ động thông tin kịp thời, chính xác, khách quan, đúng định hướng chính trị để phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bồi đắp thế giới quan, phương pháp luận và niềm tin khoa học trong mỗi cán bộ, đảng viên và người dân, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội.
6. Chú trọng công tác kiểm tra, giám sát
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị (khóa XII) về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII), Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, nhằm cảnh tỉnh, cảnh báo, phát hiện từ sớm, kịp thời ngăn chặn các hành vi vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm cho việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được thực hiện nghiêm túc, thực sự đi vào nền nếp, thực chất, hiệu quả.
Phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí và Nhân dân đối với cán bộ, đảng viên trong thực hiện học tập và làm theo Bác. Kịp thời phát hiện những việc làm tốt, gương điển hình trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để biểu dương, khen thưởng và nhân rộng. Đồng thời, phát hiện và xử lý nghiêm, kịp thời, công khai những cán bộ, đảng viên vi phạm, dù ở bất cứ cương vị, chức trách nào, góp phần đấu tranh, phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Để thực hiện được những nội dung trên, cần phát huy được vai trò, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị thành phố. Nhất là, mỗi cán bộ, đảng viên đặc biệt là cán bộ chủ chốt cần phải ra sức học tập và làm theo Bác bằng những việc làm thiết thực, “Nâng cao tinh thần trách nhiệm, năng động, sáng tạo, phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 2023”, trước mắt là hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ năm 2023, làm tiền đề để thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Cần Thơ lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2020 2025. Từ đó, từng bước phát huy tiềm năng, lợi thế để phát triển Cần Thơ nhanh và bền vững, đưa thành phố thực sự trở thành trung tâm vùng, sinh thái, văn minh, hiện đại, là đô thị hạt nhân Vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Bài thu hoạch Chính trị hè 2023 về Xây dựng không gian văn hóa
Câu hỏi: Thầy/Cô nêu những suy nghĩ của mình về sự cần thiết xây dựng Không gian văn hóa Hồ Chí Minh gắn với giữ gìn và phát huy đặc trưng văn hóa của thành phố Thủ Đức trong môi trường giáo dục, đồng thời đề ra giải pháp thiết thực để xây dựng Không gia văn hóa Hồ Chí Minh tại đơn vị mà Thầy/Cô đang công tác.
Bài làm
Xây dựng không gian văn hóa Hồ Chí Minh là một chủ trương quan trọng của Đại hội đại biểu Đảng bộ TPHCM lần thứ XI. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ XI đã xác định: Thông qua xây dựng thành phố thành không gian văn hóa Hồ Chí Minh làm cho việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trở thành nếp sống, đặc trưng văn hóa của đảng viên và Nhân dân thành phố. Đây là một trong các nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị, đạo đức.
Nhằm đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ngày càng lan tỏa sâu rộng, là một trong những nội dung trọng tâm, đột phá năm 2023. Đây là nơi trưng bày tượng, hình ảnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh; trưng bày, triển lãm những hình ảnh, tư liệu, hiện vật về cuộc đời hoạt động cách mạng của Người; giới thiệu những sản phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật (sách, thơ, tranh ảnh…); giới thiệu, biểu dương gương điển hình trong học tập và làm theo Bác… Bên cạnh đó, nhiều cơ quan, đơn vị đưa những câu nói, lời dạy của Bác Hồ lên các bảng treo tại trụ sở, phòng làm việc, phòng tiếp dân để nhắc nhở cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, phong cách sống và làm việc theo gương Bác. Đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, văn nghệ, triển lãm hình ảnh, tổ chức các hội nghị chuyên đề, các hoạt động trồng cây nhớ ơn Bác, biên tập tập san giới thiệu gương học tập và làm theo Bác để tuyên truyền việc xây dựng không gian văn hóa Hồ Chí Minh.
Quan tâm xây dựng không gian văn hóa Hồ Chí Minh trên không gian mạng, các đơn vị đã mở chuyên mục “Không gian văn hóa Hồ Chí Minh” trên trang thông tin điện tử, trang mạng xã hội, bản tin nội bộ. thường xuyên đăng tải các bài viết, đoạn phim ngắn giới thiệu, chia sẻ những mô hình, cách làm trong học tập và làm theo Bác; những lời Bác dạy; các giải pháp, hiến kế việc xây dựng không gian văn hóa Hồ Chí Minh. Việc xây dựng không gian văn hóa Hồ Chí Minh là một việc làm thiết thực học tập và làm theo Bác, tạo được sức lan tỏa rộng rãi trong nhân dân quận; hình thành không gian văn hóa Hồ Chí Minh
Bên cạnh đó, cũng cần có sự chú trọng đến việc xây dựng không gian văn hóa bằng việc tái hiện sinh động những giá trị trong cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh như mô hình phòng đọc Hồ Chí Minh, phòng truyền thống đơn vị với những hình ảnh, tư liệu, tác phẩm gắn với cuộc đời, sự nghiệp của Người để từ đó tạo ra sự nhận thức trực quan của cán bộ, đảng viên, người lao động, học sinh, sinh viên một cách thường xuyên, liên tục. Về mặt giải pháp, ngoài không gian hiệu hữu tái hiện sinh động những giá trị, cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh như tủ sách, phòng trưng bày hay các cuộc triển lãm thì cần nghiên cứu và lựa chọn nội dung trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có sự phù hợp với những giá trị văn hóa con người Thành phố để đẩy mạnh học tập, tuyên truyền trong các tầng lớp nhân dân. Trong đó có thể lựa chọn học tập và tuyên truyền những giá trị điển hình trong cuộc đời, sự nghiệp của Bác như tinh thần đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn thử thách, lòng nhân ái, yêu thương con người.
Trong trường học phải thật sự đặc biệt chú trọng xây dựng phẩm chất đạo đức cho đội ngũ thầy, cô giáo theo tinh thần trên, cần phải chú trọng nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức đạo đức của đội ngũ CBGV với mục tiêu của giáo dục và đào tạo như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây/ Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”(1). Người nhấn mạnh giáo dục và đào tạo có vai trò vô cùng quan trọng trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, là động lực của sự phát triển.
Do đó cũng cần phải có sự lựa chọn những chỉ dẫn cốt lõi nhất của Người để xây dựng đơn vị, văn hóa ứng xử của đội ngũ viên chức để từ đó từng bước tạo ra chuyển biến tích cực trong hoạt động của từng cơ quan, đơn vị. Làm được như vậy thì trong không gian văn hóa Hồ Chí Minh tại thành phố sẽ có một điểm nhấn nổi bật là văn hóa chính trị thể hiện qua văn hóa của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Quan tâm xây dựng không gian văn hóa Hồ Chí Minh trên không gian mạng, các đơn vị đã mở chuyên mục “Không gian văn hóa Hồ Chí Minh” trên trang thông tin điện tử, trang mạng xã hội, bản tin nội bộ. thường xuyên đăng tải các bài viết, đoạn phim ngắn giới thiệu, chia sẻ những mô hình, cách làm trong học tập và làm theo Bác; những lời Bác dạy; các giải pháp, hiến kế việc xây dựng không gian văn hóa Hồ Chí Minh. Việc xây dựng không gian văn hóa Hồ Chí Minh là một việc làm thiết thực học tập và làm theo Bác, tạo được sức lan tỏa rộng rãi trong nhân dân quận; hình thành không gian văn hóa Hồ Chí Minh
Bên cạnh đó, cũng cần có sự chú trọng đến việc xây dựng không gian văn hóa bằng việc tái hiện sinh động những giá trị trong cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh như mô hình phòng đọc Hồ Chí Minh, phòng truyền thống đơn vị với những hình ảnh, tư liệu, tác phẩm gắn với cuộc đời, sự nghiệp của Người để từ đó tạo ra sự nhận thức trực quan của cán bộ, đảng viên, người lao động, học sinh, sinh viên một cách thường xuyên, liên tục. Về mặt giải pháp, ngoài không gian hiệu hữu tái hiện sinh động những giá trị, cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh như tủ sách, phòng trưng bày hay các cuộc triển lãm thì cần nghiên cứu và lựa chọn nội dung trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có sự phù hợp với những giá trị văn hóa con người Thành phố để đẩy mạnh học tập, tuyên truyền trong các tầng lớp nhân dân. Trong đó có thể lựa chọn học tập và tuyên truyền những giá trị điển hình trong cuộc đời, sự nghiệp của Bác như tinh thần đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn thử thách, lòng nhân ái, yêu thương con người.
Mô hình này góp phần đẩy mạnh công tác tuyên truyền về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và nhất là học sinh, giúp các em nhận thức sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Xây dựng không gian văn hóa Hồ Chí Minh không chỉ trong trường học, mà mỗi cơ quan, đơn vị có thể kết nối với nhau cùng thực hiện để qua đó lan tỏa giá trị đẹp về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với từng cán bộ, đảng viên và nhân dân, học sinh trên địa bàn TP Thủ Đức, xem đây là công việc thường xuyên, hàng ngày để giáo dục truyền thống lịch sử.
Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”(3). Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ mục tiêu của nền giáo dục Việt Nam là “một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”(4). Đó là một nền giáo dục mang tính nhân dân sâu sắc, thực học, không chạy theo bằng cấp, không chạy theo khối lượng kiến thức mà cần chú trọng nâng cao chất lượng, là nền giáo dục độc lập, tiến bộ, dân tộc, thực hiện mục tiêu phát triển con người toàn diện, một nền giáo dục vì con người, cho con người phụng sự Tổ quốc và Nhân dân, làm rạng danh non sông. Người từng khẳng định: “Học để làm việc, để làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”(5). Chính vì mục tiêu cao cả và vai trò to lớn của giáo dục mà Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra yêu cầu cần có tầm nhìn dài hạn trong chiến lược phát triển giáo dục của quốc gia, phải coi giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân.
đổi mới tư duy và cơ chế quản lý giáo dục, nội dung chương trình, mô hình đào tạo và phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá ở các cơ sở đào tạo theo hướng phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ. Nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với từng đối tượng học sinh. Tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân, phát huy giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại. Cần có tầm nhìn dài hạn trong quản lý giáo dục, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp, bảo đảm tính hệ thống trên cơ sở thực hiện Tư tưởng Hồ Chí Minh. Người nhấn mạnh: “Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy càng phải học thêm”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội: “Bởi vì giáo dục trong nhà trường, chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”(11)… “Các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, các cơ quan chính quyền và các cấp ủy đảng phải thật sự quan tâm đến nhà trường, đến việc học tập của con em mình hơn nữa”(12). Hoạt động quản lý giáo dục luôn rất cần có sự phối hợp của các cấp, ngành và toàn xã hội. Người chỉ rõ, để có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội cần phát huy dân chủ, xây dựng mối quan hệ đoàn kết giữa thầy với thầy, giữa thầy và trò, giữa
chú trọng công tác xây dựng, bồi dưỡng và sử dụng hợp lý đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục - lực lượng cơ bản tham gia xây dựng và phát triển giáo dục, có vai trò quyết định đến chất lượng giáo dục và đào tạo. Xây dựng đội ngũ nhà giáo có phẩm chất đạo đức tốt, có sức khỏe, bản lĩnh chính trị vững vàng, đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ mới. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Việc tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phải trên cơ sở đánh giá năng lực, đạo đức nghề nghiệp và hiệu quả công tác. Bởi theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì vấn đề then chốt quyết định chất lượng giáo dục chính là xây dựng đội ngũ những người thầy giáo và cán bộ quản lý giáo dục. học trò với nhau, giữa nhà trường với Nhân dân, chú trọng các phong trào thi đua để tạo nên môi trường giáo dục lành mạnh.
Tổ chức tốt, thực chất công tác thi đua khen thưởng, tạo động lực cho đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên, học sinh thi đua dạy tốt, học tốt. Nhân rộng những mô hình giáo dục và đào tạo hiệu quả trong nước, nghiên cứu chọn lọc áp dụng một số mô hình giáo dục và đào tạo của thế giới vào nhà trường, góp phần thúc đẩy sự phát triển của giáo dục và đào tạo nước ta trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Bài thu hoạch chính trị hè 2023
Câu hỏi: Trong các chuyên đề bồi dưỡng Chính trị hè năm 2023. Thầy/Cô tâm đắc nội dung chuyên đề nào nhất? Nêu nội dung cơ bản của chuyên đề, liên hệ với chức trách nhiệm vụ của bản thân và đề ra hướng phấn đấu thực hiện nội dung đó đạt hiệu quả cao.
Bài làm:
Trong các chuyên đề bồi dưỡng chính trị hè năm 2023 rất bổ ích đối với một nhà giáo như tôi. Nhưng trong tất các chuyên đề đó chuyên đề tôi tâm đắc nhất là chuyên đề “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Chuyên đề này nói với chúng ta phải học tập tốt, có ý chí tự lực để có thể giúp ích cho đất nước.
Chuyên đề “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” cho ta thấy được ý chí tự lực, tự cường và khát vọng về quyền sống chân chỉnh của dân tộc đã bồi đắp tư tưởng, sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và lan tỏa trong mọi giai tầng xã hội Việt Nam. Nói cách khác, chính chủ nghĩa yêu nước, khát vọng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước “đàng hoàng”, “to đẹp” đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, đặt nền móng cho sự phát triển tư tưởng mác xít ở Việt Nam, tạo ra những điều kiện căn bản, tiên quyết đưa đến những thành công của cách mạng nước nhà.
Về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Trước hết ta nói đến tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường. Thứ nhất, ý chí tự lực, tự cường là không phụ thuộc vào lực lượng bên ngoài, có quan điểm độc lập trong quan hệ quốc tế. Nguyễn Ái Quốc cho rằng, cách mạng ở các nước thuộc địa (trong đó có Việt Nam) hoàn toàn có thể chủ động giành thắng lợi, không phụ thuộc việc cách mạng ở chính quốc có thắng lợi hay không. Nguyễn Ái Quốc nêu rõ quyết tâm, ý chí, phương pháp cách mạng, thể hiện sâu sắc quan điểm tự lực, tự cường trong đấu tranh cách mạng: "Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập". Thứ hai, ý chí tự lực, tự cường là phải nhận thức rõ sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Hồ Chí Minh khẳng định, nhân tố mang tính quyết định của cách mạng giải phóng dân tộc chính là sức mạnh của toàn dân tộc. Thứ ba, ý chí tự lực, tự cường là sự chủ động, chuẩn bị mọi mặt các điều kiện của cách mạng. Qua thắng lợi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thể hiện việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin ở một nước thuộc địa, khẳng định đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng, tinh thần, ý chí tự lực, tự cường của toàn dân tộc theo tư tưởng của Bác. Tư tưởng tự lực, tự cường, chủ động chuẩn bị chu đáo các điều kiện cách mạng tiếp tục được phát triển và khẳng định trong các giai đoạn cách mạng sau, đưa tới thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945- 1954), kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1954-1975), trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước (1975- nay), đặc biệt trong 35 năm đổi mới (1986- nay). Thứ bốn, ý chí tự lực, tự cường là đặc biệt chú trọng phát huy vai trò, sức mạnh của nhân dân. Nó được thể hiện rõ qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1954) và cuộc kháng chiến chống Mỹ (1964-1975). Thứ năm, luôn xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của đất nước, vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn để đưa ra những quan điểm, chủ trương phù hợp; không giáo điều, máy móc trong học tập kinh nghiệm của nước khác. Theo Hồ Chí Minh, xây dựng, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Việt Nam phải có cách làm, bước đi và biện pháp thích hợp. “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác... ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Chúng ta dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta.
Tiếp theo, ta nói về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Thứ nhất là xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh, cường thịnh, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài. Thứ hai là hực hiện khát vọng đất nước giàu mạnh, cường thịnh trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng chế độ mới, mưu cầu hạnh phúc, ấm no cho nhân dân. Hai điều này cho thấy được ý chí, khát vọng độc lập của Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân, hùng cường cho dân tộc và tấm gương mẫu mực suốt đời phụng sự đất nước, phục vụ nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là động lực, tư tưởng soi đường cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, vĩ một Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc. Thứ ba ta muốn nói đến là xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc, thực hiện một cách có kế hoạch với sự đồng lòng của Chính phủ và người dân. “Nhân dân ta, đặc biệt là công nhân và nông dân ta, phải hăng hái thi đua yêu nước, thực hiện khẩu hiệu: làm nhiều, nhanh, tốt, rẻ”. “Tự lực cánh sinh, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm”. Có sự chung sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn xã hội, như vậy mới phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng thắng lợi.Thứ tư là phát huy tối đa nội lực dân tộc, tranh thủ ngoại lực, có chính sách mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài. Và cuối cùng là luôn xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của đất nước, vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn để đưa ra những quan điểm, chủ trương phù hợp; không giáo điều, máy móc trong học tập kinh nghiệm của nước khác. Qua những điều trên cho thấy những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh có giá trị chỉ đạo thực tiễn và nghiên cứu lý luận về sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo con đường của chủ nghĩa xã hội, trở thành cơ sở, nền tảng tư tưởng đặc biệt quan trọng để Đảng đổi mới tư duy lý luận, nắm bắt thực tiễn, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, hoạch định đường lối đổi mới tại Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới trong các giai đoạn cách mạng để Việt Nam có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.
Để việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thời gian tới đi vào chiều sâu, chất lượng, thiết thực, cần tập trung làm tốt ba nội dung: Học tập, làm theo Bác và nêu gương của cán bộ, đảng viên. Nghiên cứu, thực hiện hiệu quả các giải pháp sau: Cần nhận thức sâu sắc, thấm nhuần tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Coi đây là công việc thường xuyên, không thể thiếu đối với mỗi cán bộ, đảng viên; Các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể đưa nội dung làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào chương trình, kế hoạch hành động thực hiện nghị quyết của đảng bộ cấp mình, gắn với nhiệm vụ chính trị; Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, lôi cuốn sự vào cuộc của toàn xã hội; Nêu cao trách nhiệm nêu gương trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí, tự lực, tự cường dân tộc, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh trong cản bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; Nghiên cứu, bẻ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng; Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, theo hướng khoa học, sáng tạo, hiện đại và gắn lý luận với thực tiễn, phù hợp với từng đối tượng.; Nâng cao tính khoa học, tính chiến đấu trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị, chủ động thông tin kịp thời, chính xác, khách quan, đúng định hướng chính trị để phòng, chống “diễn biến hòa bình”, loại thông tin xấu, độc trên internet, mạng xã hội, để cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức đúng đắn, tích cực tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, làm cho tư tưởng tiến bộ thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, có tác dụng uốn nắn những biểu hiện lệch lạc, bồi đắp thế giới quan, phương pháp luận và niềm tin khoa học trong mỗi cán bộ, đảng viên và người dân, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội.; Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát nhằm tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên trong thực hiện quy định nêu gương. Xử lý kiên quyết, nghiêm minh các tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên vi phạm. Khen thưởng, biểu dương, động viên kịp thời những mô hình hay, các điển hình tiên tiến, tấm gương tiêu biểu. Chúng ta cũng có thể nghĩ ngay đến về dịch COVID hiện nay chúng ta cũng nên có ý thức tự giác và tuân theo các quy định của nhà nước đưa ra để đẩy lùi dịch bệnh đưa đất nước ta và nhân ta có cuộc sống bình thường trở lại. Một phần chúng ta cũng nên học hỏi các bạn sinh viên ngành y ở các tỉnh, các tình nguyện viên đã dám đứng ra và giúp chúng ta từng ngày và cực khổ chăm lo chúng ta để đẩy lùi dịch bệnh.
Qua những nội dung và các giải pháp về chuyên đề “ Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc” cho ta thấy được là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay, đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong công cuộc đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ sự nghiệp đổi mới đất nước, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Bài thu hoạch chính trị hè năm 2023 - Mẫu 1
Họ và tên: ....................................................................................................
Đơn vị: ...........................................................................................................
Câu hỏi:
Câu 1: Anh (chị) hãy trình bày những điều cơ bản tại Quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên trong Quy định số 08-QĐ/TW, ngày 25/10/2018 của Chấp hành Trung ương).
Câu 2: Hãy nêu những hành động thiết thực của mình để thể hiện trách nhiệm nêu gương của bản thân người giáo viên trong môi trường sư phạm?
Bài làm
Câu 1: Quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên số 08-QĐ/TW, ngày 25/10/2018 của Chấp hành Trung ương:
Điều 1. Cán bộ, đảng viên, trước hết là Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương phải nghiêm chỉnh chấp hành Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; gương mẫu thực hiện Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, chủ chốt các cấp; Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19/12/2016 của Bộ Chính trị về một số việc cần làm ngay để tăng cường trách nhiệm nêu gương. Cán bộ, đảng viên giữ chức vụ càng cao càng phải gương mẫu nêu gương.
Điều 2. Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương phải gương mẫu đi đầu thực hiện:
1. Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, với Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghiên cứu, nắm vững hệ thống các nguyên tắc cơ bản và kiên quyết bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Có lập trường tư tưởng vững vàng, quan điểm đúng đắn, chính kiến rõ ràng trước những vấn đề mới, khó, phức tạp, nhạy cảm. Chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch.
2. Hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, của quốc gia - dân tộc và mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng. Không làm bất
cứ việc gì có hại cho Đảng, cho đất nước và nhân dân. Lấy ấm no, hạnh phúc và sự hài lòng của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.
3. Thực hành phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, sâu sát thực tiễn, hiệu quả; thực sự là hạt nhân đoàn kết, quy tụ, tạo động lực và phát huy trí tuệ tập thể. Chỉ đạo quyết liệt, hiệu quả công tác cải cách hành chính, ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ.
4. Sẵn sàng nhận và nỗ lực hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ khi được phân công. Tâm huyết, tận tuỵ với công việc. Tích cực giải quyết dứt điểm các vấn đề phức tạp, bức xúc, tồn đọng kéo dài; chủ động, kịp thời xử lý có hiệu quả các tình huống khẩn cấp, đột xuất, bất ngờ trong địa phương, lĩnh vực mình phụ trách.
5. Tích cực thực hiện quy định về phân cấp, phân quyền và kiểm soát chặt chẽ quyền lực. Chủ động thực hiện chủ trương thí điểm của Trung ương; khuyến khích mô hình, cách làm mới, hiệu quả. Năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm; tìm tòi, đổi mới, phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương, ngành, lĩnh vực do mình phụ trách.
6. Giữ vững nguyên tắc, dân chủ, công tâm, khách quan, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ kế cận. Chủ động, tích cực phát hiện, thu hút, trọng dụng người có đức, có tài, khát khao cống hiến. Bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì sự nghiệp của Đảng, vì lợi ích quốc gia - dân tộc.
7. Không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng. Mẫu mực về đạo đức, lối sống. Thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; trung thực, giản dị, thẳng thắn, chân thành.
8. Nghiêm túc thực hành tự phê bình và phê bình; thấy đúng phải cương quyết bảo vệ, thấy sai phải quyết liệt đấu tranh; không tranh công đổ lỗi. Dũng cảm nhận khuyết điểm và trách nhiệm. Chủ động xin từ chức khi thấy mình không còn đủ điều kiện, năng lực, uy tín để thực hiện nhiệm vụ.
Điều 3. Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương phải nghiêm khắc với bản thân và kiên quyết chống:
1. Chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, bản vị. Lợi dụng tập thể để né tránh trách nhiệm hoặc lấy danh nghĩa tập thể thực hiện mục đích cá nhân. Nói không nhất quán, nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít.
2. Độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, xa dân, thờ ơ, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc của nhân dân. Định kiến với người góp ý, phê bình. Trực tiếp, mượn danh hoặc cung cấp tài liệu cho người khác để nói, viết, đăng tin, bài sai sự thật nhằm đề cao tập thể, cá nhân mình hoặc hạ thấp uy tín của tập thể, cá nhân khác trên các phương tiện truyền thông, mạng xã hội.
3. Chủ trì tham mưu, ban hành cơ chế, chính sách trái chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng hoặc gây thiệt hại đối với lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân.
4. Chạy hoặc tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền, chạy phiếu bầu, chạy phiếu tín nhiệm. Can thiệp không đúng thẩm quyền, trách nhiệm, trái quy định vào công tác cán bộ; đề bạt, bổ nhiệm, bố trí cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định, nhất là đối với người nhà, người thân.
5. Tham nhũng, hối lộ dưới mọi hình thức; tặng quà, nhận quà vì vụ lợi. Can thiệp không đúng thẩm quyền, trách nhiệm, trái quy định vào công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; đối với việc đề xuất, cho chủ trương, thẩm định, phê duyệt, đấu thầu, chỉ định thầu các dự án, đề án kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh; đấu giá đất đai, tài sản nhà nước.
6. Lãng phí công quỹ, tài sản, phương tiện, nhân lực và thời gian làm việc. Tổ chức đoàn đi công tác ở trong và ngoài nước không đúng thành phần, thời gian và nội dung yêu cầu công việc. Sống, sinh hoạt, tiêu dùng, giải trí xa hoa, lãng phí.
7. Lợi dụng doanh nghiệp hoặc để doanh nghiệp lợi dụng nhằm vụ lợi. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín để sử dụng, vay, mượn tiền, tài sản, phương tiện của tổ chức, cá nhân trái quy định.
8. Để vợ (chồng), bố, mẹ, con, anh chị em ruột lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín của mình để vụ lợi. Để vợ (chồng), con đẻ, con nuôi sống xa hoa, phô trương, lãng phí hoặc sa vào tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật.
Câu 2: Hãy nêu những hành động thiết thực của mình để thể hiện trách nhiệm nêu gương của bản thân người giáo viên trong môi trường sư phạm?
Nói đến trách nhiệm nêu gương là nói đến một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong chương trình dạy học của ngành giáo dục. Trước đây, khi chưa có Quy định nêu gương của Trung Ương Đảng thì trong ngành giáo dục cũng đã có quy định này và đó được đưa vào một phương pháp dạy học chủ chốt trong các phương pháp dạy học của người giáo viên. Đó là phương pháp “Nêu gương”.
Vậy trước hết chúng ta cần hiểu nêu gương là gì?
Nêu gương là lấy hành động, việc làm tốt của bản thân làm gương trước mọi người để mọi người cùng học tập làm theo. Để nêu gương trước hết bản thân phải có đạo đức trong sáng, lành mạnh, nhân cách tốt và hành động đúng đắn. Học đi đôi với hành, mọi lời nói và hành động phải chuẩn mực và hiệu quả để mọi người nhìn vào đó như là hình mẫu và cùng nhau học tập.
“Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải mực thước cho người ta bắt chước”, cách nói giản dị đó là của Bác Hồ về trách nhiệm và bổn phận nêu gương của cán bộ, đảng viên, về công tác giáo dục, rèn luyện cán bộ, nhằm xây dựng đội ngũ những người tiêu biểu nhất, tiên tiến nhất, xứng tầm lãnh đạo cách mạng. Để thực sự nêu gương, người cán bộ, đảng viên phải không ngừng rèn luyện, tu dưỡng cả về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, trách nhiệm, tác phong công tác, ý thức tổ chức kỷ luật, quan hệ với quần chúng nhân dân…
Càng giữ chức vụ cao, yêu cầu, đòi hỏi càng lớn. Bản thân mỗi cán bộ, đảng viên phải nói đúng, làm đúng, đạo đức lối sống phải trong sáng, lành mạnh, tác phong công tác phải mẫu mực, quần chúng mới tin tưởng, yêu mến và noi theo. Làm sao có thể nêu gương khi bản thân cán bộ, đảng viên vi phạm nguyên tắc, quy định, điều lệ Đảng, vi phạm chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, không thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ được giao, không trung thực trong kê khai tài sản, thu nhập, lợi dụng chức trách nhiệm vụ được giao để trục lợi, lo vun vén cá nhân, ưu ái cho người thân, gia đình trong quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ…
Làm sao nhân dân có thể yêu mến, tin cậy những ông quan “nói một đằng, làm một nẻo,” kêu gọi người khác sống lành mạnh, tiết kiệm, trong khi bản thân sống xa hoa, lãng phí bằng tài sản, công quỹ nhà nước, bằng tiền thuế của dân, cờ bạc, tiệc tùng vô độ…
Những ung nhọt đó nếu không sớm cắt bỏ sẽ “làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng, làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”, như nghị quyết trung ương 4 Khóa XII nhận định.
Đặc biệt trong môi trường sư phạm, vai trò nêu gương càng phải được thực hiện và phát huy hằng ngày cho học sinh. Trước hết là người giáo viên, tôi luôn phấn đấu một người thầy mẫu mực về nhân cách, trong sáng về đạo đức để các em noi theo, Mọi việc làm và hành động của mình luôn ở mức chuẩn mực, có thể mình chưa giỏi toàn diện trong chuyên môn nhưng bản thân luôn cầu tiến, không ngừng học tập để nâng cao trình độ đồng thời cũng là làm gương chăm chỉ cho học sinh có động lực vươn lên.
Ngoài ra trong giảng dạy, tôi luôn chọn những em học sinh có gương tốt để nêu trong mỗi tiết dạy nhằm khơi dậy tính học tập lẫn nhau, noi gương lẫn nhau cho các em cùng tiến bộ. Với phương châm “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức tự học và sáng tạo” để làm nền tảng cho học sinh noi theo.
Bài thu hoạch chính trị hè năm 2023 - Mẫu 2
Câu 1: Quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên có mục đích đưa việc nêu gương trở thành việc làm tự giác, thường xuyên và nếp văn hóa của cán bộ, đảng viên nhất là đội ngũ đang công tác trong môi trường sư phạm. Hãy trình bài và phân tích những hành động thiết thực để thể hiện trách nhiệm nêu gương của bản thân người giáo viên trong môi trường sư phạm?
Câu 2: Theo các anh, chị cần thực hiện các giải pháp thiết thực nào để thực hiện chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045?
Câu 3: Qua học tập và nghiên cứu chuyên đề về xây dựng ý thức tôn trọng Nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống Nhân dân theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh. Anh, chị hãy trình bài những nhận thức, những kết quả thực hiện cụ thể của bản thân mình trong quá trình công tác?
Gợi ý trả lời câu hỏi bài thu hoạch chính trị hè 2023
Câu 2: Giải pháp thiết thực để thực hiện chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam
TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN VIỆT NAM
Kinh tế biển là sự kết hợp hữu cơ giữa các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển và hoạt động kinh tế trên dải đất liền ven biển. Trong đó, biển chủ yếu đóng vai trò vùng khai thác nguyên liệu, là môi trường cho các hoạt động vận tải, du lịch biển; còn toàn bộ hoạt động sản xuất và phục vụ khai thác biển lại diễn ra trên dải đất liền ven biển. Do vậy, khi nói đến kinh tế biển không thể tách vùng biển với vùng ven biển và ngược lại. Từ khái niệm này đã chỉ ra các hoạt động kinh tế biển và không gian của kinh tế biển gồm 2 bộ phận là không gian biển và không gian dải đất liền ven biển. Theo đó, đối với lãnh thổ Việt Nam, kinh tế vùng ven biển là các hoạt động kinh tế ở dải ven biển, có thể tính theo địa bàn các xã, huyện và các tỉnh có biên giới đất liền tiếp giáp với biển, bao gồm các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp, dịch vụ…
Nước ta có bờ biển trải từ Bắc vào Nam dài 3.260km, chủ quyền bao quát hơn 1 triệu kilômét vuông trên vùng biển Đông, gấp 3 lần diện tích đất liền. Trên biển có hơn 3.000 hòn đảo, quần đảo lớn nhỏ, với trữ lượng hải sản lớn, phong phú, trữ lượng khoáng sản, nhất là dầu khí to lớn, tiềm năng du lịch gắn với biển và trên biển rất dồi dào. Điểm nổi bật là, trong số 10 tuyến đường biển lớn nhất hành tinh, có 5 tuyến đi qua biển Đông, là hướng mở rộng thông thương, thắt chặt và tăng cường các mối bang giao quốc tế. Cả nước đã có 9 cảng biển và 15 khu kinh tế ven biển được thành lập, với tổng diện tích mặt đất và mặt nước lên đến 662.249 ha, thu hút khoảng 700 dự án do nước ngoài và trong nước đầu tư, với tổng vốn gần 33 tỷ USD và 330.000 tỷ đồng. Dọc bờ biển Việt Nam có 28 tỉnh, thành phố, với 12 thành phố lớn, 125 huyện, thị xã ven biển, 100 cảng biển, khoảng 238.000 cụm công nghiệp và gần 1.000 bến cá... Đây chính là những tiềm năng để phát triển kinh tế biển của đất nước. Tiềm năng và thực tế đó đang tạo nền tảng, cơ hội cho Việt Nam từng bước trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, trên cơ sở phát triển, phát huy toàn diện các ngành nghề biển một cách phù hợp, với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển theo hướng nhanh, bền vững và hiệu quả.
VÀ NHỮNG KHÓ KHĂN
Hiện nay, số dân cư sống ở các vùng ven biển tăng lên rất nhanh, bao gồm hàng triệu người làm nghề đánh bắt cá, nuôi trồng thủy sản, vận tải biển, dịch vụ đóng sửa tàu thuyền, chế biến thủy sản, dầu khí, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, du lịch... Nhiều thị trấn, thị tứ, khu nghỉ dưỡng đã hình thành dọc theo chiều dài ven biển của đất nước. Tuy vậy, những kết quả nêu trên mới chỉ là bước đầu, bởi chiến lược phát triển kinh tế biển chưa được quán triệt trong cộng đồng doanh nghiệp và người dân ven biển. Việc phát triển kinh tế biển trong thời gian qua chưa quan tâm đầy đủ đến đào tạo nhân lực, chưa lồng ghép các chương trình phòng ngừa, thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ chủ quyền an ninh biển, đảo. Nhiều địa phương, các cấp, ngành, doanh nghiệp ven biển còn thờ ơ với tác động của biến đổi khí hậu đến sự phát triển kinh tế biển bền vững. Hầu hết ngư dân chưa nhận thức đầy đủ về sự thiệt hại nặng nề do biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Một trong những nguyên nhân chủ yếu vẫn là cơ chế, chính sách chưa phù hợp. Theo các chuyên gia, kinh tế biển mang tính đặc thù nên cần có một cơ chế, chính sách đặc thù, khác biệt với cơ chế, chính sách chung hiện hành. Để nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu vì biển thì phải khai thác triệt để thế mạnh ở tất cả các tỉnh ven biển từ Bắc vào Nam.
Việt Nam là quốc gia có diện tích biển lớn trong vùng biển Đông, là nơi có vị trí địa chính trị, địa kinh tế trọng yếu trên bản đồ chiến lược khu vực và quốc tế. Vì vậy, phát triển kinh tế biển hiệu quả và bền vững có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho phát triển kinh tế đất nước, tiếp thêm sức mạnh cho dân tộc ta trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo trước mắt và lâu dài. Điều quan trọng nhất hiện nay là phải nhanh chóng đưa Nghị quyết số 36 của Đảng vào hiện thực cuộc sống. Triển khai thực hiện tốt những định hướng, mục tiêu, chủ trương lớn và các khâu đột phá với những giải pháp mà nghị quyết đã đề ra là nhiệm vụ quan trọng của đất nước hiện nay.
Giải pháp thiết thực để thực hiện chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045?
- Tăng cường năng lực, chủ động, phân tích, dự báo, theo dõi sát diễn biến tình hình quốc tế, trong nước để có đối sách phù hợp và kịp thời...
- Thực hiện đồng bộ, quyết liệt các đột phá chiến lược. Kiên định mục tiêu đổi mới thể chế là đột phá quan trọng, tập trung rà soát, hoàn thiện các cơ chế chính sách tạo chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa, nhất là những ngành, lĩnh vực ứng dụng công nghệ cao...
- Thực hiện quyết liệt, hiệu quả các Nghị quyết Quốc hội về cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng. Tập trung phát triển các ngành dịch vụ ứng dụng công nghệ hiện đại, công nghệ cao, giá trị gia tăng cao...
- Tiếp tục cơ cấu lại thu, chi ngân sách. Tăng cường công tác quản lý thu ngân sách nhà nước, thực hiện quyết liệt các giải pháp chống thất thu, chuyển giá, trốn thuế, xử lý nợ đọng thuế và triển khai hóa đơn điện tử. Triệt để tiết kiệm chi thường xuyên ngân sách nhà nước dành nguồn lực cho đầu tư phát triển...
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về phát triển bền vững biển, tạo đồng thuận trong toàn xã hội. Nâng cao nhận thức, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền trong tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát quá trình triển khai thực hiện các chủ trương, giải pháp về phát triển bền vững kinh tế biển. Nâng cao hiệu quả, đa dạng hoá các hình thức, nội dung tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về biển, đảo, chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam trong toàn hệ thống chính trị, trong nhân dân, đồng bào ta ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế; khẳng định chủ trương nhất quán của Việt Nam là duy trì môi trường hoà bình, ổn định, tôn trọng luật pháp quốc tế trên biển
- Hoàn thiện thể chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về phát triển bền vững kinh tế biển. Rà soát, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về biển theo hướng phát triển bền vững, bảo đảm tính khả thi, đồng bộ, thống nhất, phù hợp với chuẩn mực luật pháp và điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia
- Phát triển khoa học, công nghệ và tăng cường điều tra cơ bản biển. Thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến; đẩy mạnh nghiên cứu, xác lập luận cứ khoa học cho việc hoạch định, hoàn thiện chính sách, pháp luật về phát triển bền vững kinh tế biển.
- Đẩy mạnh giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực biển. Tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức, kiến thức, hiểu biết về biển, đại dương, kỹ năng sinh tồn, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, phòng, tránh thiên tai cho học sinh, sinh viên trong tất cả các bậc học, cấp học.
- Tăng cường năng lực bảo đảm quốc phòng, an ninh, thực thi pháp luật trên biển. Hoàn thiện tổ chức các lực lượng bảo đảm quốc phòng, an ninh, thực thi pháp luật trên biển. Đầu tư trang thiết bị hiện đại, chú trọng đào tạo nhân lực, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật và tăng cường khả năng hiệp đồng, tác chiến của các lực lượng tham gia bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và các quyền lợi chính đáng, hợp pháp của đất nước. Xây dựng lực lượng công an khu vực ven biển, đảo, các khu đô thị, khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển vững mạnh, làm nòng cốt bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội vùng biển, đảo
- Chủ động tăng cường và mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá; chủ động, nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền và các lợi ích hợp pháp, chính đáng của quốc gia trên biển, đồng thời chủ động, tích cực giải quyết, xử lý các tranh chấp, bất đồng trên Biển Đông bằng các biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982; giữ gìn môi trường hoà bình, ổn định và hợp tác để phát triển.
Bài thu hoạch chính trị hè năm 2023 - Mẫu 3
BÀI THU HOẠCH
(Lớp Bồi dưỡng chính trị hè năm 2023)
Họ và tên: ………………………………………
Chức vụ: Chủ tịch Công đoàn
Đơn vị công tác: Trường THCS……………….
CÂU HỎI
Câu 1: Đồng chí hãy trình bày nội dung tâm đắc nhất đồng chí đã được tiếp thu trong chương trình bồi dưỡng chính trị hè năm 2023?
Câu 2: Đồng chí hiểu như thế nào về cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư? Theo đồng chí ngành giáo dục cần làm gì trong việc ứng dụng những thành tựu cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho xã hội?
BÀI LÀM
Câu 1: Trong chương trình bồi dưỡng chính trị hè năm 2023, có rất nhiệu nội dung. Bản thân tôi tâm đắc nhất với nội dung “Các phong cách làm việc của cán bộ Đảng viên theo tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh”. Nội dung cụ thể như sau:
1. Phong cách dân chủ hay “cách làm việc dân chủ” - Hồ Chí Minh cho rằng, đây là phong cách hàng đầu mà người cán bộ cần phải có. Người chỉ rõ: Đảng ta thực hiện nguyên tắc “tập trung dân chủ” và “chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do”. Vì thế, người cán bộ, đảng viên phải tạo ra được không khí dân chủ thực sự trong nội bộ bằng cách thành tâm lắng nghe và khơi gợi cho cán bộ, đảng viên, quần chúng, cấp dưới nói hết quan điểm, ý kiến của mình. Được như vậy thì cấp dưới và quần chúng mới hăng hái đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được coi trọng, được khen ngợi thì những người đó càng thêm hăng hái làm việc. Phong cách dân chủ của người cán bộ không chỉ khơi nguồn sáng tạo, phát huy tinh thần cống hiến của cấp dưới và quần chúng nhân dân mà còn làm cho tổ chức cơ quan, đoàn thể thêm gắn bó. - Người có tác phong dân chủ là người thực hành tốt nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”. Đó là cách “để phát huy trí tuệ và kinh nghiệm của nhiều người”. Cán bộ không bao giờ được “độc tôn chân lý”, phải thành thực lắng nghe ý kiến phê bình của cấp dưới và nghiêm túc sửa mình với tinh thần cầu thị. Làm như vậy thì chắc chắn người cán bộ sẽ được nhân dân yêu mến, cấp dưới nể trọng. - Nói về sức mạnh của dân chủ, Hồ Chí Minh từng nói: “Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”. Nếu người cán bộ không có tác phong dân chủ hoặc “miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ” là họ tự tước đi của mình vũ khí hữu hiệu nhất để hoàn thành nhiệm vụ. Khi đó, dù có “đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo chỉ thị mà công việc vẫn không chạy”. - Phong cách dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh là dân chủ có định hướng, có lãnh đạo, dân chủ phải đi đến sự tập trung chứ không phải dân chủ quá trớn, dân chủ vô tổ chức. Nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh hoạt Đảng là “tập trung dân chủ”.
2. Phong cách làm việc quần chúng
- Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ phải có phong cách làm việc quần chúng, xuất phát từ vấn đề có tính nguyên tắc về vai trò của quần chúng nhân dân: “Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. - Phong cách quần chúng yêu cầu người cán bộ phải gần gũi quần chúng, lắng nghe và thấu hiểu mong muốn của quần chúng, phải thường xuyên đi xuống cơ sở mà mình phụ trách, tìm hiểu thực trạng đời sống, tâm tư, nguyện vọng của quần chúng. Người khẳng định: nếu “cách xa dân chúng, không liên lạc chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”.
- Phong cách quần chúng không có nghĩa là “theo đuôi quần chúng” vì “trong dân chúng, có nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau”. Người cán bộ phải có bản lĩnh vững vàng để vừa nâng cao trình độ giác ngộ, dân trí của quần chúng, tạo ra sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của một bộ phận quần chúng “chậm tiến”, thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của mình. - Phong cách quần chúng là phải biết cách tổ chức phong trào phù hợp với trình độ, năng lực thực tế của quần chúng, không chủ quan, duy ý chí, áp đặt thực tiễn theo ý mình. Theo Người, “Nếu cứ làm theo ý muốn, theo tư tưởng, theo chủ quan của mình, rồi đem cột vào cho quần chúng, thì khác nào “khoét chân cho vừa giầy”…
- Phong cách làm việc quần chúng của cán bộ, đảng viên còn bao gồm cả trong sinh hoạt. Người cán bộ phải giản dị, hòa đồng với quần chúng, không cho phép mình hưởng điều gì có tính chất “đặc quyền, đặc lợi”. Người cảnh tỉnh những suy nghĩ lệch lạc trong cán bộ, rằng “phải ăn mặc bảnh mới giữ được oai tín, giữ được thể diện”. Khi người cán bộ thấm nhuần tác phong quần chúng, họ sẽ được quần chúng nhân dân yêu thương, tin cậy, ủng hộ và khi đó, việc gì họ làm cũng thành công.
3. Phong cách làm việc khoa học
- Theo Hồ Chí Minh, cán bộ làm việc gì cũng phải có mục đích và kế hoạch rõ ràng, thiết thực. Muốn vậy, người cán bộ phải “xét kỹ hoàn cảnh mà sắp đặt công việc cho đúng. Việc chính, việc gấp thì phải làm trước. Không nên luộm thuộm, không có kế hoạch, gặp việc nào làm việc ấy”. Hết sức tránh chuyện vạch ra “chương trình công tác thì quá rộng mà kém thiết thực” và căn bệnh “đánh trống bỏ dùi” gây lãng phí tiền của, nhân lực và thời gian của nhân dân.
- Phong cách làm việc khoa học là phải biết quý trọng thời gian, biết giờ nào làm việc ấy và có năng lực giải quyết công việc một cách tốt nhất trong một thời gian ngắn nhất. Người cán bộ phải biết tiết kiệm thời gian của mình nhưng cũng phải biết tiết kiệm thời gian cho người khác. Cách tốt nhất là tập trung giải quyết dứt điểm từng công việc. Không ôm đồm, làm quá nhiều việc, nhiều việc không dứt điểm, không hiệu quả.
- Phong cách làm việc khoa học yêu cầu người cán bộ giải quyết công việc trên cơ sở dữ liệu khách quan, dựa trên nền tảng thực tế để lựa chọn ra phương án khả thi nhất và phương án ấy phải đặt trong tổng thể chiến lược lâu dài. Không được rơi vào “bệnh cận thị - không trông xa, thấy rộng. Những vấn đề to tát thì không nghĩ đến mà chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ”. Người cán bộ không được vì cái lợi nhỏ trước mắt mà làm tổn hại đến lợi ích to lớn, lâu dài. Tầm nhìn - đó chính là phẩm chất của người có tư duy khoa học và có cách làm việc khoa học.
- Phong cách làm việc khoa học đòi hỏi người cán bộ phải có cách đánh giá đúng người, đúng việc, sắp xếp công việc cho hợp lý. Lại phải biết cách kiểm tra, giám sát công việc và cấp dưới một cách hiệu quả, qua đó thấy được việc thi hành đường lối, nghị quyết của Đảng như thế nào và cần điều chỉnh cái gì… Kiểm tra còn có tác dụng phân loại, đánh giá cán bộ vì “có kiểm tra… mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời”. Cán bộ lãnh đạo làm việc khoa học, chặt chẽ thì cấp dưới không thể “qua mặt”.
- Phong cách làm việc khoa học đòi hỏi người cán bộ sau mỗi công việc phải biết rút ra kinh nghiệm cho lần sau và cho người khác. Người viết: “Công việc gì bất kỳ thành công hoặc thất bại, chúng ta cần phải nghiên cứu đến cội rễ, phân tách thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái thìa khóa phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới”.
4. Phong cách nêu gương, nói đi đôi với làm
- Theo Hồ Chí Minh, trước hết phải làm gương trong mọi công việc, từ nhỏ đến lớn, thể hiện thường xuyên về mọi mặt; phải cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư, nói phải đi đôi với làm. Cần nêu gương trên ba mối quan hệ với mình, với người, với việc. Đối với mình phải không tự cao tự đại, tự mãn, kiêu ngạo, luôn học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân; phải tự phê bình mình như rửa mặt hằng ngày. Đối với người, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc, khoan dung, độ lượng. Đối với việc, dù trong hoàn cảnh nào phải giữ nguyên tắc “dĩ công vi thượng”, để việc công lên trên, lên trước việc tư.
- Muốn nêu gương được thì nói phải đi đôi với làm. Với cán bộ, đảng viên, sự thống nhất chặt chẽ giữa nói và làm, giữa đạo đức và nêu gương đạo đức cần đạt tới sự nhất quán trong công việc và trong đời sống riêng, giữa đạo đức người lãnh đạo và đạo đức đời thường. Địa vị càng cao, uy tín càng lớn, càng phải ra sức hoàn thiện về đạo đức, thống nhất giữa nói và làm. Người đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải làm kiểu mẫu trong công tác và lối sống, trong mọi lúc, mọi nơi, nói phải đi đôi với làm để quần chúng noi theo.
- Hồ Chí Minh yêu cầu ai cũng phải nêu gương về đạo đức. Trước hết, mình phải tự làm gương, “cán bộ gắng làm gương trong anh em, và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân”. Làm gương cả về ba mặt: tinh thần, vật chất và văn hoá. Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.
- Để giáo dục bằng nêu gương đạt kết quả cao, Hồ Chí Minh chủ trương: “Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới”. Trong gia đình, cha mẹ phải là tấm gương cho các con, anh chị là tấm gương đối với các em. Trong nhà trường, thầy giáo, cô giáo là tấm gương cho học trò. Trong cơ quan, tổ chức thì cán bộ lãnh đạo là tấm gương cho cấp dưới, người này có thể nêu gương cho người khác. Trong cuộc sống hằng ngày, người cán bộ, đảng viên phải có trách nhiệm tự tu dưỡng tốt để trở thành con người có đời tư trong sáng, làm tấm gương giúp nhân dân nhìn vào đó mà noi theo, qua đó mà làm tăng thêm những điều đúng, những điều thiện, chống lại thói hư, tật xấu.
- Trong các nội dung nêu gương, cán bộ, đảng viên phải luôn luôn nêu gương về tinh thần phục vụ nhân dân. Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm phục vụ nhân dân từ một triết lý sâu xa rằng, cơm chúng ta ăn, áo chúng ra mặc đều do mồ hôi, nước mắt của dân mà ra, nên chúng ta phải đền bù xứng đáng cho dân. Vì vậy mà cán bộ, đảng viên phải xông xáo, nhiệt tình, sâu sát nhân dân, gương mẫu và dám chịu trách nhiệm trước dân cả về lời nói và việc làm. Đó là tư tưởng đạo đức, phong cách nêu gương, tự giác, gương mẫu Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên, công chức phải tự giác làm theo.
Câu 2:
Trước hết, ta hiểu thế nào là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư?
Cách mạng công nghiệp 4.0 hay còn gọi là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 trên thế giới đang diễn ra tại nhiều nước phát triển.
Cuộc cách mạng 4.0 là sự gắn kết giữa các nền công nghệ, làm xóa đi ranh giới giữa thế giới vật thể, thế giới số hóa và thế giới sinh học. Đó là các công nghệ internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, người máy, xe tự lái, in ba chiều, máy tính siêu thông minh, công xưởng thông minh, công nghệ nano, công nghệ sinh học… Đây là cuộc cách mạng về sản xuất thông minh dựa trên các thành tựu đột phá trong các lĩnh vực công nghệ khác nhau với nền tảng là các đột phá của công nghệ số. Trung tâm của cuộc cách mạng 4.0 là công nghệ thông tin và internet kết nối vạn vật (IoT), không chỉ giúp con người giao tiếp với con người, mà còn là con người giao tiếp với máy, con người giao tiếp với đồ vật và đồ vật giao tiếp với nhau.
Tác động của cuộc cách mạng 4.0 tới ngành giáo dục:
Sự tác động của cuộc cách mạng 4.0 tới giáo dục là rất lớn, vừa tạo ra cơ hội nhưng cũng đặt ra những thách thức ngày càng nhiều hơn cho các cơ sở giáo dục.. Cụ thể là:
Tạo ra nhu cầu đào tạo cao cho các cơ sở giáo dục. Trong mọi lĩnh vực ngành nghề, những bước đi có tính đột phá về công nghệ mới như trí thông minh nhân tạo, robot, mạng internet, phương tiện độc lập, in 3D, công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa học về vật liệu, lưu trữ năng lượng và tin học lượng tử sẽ còn tác động mạnh mẽ hơn tới đời sống xã hội. Trong cuộc cách mạng 4.0, hệ thống giáo dục nghề nghiệp sẽ bị tác động rất mạnh và toàn diện, danh mục nghề đào tạo sẽ phải điều chỉnh, cập nhật liên tục vì các ranh giới giữa các lĩnh vực rất mỏng manh. Theo đó, sẽ là sự liên kết giữa các lĩnh vực lý - sinh; cơ - điện tử - sinh, từ đó hàng loạt nghề nghiệp cũ sẽ mất đi và thay vào đó là cơ hội cho sự phát triển của những ngành nghề đào tạo mới, đặc biệt là sự liên quan đến sự tương tác giữa con người và máy móc. Thị trường lao động trong nước cũng như quốc tế sẽ có sự phân hóa mạnh mẽ giữa nhóm lao động có trình độ thấp và nhóm lao động có trình độ cao. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ đe dọa tới việc làm của những lao động trình độ thấp, mà ngay cả lao động có kỹ năng bậc trung cũng sẽ bị ảnh hưởng nếu họ không được trang bị kiến thức mới - kỹ năng sáng tạo cho nền kinh tế 4.0. Cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ tạo ra cơ hội đào tạo những người mới chưa qua đào tạo, còn đòi hỏi ngay cả những người đã đi làm, từ công nhân đến kỹ sư đều phải thay đổi, cập nhật về kiến thức, kỹ năng ở mức độ cao hơn. Theo mục tiêu của Chính phủ, năm 2020, nước ta sẽ có khoảng 1.000.000 doanh nghiệp, tức là cũng cần một triệu cán bộ công nghệ thông tin. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta mới có 300.000 cán bộ công nghệ thông tin, nên chỉ riêng nhu cầu đào tạo mới của ngành này để cung cấp cho xã hội một lực lượng lao động làm chủ công nghệ thông tin đã là cơ hội lớn cho các trường đào tạo.
Làm thay đổi mọi hoạt động trong các cơ sở đào tạo. Để đáp ứng đủ nhân lực cho nền kinh tế sáng tạo, đòi hỏi phải thay đổi các hoạt động đào tạo, nhất là ngành nghề đào tạo, hình thức và phương pháp đào tạo với sự ứng dụng mạnh mẽ của công nghệ thông tin. Theo đó, các phương thức giảng dạy cũ không còn phù hợp với nhu cầu của xã hội. Với sự vận dụng những thành tựu của cách mạng 4.0 thì người học ở bất cứ đâu đều có thể truy cập vào thư viện của nhà trường để tự học, tự nghiên cứu. Như vậy, không thể chỉ tồn tại mô hình thư viện truyền thống mà các trường phải xây dựng được thư viện điện tử. Hoặc chúng ta sẽ có những mô hình giảng dạy mới như đào tạo trực tuyến không cần lớp học, không cần giáo viên đứng lớp, người học sẽ được hướng dẫn học qua mạng. Những lớp học ảo, thầy giáo ảo, thiết bị ảo có tính mô phỏng, bài giảng được số hóa và chia sẻ qua những nền tảng như Facebo
Ngành giáo dục cần làm:
Đổi mới phương thức đào tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số vào trong hoạt động giảng dạy và học, nâng cao năng lực và chất lượng của đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý.
Đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất, bao gồm: cơ ngơi trường học, trang thiết bị hiện đại, thư viện...
Phải đặc biệt quan tâm đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục (CBQLGD) các cấp, từ cấp bộ đến địa phương (sở, quận, huyện) thật sự có đức, có tài; đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn giỏi và có tư cách đạo đức tốt.
Cải cách chế độ tiền lương, thực hiện tốt chế độ thâm niên (cho GV và CBQLGD và GV đã nghỉ hưu các thời kỳ), thiết thực chăm lo nâng cao đời sống cho họ.
Tăng cường tự học và trau dồi tiếng Anh cho giáo viên và học sinh.
Bên cạnh hoạt động đào tạo, cần tích cực tham gia công tác nghiên cứu khoa học để nâng cao trình độ, kiến thức chuyên môn, gắn nghiên cứu với các hoạt động chuyển giao tại cơ sở, đặc biệt chú trọng các nghiên cứu mô phỏng, nghiên cứu tương tác…
Cần đẩy mạnh công tác dự báo nhu cầu thị trường nhân lực trong tương lai gần và xa hơn
Cần sự kết hợp 3 “nhà”: Nhà trường – Nhà khoa học – Nhà doanh nghiệp trong đào tạo nhân lực phục vụ CMCN 4.0
Các trường đại học ở Việt Nam cần học tập, kinh nghiệm đào tạo của các trường đại học ở nước ngoài, trong việc xây dựng các trung tâm đổi mới sáng tạo gắn rất chặt với doanh nghiệp. Nhờ những trung tâm đó, sinh viên được học tập ở môi trường rất thật; các doanh nghiệp liên kết với các trường để tìm nguồn nhân lực tương lai.
Hoạt động của trung tâm đổi mới sáng tạo ở trường phải thiết thực và đi cùng với nhịp thở cuộc sống, thoát ly lý thuyết thuần tuý. Từ đây, cần xây dựng môi trường dạy và học mà phải gắn rất chặt với môi trường kinh doanh, với thực tiễn đặt hàng của xã hội…
Cần rà soát, sắp xếp, quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu của thị trường lao động trong cả nước, từng vùng và địa phương.
Nâng cao chất lượng đào tạo của các trường sư phạm. Thực hiện tốt công tác tuyển sinh đại học, cao đẳng. Xây dựng cơ chế, chính sách phân luồng giáo dục, gắn với đào tạo nghề và phát triển kỹ năng nghề nghiệp cho học sinh phổ thông.
Đổi mới nội dung, phương thức đào tạo nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp; Nâng cao chất lượng đào tạo một số trường đại học, một số nghề tiếp cận trình độ các nước phát triển trong ASEAN và thế giới.
……, ngày …. tháng …. năm 2023 Người viết ……………………… |
Bài thu hoạch chính trị hè năm 2023 - Mẫu 4
BÀI THU HOẠCH
“Lớp Bồi dưỡng chính trị hè năm 20...”
Họ và tên: ………………………………………………………………………………
Chức vụ: ……………………………………………………………………………….
Đơn vị công tác:………………………………………………………………………..
Câu hỏi:
Anh, chị hiểu như thế nào về cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư? Cuộc cách mạng này có tác động như thế nào đối với ngành giáo dục? Theo anh, chị ngành giáo dục cần làm gì để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho xã hội trong thời đại của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0?
Bài làm
Thế nào là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư?
Cách mạng công nghiệp 4.0 hay còn gọi là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 trên thế giới đang diễn ra tại nhiều nước phát triển.
Cuộc cách mạng 4.0 là sự gắn kết giữa các nền công nghệ, làm xóa đi ranh giới giữa thế giới vật thể, thế giới số hóa và thế giới sinh học. Đó là các công nghệ internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, người máy, xe tự lái, in ba chiều, máy tính siêu thông minh, công xưởng thông minh, công nghệ nano, công nghệ sinh học… Đây là cuộc cách mạng về sản xuất thông minh dựa trên các thành tựu đột phá trong các lĩnh vực công nghệ khác nhau với nền tảng là các đột phá của công nghệ số. Trung tâm của cuộc cách mạng 4.0 là công nghệ thông tin và internet kết nối vạn vật (IoT), không chỉ giúp con người giao tiếp với con người, mà còn là con người giao tiếp với máy, con người giao tiếp với đồ vật và đồ vật giao tiếp với nhau.
Tác động của cuộc cách mạng 4.0 tới ngành giáo dục:
Sự tác động của cuộc cách mạng 4.0 tới giáo dục là rất lớn, vừa tạo ra cơ hội nhưng cũng đặt ra những thách thức ngày càng nhiều hơn cho các cơ sở giáo dục.. Cụ thể là:
Tạo ra nhu cầu đào tạo cao cho các cơ sở giáo dục. Trong mọi lĩnh vực ngành nghề, những bước đi có tính đột phá về công nghệ mới như trí thông minh nhân tạo, robot, mạng internet, phương tiện độc lập, in 3D, công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa học về vật liệu, lưu trữ năng lượng và tin học lượng tử sẽ còn tác động mạnh mẽ hơn tới đời sống xã hội. Trong cuộc cách mạng 4.0, hệ thống giáo dục nghề nghiệp sẽ bị tác động rất mạnh và toàn diện, danh mục nghề đào tạo sẽ phải điều chỉnh, cập nhật liên tục vì các ranh giới giữa các lĩnh vực rất mỏng manh. Theo đó, sẽ là sự liên kết giữa các lĩnh vực lý - sinh; cơ - điện tử - sinh, từ đó hàng loạt nghề nghiệp cũ sẽ mất đi và thay vào đó là cơ hội cho sự phát triển của những ngành nghề đào tạo mới, đặc biệt là sự liên quan đến sự tương tác giữa con người và máy móc. Thị trường lao động trong nước cũng như quốc tế sẽ có sự phân hóa mạnh mẽ giữa nhóm lao động có trình độ thấp và nhóm lao động có trình độ cao. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ đe dọa tới việc làm của những lao động trình độ thấp, mà ngay cả lao động có kỹ năng bậc trung cũng sẽ bị ảnh hưởng nếu họ không được trang bị kiến thức mới - kỹ năng sáng tạo cho nền kinh tế 4.0. Cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ tạo ra cơ hội đào tạo những người mới chưa qua đào tạo, còn đòi hỏi ngay cả những người đã đi làm, từ công nhân đến kỹ sư đều phải thay đổi, cập nhật về kiến thức, kỹ năng ở mức độ cao hơn. Theo mục tiêu của Chính phủ, năm 2023, nước ta sẽ có khoảng 1.000.000 doanh nghiệp, tức là cũng cần một triệu cán bộ công nghệ thông tin. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta mới có 300.000 cán bộ công nghệ thông tin, nên chỉ riêng nhu cầu đào tạo mới của ngành này để cung cấp cho xã hội một lực lượng lao động làm chủ công nghệ thông tin đã là cơ hội lớn cho các trường đào tạo.
Làm thay đổi mọi hoạt động trong các cơ sở đào tạo. Để đáp ứng đủ nhân lực cho nền kinh tế sáng tạo, đòi hỏi phải thay đổi các hoạt động đào tạo, nhất là ngành nghề đào tạo, hình thức và phương pháp đào tạo với sự ứng dụng mạnh mẽ của công nghệ thông tin. Theo đó, các phương thức giảng dạy cũ không còn phù hợp với nhu cầu của xã hội. Với sự vận dụng những thành tựu của cách mạng 4.0 thì người học ở bất cứ đâu đều có thể truy cập vào thư viện của nhà trường để tự học, tự nghiên cứu. Như vậy, không thể chỉ tồn tại mô hình thư viện truyền thống mà các trường phải xây dựng được thư viện điện tử. Hoặc chúng ta sẽ có những mô hình giảng dạy mới như đào tạo trực tuyến không cần lớp học, không cần giáo viên đứng lớp, người học sẽ được hướng dẫn học qua mạng.
Những lớp học ảo, thầy giáo ảo, thiết bị ảo có tính mô phỏng, bài giảng được số hóa và chia sẻ qua những nền tảng như Facebo
Phần thưởng cuối cùng không còn là bằng cấp trên giấy tờ nữa, mà là bằng cấp theo nghĩa mở rộng, trao đổi tri thức, sáng tạo, giá trị đóng góp cho xã hội. Bởi một doanh nghiệp tuyển dụng là cần người làm được việc chứ không cần người có văn bằng cao. Từ đó có thể bỏ việc yêu cầu về bằng cấp hay xem đó là điều kiện tiên quyết khi tuyển dụng lao động. Như vậy, các cơ sở giáo dục sẽ phải chuyển đổi mạnh mẽ sang mô hình chỉ đào tạo “những gì thị trường cần”, những nội dung của các môn cơ bản sẽ phải được rút ngắn và thay thế vào đó là những nội dung cần thiết để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp, của nền kinh tế nói chung và đảm bảo để người học thực hiện được phương châm “học tập suốt đời”. Theo mô hình mới này, việc gắn kết giữa cơ sở giáo dục đào tạo với doanh nghiệp là yêu cầu tất yếu để bổ sung cho nhau. Đồng thời, đẩy mạnh việc hình thành các cơ sở đào tạo trong doanh nghiệp để phân chia các nguồn lực chung, làm cho các nguồn lực được sử dụng một cách tối ưu hơn. Điều này sẽ tác động đến việc bố trí cán bộ quản lý, phục vụ và đội ngũ giáo viên của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Khi đó, tại các cơ sở giáo dục, tất cả các dữ liệu của người học từ mã số, điểm số, thông tin cá nhân... đều đã được số hóa tại một nơi lưu trữ. Trong nhiều trường hợp, người dạy chỉ cần “vứt” tài liệu lên “mây” (Cloud), tất cả mọi người tranh luận trên “mây” mà vẫn đảm bảo được sự riêng tư, hiệu quả và tính đồng bộ. Trước thực tế này, nếu các trường không thay đổi thì sẽ không có người học. Doanh nghiệp nói riêng và thị trường nói chung có nhu cầu như thế nào, thì người học sẽ càng hướng tới tìm học những nơi đáp ứng được nhu cầu đó. Đây thực sự là một thách thức vì hầu như các trường hiện nay mới chỉ dừng lại ở mức độ giáo viên giảng dạy bằng máy chiếu, video, chia sẻ tài liệu trên mạng. Kinh phí eo hẹp cũng là một trong những điểm chính khiến các ứng dụng khoa học công nghệ chưa phát triển trong trường học.
Ngành giáo dục cần làm:
Đổi mới phương thức đào tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số vào trong hoạt động giảng dạy và học, nâng cao năng lực và chất lượng của đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý.
Đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất, bao gồm: cơ ngơi trường học, trang thiết bị hiện đại, thư viện...
Phải đặc biệt quan tâm đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục (CBQLGD) các cấp, từ cấp bộ đến địa phương (sở, quận, huyện) thật sự có đức, có tài; đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn giỏi và có tư cách đạo đức tốt.
Cải cách chế độ tiền lương, thực hiện tốt chế độ thâm niên (cho GV và CBQLGD và GV đã nghỉ hưu các thời kỳ), thiết thực chăm lo nâng cao đời sống cho họ.
Tăng cường tự học và trau dồi tiếng Anh cho giáo viên và học sinh.
Bên cạnh hoạt động đào tạo, cần tích cực tham gia công tác nghiên cứu khoa học để nâng cao trình độ, kiến thức chuyên môn, gắn nghiên cứu với các hoạt động chuyển giao tại cơ sở, đặc biệt chú trọng các nghiên cứu mô phỏng, nghiên cứu tương tác…
Cần đẩy mạnh công tác dự báo nhu cầu thị trường nhân lực trong tương lai gần và xa hơn
Cần sự kết hợp 3 “nhà”: Nhà trường – Nhà khoa học – Nhà doanh nghiệp trong đào tạo nhân lực phục vụ CMCN 4.0
Các trường đại học ở Việt Nam cần học tập, kinh nghiệm đào tạo của các trường đại học ở nước ngoài, trong việc xây dựng các trung tâm đổi mới sáng tạo gắn rất chặt với doanh nghiệp. Nhờ những trung tâm đó, sinh viên được học tập ở môi trường rất thật; các doanh nghiệp liên kết với các trường để tìm nguồn nhân lực tương lai.
Hoạt động của trung tâm đổi mới sáng tạo ở trường phải thiết thực và đi cùng với nhịp thở cuộc sống, thoát ly lý thuyết thuần tuý. Từ đây, cần xây dựng môi trường dạy và học mà phải gắn rất chặt với môi trường kinh doanh, với thực tiễn đặt hàng của xã hội…
Cần rà soát, sắp xếp, quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu của thị trường lao động trong cả nước, từng vùng và địa phương.
Nâng cao chất lượng đào tạo của các trường sư phạm. Thực hiện tốt công tác tuyển sinh đại học, cao đẳng. Xây dựng cơ chế, chính sách phân luồng giáo dục, gắn với đào tạo nghề và phát triển kỹ năng nghề nghiệp cho học sinh phổ thông.
Đổi mới nội dung, phương thức đào tạo nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp; Nâng cao chất lượng đào tạo một số trường đại học, một số nghề tiếp cận trình độ các nước phát triển trong ASEAN và thế giới.