Tính dân tộc trong Việt Bắc hay nhất (14 Mẫu) - Văn 12

Bài viết số 3 lớp 12 đề 1: Phân tích tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc

3 Dàn ý & 14 bài văn hay lớp 12

Văn mẫu lớp 12: Phân tích tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu bao gồm 3 gợi ý cách viết kèm theo 14 bài văn mẫu cực hay. Tính dân tộc trong Việt Bắc là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết giúp các em trong quá trình học và đặc biệt là kì thi THPT Quốc gia 2024 sắp tới.

Tính dân tộc trong Việt Bắc thể hiện rất rõ qua thể thơ lục bát và cách sử dụng ngôn ngữ. Thể thơ lục bát là thể thơ quen thuộc của dân tộc đã được sử dụng thành công. Về ngôn ngữ Tố Hữu đã sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân rất mộc mạc, giản dị nhưng cũng rất sinh động để tái hiện lại một thời cách mạng và kháng chiến đầy gian khổ mà dạt dào nghĩa tình. Vậy sau đây là 14 bài văn mẫu phân tích tính dân tộc trong Việt Bắc mời các bạn cùng theo dõi. Ngoài ra các bạn xem thêm phân tích bài thơ Việt Bắc, cảm nhận 8 câu thơ đầu bài Việt Bắc.

Dàn ý phân tích tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc

A. Mở bài:

- Nói đôi nét về tác giả Tố Hữu và những sáng tác của ông.

- Nêu nhận định trong thơ Tố Hữu đậm chất dân tộc.

B. Thân bài:

Nói qua về phong cách nghệ thuật cũng như đôi nét về thơ ca của Tố Hữu.

1. Giải thích như thế nào được gọi là tính dân tộc

- Tính dân tộc được hiểu là một đặc tính nhưng đồng thời cũng là thước đo giá trị của một tác phẩm văn học. Những tác phẩm văn chương lớn từ trước cho đến nay. Mà những tác phẩm vừa mang tính nhân loại, vừa mang tính dân tộc sâu sắc.

- Trong văn học, tính dân tộc được thể hiện ở cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Về nội dung, một tác phẩm mang tính dân tộc phải thể hiện được những vấn đề nóng bỏng liên quan đến vận mệnh dân tộc, thể hiện được khát vọng, tình cảm và ý chí của một dân tộc. Về hình thức, tác phẩm đó tiếp thu một cách sáng tạo tinh hoa văn hóa của dân tộc. Nếu hiểu như thế thì thơ Tố Hữu mang phong cách nghệ thuật “đậm đà bản sắc dân tộc”.

2. Những biểu hiện của tính dân tộc trong thơ ca Tố Hữu

- Tố Hữu là người sử dụng một cách điêu luyện các thể thơ dân tộc.

+ Thể loại lục bát được tác giả sử dụng thành công và được coi là thể loại sở trường của Tố Hữu. Trong cuộc đời cầm bút của mình, Tố Hữu đã có nhiều bài lục bát xuất sắc như: Việt Bắc, Kính gửi cụ Nguyễn Du, Khi con tu hú, Bài ca quê hương.

+ Tố Hữu còn sử dụng thuần thục ngoài lục bát còn có thể song thất lục bát. Bài thơ dài Ba mươi năm đời ta có Đảng làm người đọc nhớ đến những câu thơ trong Đại Nam quốc sử diễn ca.

+ Tố Hữu còn sử dụng thành công các thể thơ bảy chữ và bốn chữ như: Bác ơi! Theo chân Bác hoặc Lượm, Voi.

- Tố Hữu là người có biệt tài trong việc sử dụng những hình tượng quen thuộc trong thơ ca dân tộc.

+ Nhà thơ sử dụng thành công những hình ảnh đối đáp kiểu dân gian:

Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.

+ Trong thơ Tố Hữu, ta thường gặp những hình ảnh bình dị, ấm áp tình đời:

Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.

hoặc:

Bầm ra ruộng cấy bầm run
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non.
Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần.

+ Nhiều khi, tác giả Tố Hữu như đã tạo ra được nhiều câu thơ đẹp lộng lẫy như những áng thơ cổ điển (Việt Bắc, Kính gửi cụ Nguyễn Du). Nếu nói hơi thở của văn học dân gian đậm nét sẽ khiến thơ Tố Hữu mang vẻ đẹp mềm mại, uyển chuyển thì chất bác học của thơ cổ điển đã góp phần tạo nên sự sang trọng cho những câu thơ:

Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày.

- Âm điệu thơ

+ Có thể dễ dàng nhận thấy thơ Tố Hữu đầy nhạc. Đó vừa là nhạc của thơ, vừa là nhạc của cõi lòng:

Tôi lại về quê mẹ nuôi xưa
Một buổi trưa, nắng dài bãi cát
Gió lộng xôn xao, sóng biển đu đưa
Mát rượi lòng ta ngân nga tiếng hát.

+ Thơ Tố Hữu sáng tạo trong việc ngắt nhịp để tạo nên hiệu quả thẩm mĩ

+ Lại có khi, Tố Hữu tạo nhạc bằng cách gieo vần, sử dụng từ láy:

Nỗi niềm chi rứa Huế ai
Mà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên.

+ Đọc thơ Tố Hữu, ta thường nghe giọng Huế ngọt ngào. Đây là điều mà Hoài Thanh đã nhận ra sớm nhất khi ông khẳng định thơ Tố Hữu là tiếng thơ đầy “tình thương mến”:

Huế ai, quê mẹ của ta ơi!
Nhớ tự ngày xưa, tuổi chín mười
Mây núi hiu hiu, chiều lặng lặng
Mưa nguồn gió biển, nắng xa khơi

C. Kết luận

- Không có một nhà văn, nhà thơ đích thực nào lại từ bỏ đi quá khứ, từ bỏ truyền thông văn hóa của dân tộc vì từ bỏ văn hóa dân tộc cũng có nghĩa là từ bỏ nguồn sữa quý báu nuôi dưỡng hồn thơ mình. Như nhà thơ Hen-rich Hai-nơ đã có lần nói rất hay rằng, nếu nhà thơ xa rời hiện thực thì anh ta sẽ “lơ lửng trên không” tựa như Thần An-tê bị nhấc khỏi thần Mẹ Đất. Và cũng có thể nói về số phận nhà thơ như thế nếu từ bỏ truyền thống văn học quý báu của ông cha.

- Trên con đường sáng tạo nghệ thuật thì người nghệ sĩ luôn luôn được ví von với hình ảnh con ong cần mẫn vậy. Tố Hữu cũng đã tiếp thu những tinh hoa nghệ thuật của dân tộc và việc tiếp thư truyền thống còn gắn liền với sự sáng tạo không mệt mỏi. Chế Lan Viên cho rằng, Tố Hữu đã khéo léo kết hợp được “cái hơi dân tộc” với “màu sắc hiện đại” để tạo nên sự kết tinh mới cho thơ ông. Và có thể nói tính dân tộc đã tạo lên một Tố Hữu thành công.

Sơ đồ tư duy tính dân tộc trong bài Việt Bắc

Tính dân tộc trong Việt Bắc siêu hay - Mẫu 1

Tố Hữu là nhà thơ lớn của dân tộc, đỉnh cao của thơ ca cách mạng Việt Nam. Một trong những yếu tố làm nên sức sống lâu bền trong thơ Tố Hữu chính là tính dân tộc. GS Nguyễn Đăng Mạnh nhận định: “Sức hấp dẫn mạnh nhất của thơ Tố Hữu đối với công chúng đông đảo là tính dân tộc, tính truyền thống đậm đà và nhuẫn nhuyễn.” Ông đã kế tục truyền thống thơ ca dân tộc, đặc biệt là thơ ca dân gian và thơ cổ điển, thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc cả trong nội dung và nghệ thuật thể hiện. Với việc tìm hiểu tính dân tộc trong thơ Tố Hữu chúng ta sẽ thấy được nỗi lòng của con người Việt Nam, thấy được bản sắc, hơi thở, tinh thần của dân tộc Việt Nam.

Bài thơ Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca mà cội nguồn sâu xa của nó là tình cảm quê hương đất nước, là truyền thống ân nghĩa, đạo lý thuỷ chung của dân tộc.

Tính dân tộc thể hiện ở mọi yếu tố từ nội dung đến hình thức của sáng tác văn học. Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu trước hết được xem xét toàn diện từ sự mô tả cuộc sống và đấu tranh độc đáo của dân tộc ta, sự phác họa con người Việt Nam với truyền thống đạo đức, đặc điểm tâm lý và tái hiện phong cảnh đất nước. Bằng ngôn ngữ nghệ thuật, thể thơ và nhạc điệu mang đậm màu sắc dân tộc. Tố Hữu là nhà thơ dân tộc trong cái ý nghĩa đầy đủ và tự hào của khái niệm này. Về nội dung, dễ dàng nhận thấy trước hết là tính dân tộc biểu hiện trong sự phản ánh màu sắc dân tộc của thiên nhiên, của đời sống vật chất và tinh thần của xã hội. Nội dung căn bản của tính dân tộc là ở tinh thần dân tộc, tính cách dân tộc và cái nhìn dân tộc đối với cuộc đời. Về hình thức, tính dân tộc biểu hiện ở chỗ: mỗi nền văn học dân tộc có hệ thống thể loại truyền thống, có các phương tiện miêu tả, biểu hiện riêng, nhất là có ngôn ngữ dân tộc thể hiện bản sắc riêng trong tư duy và tâm hồn của dân tộc mình.

Có thể nói, trong các nhà thơ Việt Nam hiện đại, Tố Hữu là người có nhiều tác phẩm sâu sắc và cảm động về Bác Hồ: Hồ Chí Minh, Sáng Tháng Năm, Cánh chim không mỏi, Theo Chân Bác, Ta đi tới, Việt Bắc…những tác phẩm ấy không phải chỉ là cảm xúc riêng của nhà thơ mà còn là tấm lòng của những người con Việt Nam hướng về vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, mà qua những bài thơ đó, Tố Hữu đã thể hiện tập trung những suy nghĩ, cảm xúc của mình về hình tượng Hồ Chí Minh với tất cả lí tưởng, lẽ sống, niềm vui và những ân tình cách mạng. Có lẽ chưa bao giờ trong văn học Việt Nam hình ảnh vị lãnh tụ, vị cha già kính yêu của dân tộc hiện lên như một chủ đề sáng tác chính trong thơ văn Việt Nam rõ ràng mà sâu sắc đến vậy.

Hình ảnh Bác Hồ trong bài thơ Việt Bắc là kết tinh của những tinh hoa dân tộc. Bác hiện lên thật bình dị, gần gũi và thiết tha. Tố Hữu gọi Bác Hồ là Bác, là Người và đặc biệt gọi là ông Cụ. Tiếng gọi nghe tha thiết, chất chứa bao ân tình mà gần gũi xiết bao. Không những thế Bác còn là niềm tin, là ánh sáng nâng bước và sưởi ấm lòng mỗi người trong những hoàn cảnh đen tối nhất:

Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi

Đây là hình ảnh trở thành điểm quy tụ mọi suy nghĩ và tình cảm. Nó chứng tỏ những tình cảm thiết tha của nhà thơ đối với Bác, đồng thời ở một mức độ nhất định cũng nói lên quan niệm của nhà thơ về vai trò của Người đối với cách mạng của Đảng ta, nhân dân ta.

Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay

Áo chàm là hình ảnh hoán dụ chỉ những người dân Việt Bắc nghĩa tình nhưng cũng rất đỗi anh hùng. Việt Bắc đã ca ngợi một tình cảm rất đẹp của người Việt Nam. Mười lăm năm trước họ là những người hoàn toàn xa lạ với nhau. Cuộc chiến tranh đã đẩy họ về gặp nhau tại chiến khu Việt Bắc này. Mười lăm năm một quãng thời gian không phải là ngắn, biết bao kỉ niệm biết bao những cay đắng ngọt bùi đã trải qua giờ đây đến giây phút chia tay, ai cũng bịn rịn, ai cũng nghẹn ngào. Tố Hữu đã một lần nữa cho chúng ta thấy được tính cách dân tộc của người Việt Nam “trọng nghĩa, trọng tình”. Dân tộc ta rất giàu tình cảm. Tình cảm đã làm cho con người qua cay đắng vẫn ngọt ngào, “Lòng nóng bỏng căm thù vẫn mát tươi tình bạn”. Tố Hữu ca ngợi tình cảm thuỷ chung, đặc điểm này có cội rễ sâu xa trong truyền thống dân tộc, lại được bồi bổ phát huy thêm trong đấu tranh cách mạng. Người dân Việt Nam mang nặng tình nghĩa đối với Đảng đã hồi sinh đất nước, đem lại cuộc đời mới cho riêng mỗi người. Chính vì “ngọt bùi nhớ lúc đắng cay” mà “lòng ta ơn Đảng đời đời”:

Người Việt Nam yêu quý đất nước mình, tự hào về dân tộc mình. Nghĩa tình thuỷ chung là đặc tính của dân tộc ta từ nghìn xưa đến nay. Trong đấu tranh gian khổ, tình cảm ấy lại càng ngời sáng. Những con người hầu hết đã lớn lên cùng cách mạng, luôn gắn bó với quê hương đất nước. Tác giả đã cố gắng bắt lấy những hình ảnh, âm thanh của đời sống rất đời thường nhưng cũng xiết bao gợi cảm ở chốn rừng núi xa xôi:

Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa.

Bài thơ được viết khi trung ương Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội, từ góc độ cuộc kháng chiến thành công mà nhìn lại căn cứ địa Việt Bắc, chiếc nôi của Cách mạng đầu não của cuộc kháng chiến. Bài thơ là cuộc đối thoại giữa mình với ta, ta với mình nhưng tình điệu, hơi thơ có khi cả lời thơ quấn quýt hòa quyện. Mở đầu bài thơ là câu hỏi:

Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?

Mười lăm năm ấy bao nhiêu sự kiện lịch sử trọng đại của đã diễn ra, xuất phát từ cái nôi cách mạng. Việt Bắc hiện lên với những con người thật đẹp biết bao. Tác giả đã dùng hai hình ảnh đối lập để nói về tấm lòng của họ:

Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

“Hắt hiu lau xám” những ngôi nhà còn nghèo, còn nhiều vất vả nhưng tấm lòng của họ thì son sắt thủy chung vạn lần. Đó là hình ảnh của “người mẹ nắng cháy lưng” vẫn đang ngày đêm góp công sức của mình cho cuộc kháng chiến. Đó là hình ảnh của những con người Việt Bắc trong cuộc sống đời thường hài hòa với hình ảnh thiên nhiên:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Đoạn thơ hiện lên “dáng điệu cần mẫn, cẩn trọng và tài hoa” trong “công việc thầm lặng” của người Việt Bắc và dưới ánh sáng của rừng mơ mùa xuân, hình ảnh cô gái Việt Bắc hiện lên thật thanh mảnh, dịu dàng. Cô sơn nữ một mình trong núi rừng không gợi ấn tượng buồn hiu hắt mà lại mang vẻ đẹp khỏe khoắn vì cô hiện lên trong tư thế lao động vất vả, giản dị nhưng cũng rất thơ mộng.

Những người chiến sĩ cách mạng đến với núi rừng Việt Bắc trong giờ phút chia ly cũng đầy tâm trạng:

- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay

Mười lăm năm gắn bó chắc chắn sẽ có nhiều điều muốn nói nhưng giờ phút chia tay này họ chẳng biết nói gì với nhau. “cầm tay” cái cầm tay chứa chan bao tình cảm, như muốn truyền hơi ấm cho nhau. Không nói gì nhưng đã nói vạn lời. Tấm lòng của họ luôn thủy chung, son sắt:

- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu

Rời xa Việt Bắc họ ôm bao nhiêu nỗi nhớ: “từng bản khói cùng sương”, “rừng nứa bờ tre”, “ngày tháng cơ quan”, “lớp học i tờ”…Dẫu cuộc chiến gian khổ nhiều vất vả “Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng” nhưng tâm hồn những người chiến sĩ cách mạng vẫn:

Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.

Lạc quan, yêu đời là bản chất tính cách của con người Việt Nam. Đó chính là nguồn sức mạnh lớn lao giúp con người Việt Nam vượt qua bao khó khăn chông gai của cuộc đời. Ân tình là vậy, thủy chung là vậy, hiền lành là vậy nhưng khi vào trận chiến, đối mặt với kẻ thù họ mạnh mẽ vô cùng:

Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Những nhịp điệu đêm đêm, những điệp thanh rầm rập cùng với hình thức so sánh đã gợi tả thật hay, thật hào hùng âm vang cuộc kháng chiến thần thánh. Khí thế chiến đấu thần kì của quân và dân ta làm rung chuyển đất trời, không một thế lực nào có thể ngăn cản được.Cả một dân tộc ào ào ra trận. Và còn có sự góp sức không nhỏ của hàng chục vạn anh chị dân công:

Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

Họ là những người đã khuân, đã vác, đã thồ hàng trăm cây số từ mấy mươi tỉnh khác nhau ở miền xuôi, miền ngược, miền Bắc, miền Trung đi hàng trăm ngày đường, qua hàng trăm đêm trắng dưới mưa bão của đất trời và bom đạn đem được lương thực đến tận tay các chiến sĩ. Chiến dịch Điện Biên Phủ là cả một kì công về giao thông tiếp vận mà kẻ thù không sao có thể tưởng tượng nổi. Nó hiểu làm sao nổi, ước lường làm sao hết cái giá mồ hôi của một bát gạo, một viên đạn mà nhân dân ta đã cung ứng cho chiến trường Tây Bắc.

Như vậy có thể nhận thấy, bài thơ Việt Bắc đã khắc họa hình ảnh con người Việt Nam, những con người mang những nét đặc trưng tiêu biểu cho dân tộc Việt Nam: thủy chung, ân tình, luôn luôn lạc quan yêu đời vượt qua mọi gian khổ và cũng rất anh hùng, dũng mãnh trong chiến đấu.

Thiên nhiên không chỉ có vẻ đẹp tự tại, không chỉ hé mở cho những tâm hồn riêng lẻ mà gắn liền với quê hương đất nước với đời sống lao động và chiến đấu, với sinh hoạt với những vui buồn của mỗi người Việt Nam. Bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc được xem là một trong những bức họa đẹp nhất của núi rừng con người Việt Bắc:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
.......
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Thiên nhiên và con người hòa quyện vào nhau. Thiên nhiên làm nền cho vẻ đẹp của con người xuất hiện. Thiên nhiên có con người thiên nhiên càng thêm hữu tình. Một bông hoa chuối rực đỏ như một ngọn lửa, cháy bùng lên giữa rừng xanh bạt ngàn xua tan đi cái lạnh lẽo giữa mùa đông giá rét. Con người bước đi hiên ngang “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Những đóa hoa mơ dệt núi rừng thành tấm thảm màu trắng tinh khôi. Con người miệt mài với công việc đan nón của mình. Mùa hạ đến, rừng phách như đổ cả hũ mực xuống bức tranh vàng rực rỡ tràn đầy sức sống, sáng bừng cả thiên nhiên và con người. Đẹp nhất có lẽ là hình ảnh ánh trăng. Bởi đó là ánh trăng của hòa bình của yên vui và hạnh phúc. Ánh trăng hòa quyện trong tiếng hát của con người.

Việt Bắc không chỉ là hình ảnh của riêng Tây Bắc. Tố Hữu nhắc đến rất nhiều địa danh, có những cái tên đã đi vào lịch sử, cắm nên những cột mốc lớn nhỏ của cuộc kháng chiến, những tên đã làm nên nội dung, linh hồn của quê hương đất nước:

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa? …
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy…
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà
Niềm vui chiến thắng đến với Việt Bắc từ muôn nơi:
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

Miền đất nào cũng muốn góp phần mình vào cuộc kháng chiến, xây dựng đất nước giàu đẹp hơn, hùng mạnh hơn. Nhưng thiên nhiên Việt Bắc không chỉ đẹp, nó cũng khắc nghiệt: Mình đi, có nhớ những ngày mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Nếu xét về hình thức nghệ thuật thì tính dân tộc trong nghệ thuật của thơ Tố Hữu được thể hiện ở những nét chính sau đây: ngôn ngữ, nhạc điệu, hình ảnh, thể thơ đậm đà tính dân tộc.Lối cấu tứ, kết cấu giàu sắc thái ca dao,thể thơ dân tộc được vận dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo.

Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học. Tính dân tộc trong ngôn ngữ được thể hiện một cách đặc sắc trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Đó là ông đã vận dụng một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo cặp đại từ nhân xưng “mình, ta” của ca dao xưa. Ở bài thơ Việt Bắc các cặp đại từ “mình, ta” được sử dụng một cách hết sức sinh động và linh hoạt mang nhiều sắc thái ngữ nghĩa. Cách xưng hô “mình, ta” trong lời đối đáp vốn là cách xưng hô của những đôi bạn tình trong ca dao tình yêu:

Mình về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười

Ở đây người Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến đã coi nhau như những người bạn tình, người bạn đời từng gắn bó tri kỷ suốt mười lăm năm thiết tha sâu nặng. Vì thế nhà thơ đã để cho họ xưng hô là “mình” với “ta” rất ngọt ngào thắm thiết. Trong bài thơ đã có một sự chuyển hoá giữa hai nhân vật trữ tình Mình – Ta và có sự sáng tạo của nhà thơ trên cơ sở ngôn ngữ truyền thống khi sử dụng hai đại từ này:

Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn?

Nhưng ở những câu hỏi dồn dập tiếp theo, có một câu hỏi đọng lại nhiều băn khoăn, day dứt mà cũng rất nặng nghĩa nặng tình:

Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?

Tố Hữu đã thêm hương sắc cho từ “mình” của ca dao, “mình” và “ta” tuy hai là một. Điều này nói lên sự gắn bó sâu nặng giữa quê hương Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến, giữa nhà thơ với chiến khu cách mạng. Phải chăng đây cũng chính là sự phân thân của chủ thể trữ tình là nhà thơ đang đắm mình trong dòng hoài niệm thiết tha:

- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi , mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu.

Mượn cách xưng hô “mình – ta” của ca dao xưa Tố Hữu đã đem lại cho bài thơ Việt Bắc một vẻ đẹp riêng khiến cho bài thơ vừa dồi dào sắc thái trữ tình đời thường với những lời dặn dò, nhắn nhủ hứa hẹn, thề nguyền rất riêng tư, lại vừa đậm đà sắc thái dân tộc, đồng thời diễn đạt được một tình yêu rộng lớn sâu sắc, mang tính khái quát, mang yếu tố trữ tình sử thi. Đó là tiếng nói của tình yêu nước.

Trong bài thơ Việt Bắc, Tố Hữu đã vận dụng một cách nhuần nhị và tài tình cách nói tu từ phong phú, tế nhị mà giàu sức biểu đạt của ca dao dân ca xưa. Ngoài việc vận dụng đại từ nhân xưng trong ca dao ông còn trở về với cội nguồn dân gian của dân tộc bằng cách mượn ý những câu ca dao, tục ngữ hay sáng tạo những câu thơ theo hơi hướng ca dao. Câu thơ: “Mình về mình có nhớ không / Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?” lấy ý từ câu tục ngữ quen thuộc: “Uống nước nhớ nguồn”. Thơ ca dân gian hay viết về nỗi nhớ nhung, Việt Bắc của Tố Hữu cũng vậy:

Nhớ gì như nhớ người yêu
Nhớ từng bản khói cùng sương…
Nhớ từng rừng nứa bờ tre…
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng…

Nhớ những cảnh quân đi điệp điệp trùng trùng, nhớ một buổi họp Trung ương, lớp học i tờ, một vầng trăng thu…Đó là tất cả những kỉ niệm đáng nhớ trong kháng chiến nên nó có gì đó gần gũi với nỗi nhớ da diết đến cháy lòng.

Nhớ nhung là một trạng thái tình cảm thường xảy ra mà ai cũng có thể bắt gặp. Trong bài thơ Việt Bắc, nỗi nhớ đa dạng, bát ngát, mênh mông. Nó cụ thể mà bao quát, gần gũi mà thiêng liêng, tha thiết mà không bi lụy. Những câu thơ nhắc đến những địa danh của đất nước cũng gợi ta nhớ đến những câu thơ trong ca dao.

Ngoài ra, ta có thể nhận thấy ngôn ngữ trong thơ Tố Hữu là ngôn ngữ giản dị đời thường gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân ta. Không có những điển tích, điển cố những sáo ngữ, tất cả cứ như từ cuộc sống ào ạt vào trang thơ mà “thơ” đến lạ kì:

Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan

Những củ sắn lùi, bắp ngô, bát cơm, chăn sui…những điều bình thường giản dị thậm chí “xoàng xĩnh” của cuộc sống tưởng rằng không bao giờ được đem vào thơ nhưng vẫn được Tố Hữu lựa chọn. Như vậy, có thể nhận thấy, ngôn ngữ trong bài thơ Việt Bắc nói riêng và trong thơ Tố Hữu nói chung là ngôn ngữ của dân tộc được bắt nguồn từ cội nguồn văn học dân gian Việt Nam và từ cuộc sống đời thường. Thế nên, nó dễ làm rung động trái tim con người bởi đó là ngôn ngữ của dân tộc, tiếng Việt của người Việt Nam.

Việt Bắc được viết theo thể thơ lục bát với lối kết cấu như lời đối đáp của một đôi trai gái lúc xa nhau. Lục bát là thể thơ dân tộc, nó ăn sâu bắt rễ trong nhân dân mang cốt cách thuần túy Việt Nam. Đơn vị cơ bản của nó là một khổ thơ gồm hai câu, một câu lục và một câu bát chiếm hai dòng thơ với số tiếng chữ cố định mười bốn chữ có thể có từ hai đến hàng nghìn câu thơ. Tố Hữu đã vận dụng điêu luyện sáng tạo thể thơ lục bát, mang âm điệu dịu dàng duyên dáng của ca dao dân ca. Tiếng hát tiếng ngâm lời ru đã cất cánh cho thơ Tố Hữu bay đến mọi miền của đất nước. Tố Hữu là nhà thơ cách mạng phát triển thơ trữ tình điệu nói trong lĩnh vực thơ chính trị công dân đưa tiếng nói thơ ca cách mạng vào trong thơ, nâng tiếng nói tâm tình đời tư thành tiếng nói tâm tình chính luận. Trong bài thơ tác giả sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất: mình, ta để bộc lộ thái độ, tư tưởng, tình cảm. Thể thơ lục bát với những ưu thế của nó đã giúp tác giả chuyển tải được những tình cảm thiết tha của cả người đi và kẻ ở trong buổi tiễn biệt. Những câu thơ như những lời hát ru vọng lên từ thủa ấu thơ làm người đọc mãi không quên:

- Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn? …

Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc còn thể hiện ở nhạc điệu, cách gieo vần. Giáo sư Đặng Thai Mai nhận xét: “Tố Hữu là nhà thơ đã vận dụng âm điệu và âm hưởng của tiếng Việt một cách hết sức tài tình.”Âm điệu thơ của Tố Hữu có đặc trưng riêng đó là sự ngọt ngào, tha thiết. Nó mượt mà, uyển chuyển, đằm thắm như lời ru của mẹ bằng lối đối đáp ân tình. Chất nhạc ngoài tài nghệ phối thanh còn ở cách gieo vần. Một nhà thơ giàu từ ngữ và âm tường sâu sắc luật thơ. Có thể nói rằng nhạc điệu là yếu tố đi liền với ngôn ngữ và hình ảnh thơ. Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng nói: “Tố Hữu có một hơi thở dân tộc trong âm điệu”. Có được điều ấy bởi lẽ Tố Hữu là nhà thơ có biệt tài trong việc phối hợp các âm thanh, từ ngữ, tiết tấu, vần điệu của ngôn ngữ tiếng Việt để tạo nên một ngôn ngữ thơ rất giàu nhạc điệu, có thể chứa đựng cảm xúc dân tộc, thể hiện được tâm hồn dân tộc qua từng giai đoạn cách mạng. Nhưng nhạc điệu trong thơ Tố Hữu là nhạc điệu sống mãi với lòng người, làm rung động cả trái tim và khối óc người nghe. “Điệu dân tộc Tố Hữu đã biết đặt quả tim dân tộc sau âm thanh là có cả một tâm hồn” – Xuân Diệu. Chính vì vậy mà nhạc điệu trong thơ Tố Hữu mãi ngân nga trong lòng tâm hồn tác giả. Bởi “Thơ là đi giữa nhạc và ý, rơi vào cái vực ý thì thơ sâu nhưng lại dễ khô khan. Nếu rơi vào vực nhạc thì thơ dễ làm đắm say lòng người nhưng không khéo lại nông cạn” Việt Bắc là điệp khúc của nỗi nhớ:

- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
....
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?

Chính nhạc điệu đã làm cho các kỷ niệm trở nên ngân nga, trầm bổng réo rắt, thấm sâu vào tâm tư. Những yếu tố làm nên chất nhạc kỳ diệu ấy không chỉ ở những câu lục bát rất chuẩn về thanh luật mà còn ở nghệ thuật tiểu đối được sử dụng với tần số cao trong các câu thơ. Nó không chỉ có khả năng biểu đạt rất xúc động nỗi lòng sâu kín bồi hồi của người đi kẻ ở, mà còn tạo ra sự tương xứng về cấu trúc, vẻ đẹp nhịp nhàng của ngôn từ. “Mưa nguồn suối lũ / những mây cùng mù; Miếng cơm / mối thù; Trám / măng; Hắt / son; Nhớ / mình; Tân / đa”. Những hình ảnh thơ đã thực sự cất lên chất thơ nhờ nhạc điệu đầy quyến luyến, trầm bổng, ngân nga qua những câu thơ sóng đôi lối đối xứng tiểu đối, nó mang vẻ đẹp cổ điển uyên bác. Đặc biệt câu hỏi cuối đoạn thơ có thể tách riêng ra bởi sự thâm thúy, hàm súc:

Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào Hồng Thái mái đình cây đa

Đại từ “mình”, “ta” vốn được sử dụng trong đối đáp thơ ca dân gian nay được Tố Hữu sử dụng đầy biến ảo: Khi mình là Ta, khi “ta” là “mình”, cái ngầm ý hai ta là một đã rõ. Nhưng ở đây một câu lục mà tới ba lần lặp lại chữ mình: “Mình đi, mình có” là chỉ người về, “nhớ mình” là chỉ người ở. Câu hỏi đầy ý nhị mà sâu kín: Mình quên “ta” cũng là quên chính “mình” đó. Cũng như ở phần sau, Tố Hữu lại nhấn theo lối bồi thấn trong câu thơ trả lời khẳng định sắt son.

Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu

Nhà thơ đã khai thác rất đắt chữ “mình” trong tiếng Việt. “mình” vừa là bản thân vừa là ta, “mình” cũng là người thân thiết có thể xem như chính mình vậy. Đại từ nhân xưng được sử dụng vừa thống nhất vừa biến hoá khiến Việt Bắc cất lên như tiếng lòng đồng vọng bản hoà âm tâm hồn của kẻ ở người đi. Như vậy, biệt tài của Tố Hữu là ru người trong nhạc, đánh thức con người bằng ý thơ và chế biến ý tưởng cách mạng thành thức ăn của tâm hồn.

Đến với thơ Tố Hữu, ta bắt gặp những hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống dân tộc, gần gũi với cuộc sống lao động và chiến đấu của nhân dân.Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng nhận xét: “Tố Hữu có một bút pháp quần chúng trong hình ảnh”. Bút pháp quần chúng ấy đã góp phần làm nên sắc thái dân tộc đậm đà trong thời Tố Hữu. Đó là hình ảnh trám bùi, măng mai, cảnh trăng lên đầu núi, bếp lửa nhà sàn…hết sức nồng ấm và luôn ăn sâu trong tâm khảm của con người Việt Nam:

Mình về rừng núi nhớ ai
.......
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Có lẽ trước đó trong thơ Việt Nam, những hình ảnh hết sức quen thuộc với cuộc sống hằng ngày, tưởng như chẳng có gì đáng nói, lại đi vào thơ nhiều như vậy. Tất cả đã ùa vào thơ Tố Hữu một cách tự nhiên thoải mái để tạo nên một không khí dân tộc đậm đà. Và điều đáng nói hơn là dưới ngòi bút miêu tả tài tình của nhà thơ, chúng đã trở thành những hình tượng thơ sinh động, giàu xúc cảm đem đến cho người đọc những xúc cảm sâu xa. Thơ Tố Hữu là thơ viết cho đại chúng, và điều làm nên “bút pháp quần chúng” trong thơ ông không chỉ vì những hình ảnh ấy quen thuộc, dễ hiểu, giản dị mà còn vì nó rất giàu sức biểu cảm cho nên dễ lắng sâu và lưu lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc.

Tago từng nói: “Trách nhiệm của nhà thơ là thể hiện rõ bản sắc của dân tộc mình trước thế giới.”. Tố Hữu đã làm được điều đó hơn nữa đã làm một cách rất xuất sắc. Trên những trang thơ của ông mà tiêu biểu là bài thơ Việt Bắc là hình ảnh của thiên nhiên, con người Việt Nam. Những con người nghĩa tình, thủy chung son sắt dù trải bao khó khăn gian khổ vẫn luôn lạc quan, hướng về tương lai. Những con người Việt Nam hồn hậu, hiền lành nhưng rất anh dũng trong chiến đấu. Đó là hình ảnh đất nước Việt Nam tươi đẹp với núi, với sông với những tên đất, tên miền mang hồn thiêng của dân tộc nhưng cũng khắc nghiệt, chứa đầy bao hiểm nguy.

Đọc Việt Bắc, ta có cảm giác như được nghe những lời ru từ thủa nhỏ của bà của mẹ bởi nhịp thơ lục bát uyển chuyển, mềm mại. Bởi ngôn ngữ bắt rễ từ văn học dân . Bởi những hình ảnh thơ gần gũi, thân thương nhưng cũng rất đỗi nên thơ. Tố Hữu thực sự đã mang hồn thiêng núi sông, tâm hồn dân tộc lên những lời thơ Việt Bắc. Bài thơ xứng đáng là một tác phẩm tiêu biểu của nền văn học Việt Nam.

Tính dân tộc trong bài Việt Bắc ngắn gọn - Mẫu 2

Tố Hữu là nhà thơ của lí tưởng sống. Thơ ông là đỉnh cao của thơ trữ tình chính trị. Ông thuyết phục người đọc bằng tình cảm chân thành và nhiệt huyết sôi nổi. Tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật đó phải kể đến tác phẩm "Việt Bắc". Bài thơ đã giúp người đọc cảm nhận được tính dân tộc rõ nét.

Bài thơ được sáng tác vào tháng 10 - 1954 cơ quan trung ương Đảng chính phủ chuyển từ Việt Bắc đến thủ đô Hà Nội. Chính cuộc chia tay lịch sử, đầy xúc động giữa đồng bào Việt Bắc và người kháng chiến về xuôi khiến tác giả Tố Hữu xúc động viết tác phẩm đầy ý nghĩa này.

"Việt Bắc" là một tác phẩm đậm đà tính dân tộc. Tính dân tộc là một phẩm chất của văn chương. Một tác phẩm nghệ thuật chân chính từ trong cốt tủy mang dấu ấn bản sắc không thể trộn lẫn của một dân tộc. Tính dân tộc của bài thơ "Việt Bắc" được thể hiện ở những nét đẹp thuần Việt trên cả hai phương diện nội dung, nghệ thuật.

Đầu tiên, tính dân tộc trong Việt Bắc" được thể hiện ở phương diện nội dung. Bài thơ đề cập đến một vấn đề chung được cả cộng đồng quan tâm. Đó là cuộc chia tay giữa đồng bào Việt Bắc và người kháng chiến về xuôi. Đây không chỉ là cuộc chia li giữa người đi, kẻ ở mà còn là cuộc chia li giữa những con người cách mạng đã trải qua mười lăm năm đồng cam cộng khổ, mười lăm năm thiết tha mặn nồng thắm thiết tình quân dân.

Đặc biệt, tác giả Tố Hữu đã làm nổi bật bức tranh tứ bình Việt Bắc với những hình ảnh quen thuộc của thiên nhiên, đất nước con người Việt Nam. Bức tranh mùa đông với hình ảnh "hoa chuối đỏ tươi". Ngòi bút của thi nhân đã khéo léo điểm vào nền xanh của không gian là những chấm đỏ rực rỡ của hoa chuối rừng. Trên nền bức tranh thiên nhiên đó, xuất hiện bóng dáng của con người trên đỉnh đèo cao như có thể ôm trọn cả giang sơn. Còn tư thế hiên ngang vững chắc đó là tư thế của những người đã làm chủ đất nước. Đến bức tranh mùa xuân, Tố Hữu viết "Ngày xuân mơ nở trắng rừng". Ý thơ khiến độc giả liên tưởng đến cảnh tượng muôn vàn bông hoa mơ trắng muốt đang từ từ hé mở. Dường như lúc này, sức sống mùa xuân đang lan tỏa khắp khu rừng. Mơ nở đó là nét đặc trưng của mùa xuân Việt Bắc. Trong bức tranh xuân, con người hiện lên trong công việc thầm lặng "chuốt từng sợi giang". Công việc đó gợi sự cẩn trọng, tỉ mỉ và tài hoa của người Việt Bắc. Đây cũng chính là vẻ đẹp chung của người Việt Nam muôn đời. Có thể hiểu rằng những bàn tay tài hoa của người lao động chính là đang làm nên những những chiếc nón nghĩa tình để gửi tặng bộ đội dân công trên đường ra tiền tuyến. Ngoài ra, nhà thơ còn miêu tả bức tranh mùa hè với những âm thanh và hình ảnh tiêu biểu. Thiên nhiên mùa hạ ngoài sắc vàng rực còn xuất hiện âm thanh của tiếng ve. Câu thơ "Ve kêu rừng phách đổ vàng" đã tái hiện một phản ứng dây chuyền của tự nhiên. Khi mà tiếng ve kêu sẽ làm rừng phách đổ vàng. Chữ "đổ" đã diễn tả được tốc độ mau lẹ của thời gian. Vào thời khắc đó xuất hiện những người sơn nữ trong công việc thường ngày lặng thầm và vất vả, chịu thương chịu khó. Những cô gái khi xuất hiện giữa không gian núi rừng hoang vu thường gây cảm giác cô đơn trống trải. Nhưng ở đây, họ lại đang hăng say trong công cuộc lao động chứ không hề mà không cô đơn. Bởi vì cô tìm thấy niềm vui trong công việc và và trong hoạt động sản xuất phục vụ kháng chiến. Và khép lại bức tranh thiên nhiên đó là cảnh thu. Không gian rừng núi mở ra mênh mông và vầng trăng trên cao khiến cho không gian sáng lên lấp lánh. Vầng trăng viên mãn tròn đầy gợi cảm giác bình yên trong tâm hồn. Con người hiện lên qua "tiếng hát ân tình thủy chung". Đó là câu hát ngợi ca sự nghĩa tình thủy chung, son sắc của nhà thơ Tố Hữu dành cho người ở lại. Vậy qua đây, độc giả có thể thấy được bức tranh thiên nhiên tứ bình mang đậm bản sắc của cảnh và người Việt Nam.

Tính dân tộc ở bài thơ còn được thể hiện ở cuộc sống chiến đấu gian khổ nhưng ấm áp tình yêu thương của nhân dân ta. Hình ảnh "Thương nhau chia củ sắn lùi", "Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng" vừa gợi ra cuộc sống thiếu thốn, vừa nhấn mạnh sự ấm áp, yêu thương trong chiến tranh. Nhân dân ta thiếu ăn nhưng không đói, thiếu mặc nhưng không rét bởi luôn có tình người chia sẻ. Ngoài ra, Tố Hữu còn gợi ra khí thế chiến đấu dũng cảm, hào hùng của người lính cách mạng. Những từ ngữ như: "Đêm đêm, rầm rập, điệp điệp, trùng trùng" đã gợi khí thế chiến đấu anh dũng của người Việt Bắc. Mặc dù cuộc chiến có nhiều gian khổ nhưng họ vẫn hiên ngang vì một ngày không xa đất nước được thống nhất. Ý thơ "Đèn pha bật sáng như ngày mai lên" như một lời khẳng định cho ý chí chiến đấu hết mình của người lính.

Tính dân tộc trong bài thơ "Việt Bắc" còn được thể hiện ở phương diện nghệ thuật. Đầu tiên, người đọc bắt gặp Tố Hữu sử dụng kết cấu đối đáp quen thuộc trong ca dao giao duyên "mình - ta". Nhưng kết cấu đó lại được Tố Hữu sử dụng rất sáng tạo. Trong ca dao kết cấu đối đáp dùng để diễn tả tình yêu đôi lứa, tình cảm cá nhân. Nhưng trong bài "Việt Bắc", nó được dùng để diễn tả tình đồng chí, đồng bào, tình quân dân cả nước, là tình cảm cộng đồng cao cả, thiêng liêng. Ngoài ra, tác phẩm còn được viết theo thể thơ lục bát truyền thống, cân xứng hài hòa. Nhà thơ Tố Hữu đã sử dụng những chất liệu dân gian quen thuộc để viết bài thơ nhưng vẫn có những cái sáng tạo riêng. Chính điều đó đã làm nên cái hay và sức sống cho tác phẩm.

Dù thời gian đã lùi xa nhưng những vần thơ trong bài "Việt Bắc" vẫn còn vang vọng mãi trong lòng người đọc. Bài thơ đậm đà tính dân tộc ngợi ca một thời kì cách mạng vẻ vang của cả dân tộc. Từ đó, Tố Hữu muốn nhắc nhở người đọc cần biết yêu thương, trân trọng vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Nam.

Tính dân tộc trong Việt Bắc - Mẫu 3

Tố Hữu là một trong những cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, có thể nói cả đời thơ Tố Hữu là sự cống hiến không ngừng nghỉ cho sự nghiệp cách mạng dân tộc. Bởi vậy mà phần lớn những tác phẩm của nhà thơ thường hướng đến những tư tưởng, lẽ sống lớn, hay những sự kiện lớn lao của đất nước, đặc biệt hơn cả là những tác phẩm ấy được Tố Hữu thôi hồn dân tộc vào trở nên sâu sắc, cân đối và bất tử với thời gian. Việt Bắc là một sáng tác như vậy.

Đánh giá về tính dân tộc đậm đà trong Việt Bắc, có ý kiến cho rằng tính dân tộc là một trong những phẩm chất vốn có ở bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Vậy trước tiên tính dân tộc trong văn học là gì? tính dân tộc là một thuộc tính của văn học phản ánh của đời sống mỗi dân tộc, mang lại cho tác phẩm văn học một bản nhạc dân tộc độc đáo, không thể trộn lẫn. Với khái niệm như trên có thể khẳng định, "Việt Bắc" có đầy đủ các tiêu chí để trở thành một thi phẩm đậm đà tính dân tộc, trên tất cả các mặt từ nội dung, đến nghệ thuật.

Trước nhất về đề tài Việt Bắc đề cập tới một sự kiện chính trị lớn lao của dân tộc, đó là vào thời điểm chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được ký kết, hòa bình lập lại, miền Bắc nước ta được giải phóng và bắt tay vào sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới. Tháng 10 năm 1945 những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi, trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô nhân sự kiện có tính lịch sử ấy Tố Hữu đã sáng tác Việt Bắc. Như vậy sự ra đời của Việt Bắc gắn bó với lịch sử dân tộc, mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam, ghi dấu thời kỳ chuyển mình của đất nước mở ra một trang sử huy hoàng cho dân tộc Việt Nam, cho nên có thể thấy tính dân tộc trong Việt Bắc thể hiện ngay ở đề tài.

Thứ hai về nội dung bài thơ Việt Bắc đã tái hiện vẻ đẹp ấn tượng của thiên nhiên núi rừng Việt Bắc qua đó nhằm tôn vinh Vẻ đẹp thơ mộng và hùng vĩ của tổ quốc ta trong Việt Bắc có đoạn Tố Hữu viết.

"Ta về mình có nhớ ta,
Ta về ta nhớ những hoa cùng người,
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi,
Đèo cao nắng ánh dao cài thắt lưng,
Ngày xuân mơ nở trắng rừng,
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang,
Ve kêu rừng phách đổ vàng,
Nhớ cô em gái hái măng một mình,
Rừng thu trăng rọi Hòa Bình,
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung".

Thiên nhiên Việt Bắc thật đẹp đẽ, hài hòa biết bao, cảnh sắc thiên nhiên thay đổi, biến đổi theo từng mùa, phong cảnh mỗi mùa đều mỹ lệ mà thanh nhã có nét đặc biệt riêng không thể trộn lẫn. Mùa xuân khoác lên mình tà áo choàng màu trắng tinh khiết, trắng của hoa mơ. Sắc trắng của hoa mơ đem đến cho không gian mùa xuân một vẻ đẹp thanh tao, thuần khiết mà vẫn giữ được cái trong trẻo, thoáng đãng, phóng khoáng rất đặc trưng của thiên nhiên vùng sơn cước và khi mùa xuân qua, hạ tới Việt Bắc lại khoác lên mình một phong thái mới, một khí chất riêng. Vẫn là tiếng ve kêu quen thuộc báo hiệu hè về, nhưng không chỉ có vậy về Việt Bắc còn gây ấn tượng bởi màu vàng của rừng phách, hãy tưởng tượng chỉ 1 phút chốc cả không gian như bùng nở bởi sắc vàng uy quyền của hoa phách, ta mới thấy hết được cái bạt ngàn hùng vĩ và khác biệt của nơi đây, và đây là vẻ đẹp của mùa thu Việt Bắc. Thu đẹp mê hồn, huyền bí trong những đêm trăng mờ ảo, nhưng trong Việt Bắc là đặc sản của nơi đây, đó là ánh trăng của hòa bình, tĩnh lặng, bình yên là thứ ánh sáng dịu nhẹ mang theo hơi thở của nhịp sống thanh bình của hi vọng, niềm tin. Nếu như xuân nồng nàn, thuần khiết, hạ bạt ngàn kiêu sa, thì vẻ đẹp của mùa thu mang thiên hướng thanh nhẹ, tinh tế như lấy đi mọi thứ vội vã, ồn ào của cuộc sống thường nhật. Chuyển sang cảnh sắc những ngày mùa đông, cả rừng Việt Bắc bạt ngàn trong sắc xanh, điểm xuyết trên nền cây lá là màu đỏ rực rỡ của những bông hoa chuối rừng, điểm nổi bật là mùa đông ở Việt Bắc không lạnh lẽo giá băng mà thật ấm áp, long lanh và căng tràn sức sống. Đó là điểm rất riêng, có lẽ chỉ ở Việt Bắc thiên nhiên đẹp như vậy. Thế nên mới khiến con người nhung nhớ, chẳng lỡ rời xa. Ngòi bút của Tố Hữu như tập trung tối đa những từ ngữ đẹp nhất, kết tinh cho vẻ đẹp độc đáo, đa dạng, hút mắt của thiên nhiên Việt Bắc. Tái hiện khơi gợi và làm sống dậy vẻ đẹp tự nhiên của đất nước qua từng lời thơ, con chữ, một lần nữa tính dân tộc đậm đà được thể hiện rõ trong Việt Bắc.

Tính dân tộc của thi phẩm đặc sắc này còn được thể hiện qua sự ngợi ca tự hào của tác giả, về cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Tố Hữu đã gợi nhắc lại lịch sử hào hùng một cách vừa hiện thực, vừa lãng mạn, sự kết hợp này vừa khéo hài hòa lại cân đối, ngôn từ thơ như thổi bùng ngọn lửa tự hào của độc giả về Tổ quốc Việt Nam.

"Những đường Việt Bắc của ta,
Đêm đêm rầm rập như là đất rung,
Quân đi điệp điệp trùng trùng,
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan,
Dân công đỏ đuốc từng đoàn,
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay,
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày".

Trong không gian của núi rừng hùng vĩ, chất chứa đầy những hiểm nguy, rình rập. Quân ta ngày đêm chuẩn bị cho cuộc chiến, những cuộc hành quân trong đêm dài khí thế của quân và dân ta, được tái hiện thật hoành tráng, oai hùng với lực lượng đông đảo, khí phách hiên ngang, tinh thần quả cảm và dũng khí ngất trời. Những bước chân tiến quân bỗng chốc trở nên phi thường, có sức mạnh vô song, có khả năng nghiền nát cả đất đá, rung chuyển cả đất trời. Đây không chỉ là một cuộc hành quân ở Việt Bắc, mà còn thực sự mang theo không khí, linh hồn, khí chất của cả dân tộc Việt Nam. Một dân tộc đứng lên như vũ bão, thác đổ mà không một kẻ thù nào đánh bại được, như thông qua cuộc hành quân mang vẻ đẹp huyền thoại trong Việt Bắc, Tố Hữu đã ngầm ca ngợi, tôn vinh cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc Việt. Từ đó khơi gợi lòng yêu nước, yêu tổ quốc, hay gợi niềm tự hào về đất nước của mỗi người. Làm được điều này, một lần nữa khẳng định tính dân tộc là một phẩm chất vốn có ở Việt Bắc.

Bên cạnh vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng Tố Hữu không quên ngợi ca vẻ đẹp truyền thống của con người Việt Nam Đó là những con người chăm chỉ cần cù Chịu thương chịu khó trong lao động họ đã góp một phần sức của mình vào công cuộc kháng chiến anh hùng của tổ quốc hình ảnh người mẹ bất chấp mệt nhọc địu con lên rẫy làm nương để bắp hiện lên thật cảm động chân thực qua ngòi bút của Tố Hữu.

"Nhớ người mẹ nắng cháy lưng,
Địu con lên rẫy bé từng bắp ngô".

Con người nơi đây rất chân thành, giản dị và chất phát, cuộc sống tần tảo nhưng dường như chưa bao giờ họ hết yêu lao động, miệt mài, cần mẫn và kiên trì hơn ai hết. "Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang", "Nhớ cô em gái hái măng một mình", thêm nữa xuyên suốt tác phẩm Tố Hữu còn làm nổi bật sự thủy chung, nghĩa tình của con người Việt Bắc. Cũng là vẻ đẹp truyền thống của con người Việt Nam ta, đó là những khi nhân dân đồng cam cộng khổ, chia sẻ khó khăn, hoạn nạn với cách mạng.

"Thương nhau chia củ sắn lùi,
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng".

Là những ngày tháng dài tình bên, nghĩa trọn, trước sau như một.

"Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung".

Thêm nữa người dân Việt Bắc còn là những tâm hồn rất lạc quan, yêu đời, "gian nan đời vẫn ca vang núi đèo". Vậy đó con người nơi đây là vậy, gian khổ thì đã sao, với họ mỗi một ngày gắn bó với cách mạng là một ngày vui, thế nên dẫu cuộc sống còn nhiều vất vả, lam lũ họ vẫn vô tư ca vang, tin tưởng vào một tương lai tươi sáng. Không khó để thấy tất cả các phẩm chất, từ chăm chỉ, chịu khó, yêu lao động, đến thủy chung son sắc, lạc quan yêu đời của con người Việt Bắc đều hoàn toàn trùng khớp với những đức tính tốt đẹp của con người Việt Nam xưa nay. Điều đó có nghĩa là Việt Bắc đã rất thành công trong việc tái hiện lại và tôn vinh cái hồn của dân tộc, thông qua hình ảnh con người nơi đây, cũng chính điều đó làm cho khoảng cách giữa độc giả và tác phẩm trở nên gần gũi hơn, sự đồng điệu bắt đầu từ đây, tính dân tộc đậm đà cũng từ đây mà được bộc lộ rõ nét.

Về hình thức Việt Bắc sử dụng thể thơ lục bát, thể thơ truyền thống của dân tộc, hơn nữa lục bát của Việt Bắc gần giống với lục bát của ca dao kết hợp với lối nói tiểu đối tạo cho bài thơ thêm âm hưởng thiết tha, da diết như len sâu vào lòng người. Tố Hữu cũng khéo léo khi vận dụng cách nói đối đáp, giao duyên rất phổ biến trong ca dao dân tộc Việt Nam, để bộc lộ những tư tưởng, tình cảm tâm sự. Bên cạnh đó tác giả đã cực kỳ tinh tế, khéo léo khi vận dụng và kết hợp sử dụng các đại từ nhân xưng "mình, ta", mình ta lúc là hai, lúc là một, soi chiếu tình cảm lẫn nhau, quyện hòa vào nhau khiến cho nhịp thơ đong đầy tình, nghĩa, ngôn ngữ thơ cũng rất mộc mạc, đơn sơ, không cầu kỳ, độc đáo, cũng không tráng lệ phi phàm, làm mọi thứ dường như chỉ dừng lại ở mức lời ăn, tiếng nói hằng ngày. Cách nói ví von, những câu thành ngữ, ca dao được sử dụng vừa hài hòa, vừa triệt để đã tạo cho Việt Bắc một bản sắc dân tộc Việt sâu sắc, thể hiện cả trên bề mặt chữ lẫn chiều sâu. Cuối cùng là cách tác giả phát huy cao độ tính nhạc của tiếng Việt, các câu thơ đọc rất phù hợp với mặt trái của thể thơ, của cảm xúc, nhịp thơ tự do, tha thiết, không gò bó và rất dễ thuộc, dễ nhớ. Đóng góp vào thành công ấy không thể không kể đến vai trò của hệ thống từ láy linh hoạt, phong phú, độc đáo suốt dọc chiều dài của tác phẩm. Chính nhờ có điều này mà thơ Việt Bắc không thể khô khan, kích thích người đọc tiếp nhận tác phẩm. Như vậy, toàn bộ hình thức của Việt Bắc là minh chứng không thể rõ ràng hơn về tính dân tộc của tác phẩm.

Vậy nhận định ban đầu là một ý kiến hoàn toàn đúng đắn, có cơ sở đầy khẳng định được giá trị nổi bật của Việt Bắc là tính dân tộc, cũng chính tính dân tộc này đã tạo cho Tố Hữu một phong cách sáng tác riêng mang phong cách, dấu ấn của riêng ông, không thể trộn lẫn giữa các dòng chảy của văn học hiện đại. Đồng thời còn là sự ghi nhận tài năng tài chính của Tố Hữu khi sử dụng ngôn từ để tái hiện hồn cốt dân tộc. Một điều mà ít, rất ít nhà thơ làm được hoàn hảo, bởi vậy là hoàn toàn xứng đáng khi nói tính dân tộc đã làm Việt Bắc rất cao và chói sáng trên thi đàn Việt Nam.

Nhìn chung tính dân tộc không phải là yếu tố độc nhất của một thi phẩm hay, nhưng có lẽ chỉ có nó mới có thể tạo được sức sống lâu bền cho tác phẩm. Nếu như tất cả các tác phẩm đều có thể dung hòa tính dân tộc sâu sắc, với cái mới, cái hay, cái độc đáo, sáng tạo của cá nhân tác giả, thì chắc chắn sẽ ngày càng có nhiều hơn nữa những bài thơ hay, làm đẹp cho đời sống hôm nay và mai sau.

Tính dân tộc trong Việt Bắc - Mẫu 4

Tố Hữu là nhà thơ lớn của thi ca Việt Nam hiện đại. Các chặng đường thơ của Tố Hữu gần như song hành với các giai đoạn đấu tranh cách mạng của đất nước khiến thơ ông mang tính biên niên sử với nội dung trữ tình chính trị đậm nét. Sức hấp dẫn của thơ ông chính là niềm say mê lí tưởng cách mang và tính dân tộc đậm đà. (Tính dân tộc trong Việt Bắc)

Bài thơ việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là thành tựu xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống pháp. Bài thơ ra đời tháng 10 năm 1954, nhân sự kiện có tính chất lịch sử: Trung ương Đảng, chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Thủ đô Hà Nội. Bài thơ là khúc hát ân tình, thủy chung giữa nhân dân, đất nước với cách mạng, Đảng và Bác Hồ. Nội dung đó được thể hiện bằng hình thức cũng đậm và tính dân tộc.

Tính dân tộc là phẩm chất tư tưởng - thẩm mĩ độc đáo của sáng tác, thể hiện sự gắn bó giữa tác phẩm văn hóa của dân tộc, Tính dân tộc. Tính dân tộc trong văn học được thể hiện ở hai mặt nội dung và hình thức nghệ thật. Hai giá trị này hòa quyện vào nhau tạo nên một khúc ca vừa mạnh mẽ vừa thơ mộng, trữ tình thiết tha. Đề cập đến những vấn đề tư tưởng, tình cảm và phẩm chất của dân tộc. Tình cảm của cá nhân trong mối liên hệ với tình cảm dân tộc. Cách thể hiện vấn đề đó trên cơ sở vì quyền lợi dân tộc. Hình thức: Thể thơ lục bát mềm mại, uyển chuyển. Sử dụng ngôn ngữ dân tộc, kế thừa và phát huy có tính sáng tạo truyền thống văn học dân tộc.

Đoạn thơ là một bộ tranh tứ bình dệt bằng ánh sáng của hoài niệm về thiên nhiên và con người Việt Bắc thời kháng chiến. Thiên Nhiên bốn mùa rực rỡ, tươi sáng đủ sắc màu. Mỗi một mùa một cảnh sắc khác nhau. Con người chủ yếu được gợi tả qua các dáng điệu lao động cần mẫn, chịu thương chịu khó. Ở họ có vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, đằm thắm dầu tình nghĩa, thủy chung. Qua đó tác giả thể hiện tình yêu thiên nhiên tươi đẹp, tình yêu cuộc sống và con người Việt Bắc. Đó chính là biểu hiện của tình cảm yêu nước và yêu cách mạng.

Thể thơ lục bát là thể thơ truyền thống của dân tộc. Thể thơ này được tác giả sử dụng sáng tạo trong việc ngắt nhịp, gieo vần và liên kết giữa các dòng thơ. Tố Hữu đã vận dụng rất thành công nhịp điệu lục bát trong thể hiện tình cảm khăng khít của mình.

Đoạn thơ được tổ chức theo kết cấu đối đáp quen thuộc của ca dao dân ca. Đó là lời đáp của người ra đi (cán bộ kháng chiến) với người ở lại (đồng bào Việt Bắc). Tác giả đã sử dụng cặp đại từ nhân xưng " ta - mình" vừa truyền thống, vừa rất hiện đại. Nét truyền thống gợi không khí ca dao qua tiếng hát giao duyên. Điều đó làm cho tình cảm cách mạng gần gũi, thân thiết và chân thành. Nét hiện đại và sự uyển chuyển, đã nghĩa, sự biến hóa linh hoạt sáng tạo.

Ngôn ngữ thuần Việt, bình dị, trong sáng mà giàu sức gợi cảm, nhuần nhị và tinh tế. Điệp từ "nhớ" lặp lại nhiều lần trong đoạn thơ như một sự lối dài của dòng hoài niệm không dứt. Các phép tu từ hoán dụ, ẩn dụ, đảo ngữ,... được sử dụng linh hoạt.

Nhạc điệu trong bài thơ đậm chất trữ tình, mang tính dân tộc. Lối gieo vần nhịp nhàng, biến tấu linh hoạt là thế mạnh của thể lục bát. Tố Hữu đã khai thác triệt để giá trị ấy. Lời thơ ngọt ngào như lời ca tiếng hát, thật dễ đi vào lòng người. Âm điệu thân thuộc khiến cho tâm hồn người đi kẻ ở cùng nảy sinh một niềm tâm cảm chung.

Việt Bắc là một bài thơ hay. Ở đó tác giả đã thể hiện sự tài hoa của mình trên nhiều phương diện của nghệ thuật sáng tạo.

Thành công trong đoạn thơ trên đã thể hiện được tính dân tộc đậm đà mà vẫn màu sắc hiện đại. Đó là sự hài hòa trong một điệu tâm hồn lớn - tâm hồn cách mạng. Qua đó, nhà thơ đã khẳng định tình cảm son sắt của người dân Việt Bắc với cách mạng. Đó cũng là tình cảm thủy chung của người kháng chiến với mảnh đất và con người Việt Bắc, với những năm tháng kháng chiến hào hùng, oanh liệt và sâu nặng nghĩa tình.

Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu - Mẫu 5

Gớt từng nói “Một nghệ sĩ có thể coi là nhà văn mẫu mực của dân tộc nếu tác phẩm của anh ta thấm nhân tính dân tộc”. Khi tính dân tộc thấm thuần vào từng yếu tố của tác phẩm thì bạn sẽ thấy màu xanh của lá, mùi của đất, tiếng chim hót trên cành, hương của hoa… Đọc “Việt Bắc” của Tố Hữu, bạn sẽ thấy lịch sử nước mình trong đó, tình yêu của mình trong đó, núi rừng của Việt Nam trong đó và ca dao dân ca trong đó nhưng lại được thể hiện bằng giọng điệu rất riêng. Tác phẩm xét cả về nội dung và hình thức nghệ thuật đều rất đậm đà tính dân tộc.

Tính dân tộc là phản ánh những đặc sắc trong bản sắc dân tộc thể hiện qua cả nội dung và hình thức nghệ thuật biểu hiện trong một tác phẩm văn học. Tính dân tộc cũng là đặc trưng trong phong cách nghệ thuật của thơ Tố Hữu. Nhà thơ luôn thể hiện đậm đà tính bản sắc dân tộc trong từng tác phẩm mà “Việt Bắc” là tiêu biểu.

Trong nội dung Tố Hữu đã thể hiện những đặc điểm mang tính bản sắc riêng của văn hóa đất nước Việt Nam.

“Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy”

Tác giả còn thể hiện cả những truyền thống nghĩa tình thủy chung son sắt. Đó là tình quân dân cả – nước mặn nồng và truyền thống “uống nước nhớ nguồn”.

Về nghệ thuật, Tố Hữu đã vận dụng một cách sáng tạo thành công hình ảnh người về – kẻ ở quen thuộc trong ca dao, dân ca. Trong ca dao, dân ca, mình – ta, người về – kẻ ở được dùng để nói về tình cảm riêng tư, tình cảm đôi lứa. Nhưng, lối đối đáp trong bài thơ lại được thể hiện bằng tình cảm chung là lòng yêu nước, lòng yêu cách mạng.

“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”

Đọc hai câu thơ này tưởng như viết về tình cảm đôi lứa nhưng khi đọc ở những câu thơ sau đặc biệt là hai câu

“Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

Mới nhận ra đây là cuộc chia tay giữa đồng bào và chiến sĩ. Như vậy, nội dung là tình cảm chung nhưng hình thức lại là tình yêu lứa đôi. Chuyện tình cảm đất nước, tình cảm cách mạng đi đến người đọc bằng con đường của tình yêu lứa đôi cho nên nó có sức lay động sâu sắc và cũng là sự sáng tạo của tác giả.

Trong đặc sắc nghệ thuật, Tố Hữu còn sử dụng sáng tạo gặp đại từ mình – ta. Cặp đại từ mình ta được sử dụng vừa mộc mạc, bình dị vừa gần gũi, thân thiết như ca dao dân ca:

“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”

Có những câu thơ, cặp đại từ lại được sử dụng một cách sáng tạo để nói lên tình cảm giữa nhân dân và cách mạng. Trong tiếng Việt, “mình” được sử dụng với ngôi thứ nhất, có khi “mình” cũng sử dụng cả ở ngôi thứ hai để chỉ đối tượng khi đối tượng được nói có sự gắn bó với thịt (“mình” thường dùng xưng hô chơ vợ hoặc chồng). Ở bài “Việt Bắc”, cặp mình – ta được sử dụng độc đáo. Từ “mình” chủ yếu được chỉ ở ngôi thứ hai để chỉ đối tượng:

“Mình về mình có nhớ ta”

... cũng có khi từ “mình” vừa nói về bản thân vừa nói về đối tượng

“Mình đi mình lại nhớ mình”

Với biện pháp nghệ thuật này Tố Hữu đã nói lên sự gắn bó giữa “mình” với “ta” trong “mình” có “ta” và trong “ta” có “mình” cũng như sự gắn bó giữa nhân dân với cách mạng, trong cách mạng có nhân dân và trong nhân dân có cách mạng.

Tính dân tộc trong đặc sắc nghệ thuật còn thể hiện ở chỗ tác giả đã sử dụng sáng tạo và thành công thể thơ lục bát của dân tộc. Thành công bởi Tố Hữu đã viết lên những câu thơ lục bát đẹp như ca dao dân ca:

“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đâu núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thường đi về”

Những câu thơ lục bát của Tố Hữu mẫu mực và điêu luyện, đạt đến trình độ bác học. Để thể hiện vẻ đẹp chuẩn mực này Tố Hữu đã sử dụng những câu thơ một cách nhịp nhàng cân xứng bằng nghệ thuật tiểu đối

“Nhìn cây nhớ núi / nhìn sông nhớ nguồn”

“Bâng Khuâng trong dạ / bồn chồn bước đi”

“Mưa nguồn suối lũ / những mây cùng mù”

“Miếng cơm chấm muối / mối thùng nặng vai”

Ngoài nghệ thuật tiểu đối tác giả còn sử dụng bình đối tạo vẻ đẹp cân xứng. Đặc biệt trong đoạn thơ nói về thiên nhiên Việt Bắc đẹp như một bức tranh tứ bình thì cứ một câu sáu chữ tả thiên nhiên lại có câu tám chữ khắc họa hình ảnh con người, nhờ đó âm điệu của những khúc hát du dương, trầm bổng, sâu nắng và ngân nga vang lên trong lòng người đọc.

“Việt Bắc” của Tố Hữu tồn tại vĩnh cửu trong lòng bạn đọc bao đời có lẽ bởi tính dân tộc đậm đà thấm nhuần trong đó. Sẽ không phải nói quá khi ví bài thơ như một tác phẩm văn học mẫu mực của dân tộc.

Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc - Mẫu 6

Tố Hữu là đỉnh cao của thơ trữ tình - chính trị, mang đậm khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn và màu sắc dân tộc. Và có thể nói “Việt Bắc” - khúc hát ân tình của con người kháng chiến với quê hương đất nước, với nhân dân và cách mạng là một trong số những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu. Đọc “Việt Bắc” chúng ta sẽ thấy rõ những biểu hiện của tính dân tộc.

Trước hơn hết, tính dân tộc trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu được thể hiện ở mặt nội dung bởi lẽ bài thơ đã tái hiện một cách chân thực, sâu sắc, đậm đà tính dân tộc ở cảnh sắc, phong cảnh quê hương, đất nước và những nét đẹp truyền thống của con người Việt Nam. Bài thơ “Việt Bắc” đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên đậm đà tính dân tộc, mang bản sắc riêng của thiên nhiên đất nước Việt Nam qua bức tranh tứ bình. Đó là cảnh sắc mùa đông với sắc đỏ của những bông hoa chuối rừng:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Có lẽ chỉ với một câu thơ thôi nhưng tác giả đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên Tây Bắc mùa đông thật sinh động. Trên cái nền xanh bạt ngàn, vô tận của cây rừng, ngời lên sức sống mãnh liệt chính là sắc đỏ điểm xuyết của những bông hoa chuối. Sắc xanh và sắc đỏ quyện hòa vào nhau như làm cho bức tranh càng thêm sinh động, ấm áp.

Đó là bức tranh xuân với những hương, những sắc đậm sắc thái của núi rừng Tây Bắc:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Dường như trong những ngày mùa xuân, cả một rừng mơ bung nở sắc trắng tinh khôi, trẻ trung và mơ mộng. Sắc trắng ấy trong những ngày xuân cũng chính là vẻ đẹp viên mãn, tràn đầy sức sống và đặc trưng cho mảnh đất nơi đây.

Và nếu như sắc trắng làm nên nét đẹp của mùa xuân thì âm thanh của tiếng ve, sắc vàng chính là những nét đẹp riêng mỗi độ hè về:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Thiên nhiên ở đây được vẽ, được cảm nhận bằng cả màu sắc và âm thanh - màu vàng của rừng phách, của nắng hè và âm thanh của tiếng ve. Tất cả những điều đó dường như đang cộng hưởng, quyện hòa vào nhau. Chữ “đổ” được tác giả sử dụng thật độc đáo và giàu giá trị, nó gợi sự căng tràn, ăm ắp của nguồn sống, gợi lên cả bước chuyển của thời gian.

Để rồi, kết thúc bức tranh tứ bình ấy chính là bức tranh mùa thu đẹp đẽ, êm đềm, mơ mộng với ánh trăng vàng - ánh trăng hòa bình đang chiếu rọi khắp núi rừng.

Mùa thu trăng rọi hòa bình.

Không chỉ tái hiện bức tranh thiên nhiên đậm đà bản sắc dân tộc mà “Việt Bắc” còn vẽ nên hình ảnh những con người Việt Nam với những vẻ đẹp truyền thống từ ngàn đời. Đó là những con người vất vả, lam lũ, chịu thương, chịu khó. Chắc hẳn, đọc bài thơ “Việt Bắc” người đọc sẽ không thể nào quên được hình ảnh những “người mẹ nắng cháy lưng, địu con lên rẫy” và cả những con người suốt bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, vẫn luôn miệt mài với công việc, mỗi mùa mỗi việc, khi thì “dao gài thắt lưng”, xuân về họ lại cẩn mẫn, tỉ mỉ “đan nón chuốt từng sợi giang” và khi hè đến họ lại lên núi hái măng. Thêm vào đó, những con người trong bài thơ là những con người thủy chung, tình nghĩa, luôn đồng cam, cộng khổ và san sẻ cùng nhau. Vẻ đẹp ấy của họ thể hiện rõ nét qua “câu hát ân tình”, qua hình ảnh san sẻ cùng nhau trong những năm tháng kháng chiến khó khăn, thiếu thốn:

Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng.

Và cuối cùng, tính dân tộc ở phương diện nội dung được thể hiện ở tình nghĩa của cán bộ và đồng bào Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến - đó cũng chính là mạch cảm xúc xuyên suốt toàn bộ bài thơ.

Cùng với nội dung, tính dân tộc của bài thơ còn được thể hiện rõ nét ở hình thức nghệ thuật. Trước hết, bài thơ được viết theo thể thơ lục bát - một thể thơ truyền thống của dân tộc, điều này đã tạo nên âm hưởng vừa thống nhất vừa biến hóa cho bài thơ, làm cho câu thơ lúc thì dung dị, dân dã, gần với ca dao, lúc lại cân xứng, trau chuốt đến độ nhuần nhị, cổ điển. Đồng thời, bài thơ cũng được viết theo lối kết cấu đối đáp quen thuộc của văn học dân gian với cặp đại từ “mình” - “ta” để ướm hỏi, trả lời, làm cho mạch cảm xúc và sự phát triển của chủ đề bài thơ cũng trên cơ sở ấy. Đặc biệt, tính dân tộc trong hình thức nghệ thuật của bài thơ được thể hiện rõ nét ở ngôn ngữ. Trong bài thơ, tác giả đã rất tài tình khi sử dụng lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân để tái hiện lại cuộc kháng chiến và những con người kháng chiến cũng như vẽ nên khung cảnh về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn. Đồng thời, ngôn ngữ trong bài thơ rất giàu hình ảnh và nhạc điệu - “người mẹ nắng cháy lưng”, “rừng che bộ đội rừng vây quân thù”, “chày đêm nện cối đều đều suối xa”,... Và đặc biệt, tác giả đã sử dụng cặp đại từ nhân xưng “mình” - “ta” biến hóa linh hoạt với những lối biểu cảm, ngữ nghĩa phong phú vốn có của nó.

Tóm lại, bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu mang tính dân tộc đậm đà, điều đó thể hiện rõ nét trên cả nội dung và hình thức nghệ thuật của bài thơ.

Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc - Mẫu 7

Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một thành tựu quan trọng của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ được Tố Hữu sáng tác vào tháng 10 năm 1954 nhân một sự kiện lịch sử: Trung ương Đảng và chính phủ rời chiến khu về thủ đô Hà Nội. Từ điểm xuất phát ấy bài thơ thể hiện tình gắn bó thắm thiết giữa người ra đi và người ở lại, giữa miền xuôi và miền ngược, giữa người cán bộ với Việt Bắc quê hương của cách mạng, với đất nước và nhân dân, với Đảng và Bác Hồ, với cuộc kháng chiến đã thành kỉ niệm sâu nặng trong tâm hồn.

Như thế nghĩa là trong niềm vui thắng lợi và đón nhận cuộc sống thanh bình nhà thơ vẫn không quên tình nghĩa gắn bó trong những năm gian khổ đã qua và coi đây là cội nguồn sức mạnh tinh thần to lớn cho những ngày hiện tại và tương lai. Có thể nói, bài thơ Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca mà cội nguồn sâu xa của nó là tình cảm quê hương đất nước, là truyền thống ân nghĩa, đạo lý thuỷ chung của dân tộc.

Trước hết với kiểu kết cấu đối đáp rất đậm đà tình nghĩa của bài thơ Việt Bắc là tình yêu với thiên nhiên đất nước được biểu hiện cụ thể qua sự gắn bó với núi rừng Việt Bắc trong nỗi nhớ của người cán bộ sắp về xuôi. Cảnh Việt Bắc hiện ra những vẻ đẹp hiện thực và thơ mộng, thi vị gợi rõ nét độc đáo của Việt Bắc so với nhiều miền quê khác của đất nước. Việt Bắc đó là hình ảnh: "Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương", hình ảnh bản làng mờ trong sương sớm, những bếp lửa hồng trong đêm khuya, là những "rừng nứa bờ tre, sông Đáy" là tiếng mõ trâu về trong rừng chiều, tiếng "Chày đêm nện cối đều đều suối xa".

Nhưng có lẽ nổi bật nhất là nỗi nhớ của Tố Hữu về Việt Bắc là sự hòa quyện với người, là ấn tượng không thể phai mờ về những người dân Việt Bắc cần cù trong lao động, thuỷ chung trong nghĩa tình:

Ta về mình có nhớ ta
...
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Qua đó có thể thấy thiên nhiên Việt Bắc hiện ra với những vẻ đẹp phong phú, đa dạng, thay đổi theo thời tiết, từng mùa. Gắn với cảnh tượng ấy là con người giản dị, người đi làm nương rẫy, người đan nón, người hái măng. Bằng những việc làm tưởng chừng nhỏ bé của mình họ đã góp phần tạo ra sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến. Chính tình nghĩa gắn bó và san sẻ cùng nhau chịu đựng gian khổ thiếu thốn, cùng nhau gánh vác nhiệm vụ nặng nề, khó khăn giữa nhân dân với bộ đội và cán bộ tất cả càng làm cho hình ảnh Việt Bắc sáng ngời trong hồi tưởng của nhà thơ. Việt Bắc - đó là hình ảnh những mái nhà "Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son", hình ảnh người mẹ "Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô", là những ngày tháng đồng cam cộng khổ:

Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Có thể nói âm hưởng trữ tình vang vọng suốt bài thơ tạo nên khúc ca ngọt ngào, đằm thắm của tình yêu đồng chí với đồng bào, của tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu đời.

Theo dòng hồi tưởng của Tố Hữu bài thơ dẫn ta vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu với những hình ảnh hào hùng, những hoạt động sôi nổi, những âm thanh náo nức, phấn chấn. Ở đây bài thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng ca mang dáng vẻ sử thi hiện đại bởi vì chỉ cần miêu tả khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc, Tố Hữu đã nêu bật khí thế chiến đấu vô cùng mạnh mẽ của dân tộc.

Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.

​ Dân tộc ấy đã vượt qua bao gian khổ hi sinh để lập nên những kì tích, những chiến công, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên. Nhưng Tố Hữu không thể miêu tả diễn biến của cuộc kháng chiến mà chỉ còn đi sâu vào lý giải những cội nguồn sức mạnh đã dẫn tới chiến thắng. Đó là sức mạnh của lòng căm thù: Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai, sức mạnh tình nghĩa thủy chung: "Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi" nhất là sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân, của sự hòa quyện gắn bó giữa con người với thiên nhiên. Tất cả tạo thành hình ảnh "đất nước đứng lên".

Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

Đặc biệt bằng những lời thơ trang trọng mà tha thiết Tố Hữu đã đi sâu nhấn mạnh, hình ảnh và vai trò của Việt Bắc như là quê hương của cách mạng, căn cứ vững chắc của cuộc kháng chiến. Trong những năm đen tối trước cách mạng, hình ảnh Việt Bắc hiện dần từ mờ xa "mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù" cho đến xác định như chiến khu kiên cường nơi nuôi dưỡng bao sức mạnh đấu tranh, nơi sản sinh nhiều địa danh đã đi vào lịch sử dân tộc.

Mình về có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.

Trong những năm tháng kháng chiến gian lao Việt Bắc là nơi có "cụ Hồ soi sáng", có Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công để kiên định niềm tin yêu của cả nước đối với Việt Bắc, Tố Hữu lại dùng những câu thơ mang sắc thái ca dao dạt dào những âm hưởng nghĩa tình của hồn thơ dân tộc.

Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa.

​ Từ tình cảm yêu mến, gắn bó với cảnh và người Việt Bắc từ niềm tin tưởng vững chắc vào sức mạnh của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, Tố Hữu vẽ ra viễn cảnh tươi đẹp của Việt Bắc ngày mai trong khung cảnh xây dựng cuộc sống mới hòa bình, phồn vinh.

Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng
Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng
Phố phường như nấm như măng giữa trời.

Những hình ảnh ấy là mơ ước, khát vọng và cũng là tình nghĩa mà những người cán bộ kháng chiến muốn đền đáp nơi từng là cội nguồn của cách mạng, nơi đã cưu mang, che chở họ trong những ngày đầy gian nan hi sinh.

Đặc biệt ở những dòng cuối cùng của bài thơ người đọc càng hiểu sâu thêm sự sắc sảo, nhạy bén của bài thơ Tố Hữu khi hướng về ngày mai, nhà thơ không quên, một nét đẹp trong đạo lý truyền thống của dân tộc đó là tình nghĩa thuỷ chung, có mới mà không nới cũ, luôn nghĩ đến nhau và vì nhau giữa miền xuôi và miền ngược, giữa cán bộ và nhân dân của mình.

Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?

Có thể coi đây là lời cảnh báo về sự tha hoá khi có sự thay đổi môi trường, khi người ta có thể quên đi tất cả tình nghĩa năm xưa để chỉ nghĩ đến mình và vì mình. Cho đến hôm nay những lời thơ ấy của Tố Hữu vẫn giữ nguyên ý nghĩa thời sự chứ không hề cũ xưa.

Tính dân tộc là đặc điểm nổi bật ở Việt Bắc. Chính đặc điểm này đã tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ. Tính dân tộc của bài thơ đã giúp nhà thơ chuyển tải được tư tưởng hiện đại, tiên tiến. Đây là một tác phẩm thành công nhất của Tố Hữu, một tác phẩm đã ngợi ca những ngày hào hùng vẻ vang của dân tộc, những ngày mà toàn dân nô nức ra trận, những ngày mà mảnh đất Việt Bắc in dấu bao thời khắc, chiến công hào hùng, tươi đẹp của dân tộc. Tất cả đều được tái hiện trong một hình thức đặc biệt phù hợp mà Tố Hữu đã lựa chọn và sử dụng. Rõ ràng, bài thơ Việt Bắc đã mang tinh thần và tư tưởng của thời đại nhưng người ta có thể ngân ngợi như những bài ca dao.

........

Tải file tài liệu để xem thêm bài văn Phân tích tính dân tộc trong Việt Bắc

Liên kết tải về

pdf Bài viết số 3 lớp 12 đề 1: Phân tích tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc
doc Bài viết số 3 lớp 12 đề 1: Phân tích tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc 1

Chủ đề liên quan

Học tập

Lớp 12

Văn 12

Chia sẻ

Chia sẻ qua Facebook Chia sẻ

Liên hệ hợp tác hoặc quảng cáo: gmail

Điều khoản dịch vụ

Copyright © 2021 HOCTAPSGK