Văn mẫu lớp 12: So sánh ba bản tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam gồm dàn ý chi tiết kèm theo 3 bài văn mẫu hay được chúng tôi tổng hợp từ bài làm hay nhất của học sinh trên cả nước. Qua đó giúp các bạn có thêm nhiều ý tưởng mới, viết văn ngày một hay hơn.
Nước Việt Nam đã phải trải qua rất nhiều rất nhiều lần bị các nước khác xâm lược, vì vậy mà chúng ta đã có ba bản tuyên ngôn độc lập: Sông núi nước nam (Lý Thường Kiệt), Bình Ngô Đại Cáo (Nguyễn Trãi) và Tuyên Ngôn Độc Lập (Hồ Chí Minh). Dưới đây là một số bài văn mẫu lớp 12: So sánh ba bản tuyên ngôn của nước Việt Nam, mời các bạn cùng tham khảo.
So sánh ba bản tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam
Dàn ý so sánh ba bản tuyên ngôn độc lập của Việt Nam
1. Điểm giống nhau:
- Khẳng định chủ quyền, quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam.
- Thể hiện tình yêu quê hương, đất nước, đồng bào.
- Tố cáo tội ác của giặc, vạch trần bộ mặt gian xảo của chúng đồng thời ca ngợi, tôn vinh con người Việt Nam.
2. Điểm khác nhau
a. Hoàn cảnh sáng tác, đối tượng:
Ba bản tuyên ngôn ra đời trong ba hoàn cảnh khác nhau, hướng tới những đối tượng cụ thể khác nhau
- Nam quốc sơn hà: Bắt đầu thời nhà Lý, dưới triều vua Lý Nhân Tông (1072-1127), tháng chạp năm Bính Thìn (1076), sau khi hội quân với Chiêm Thành và Chân Lạp nhà Tống (Trung Quốc) đưa quân sang xâm chiếm nước ta vào đến sông Như Nguyệt (nay là sông Cầu thuộc làng Như Nguyệt, Bắc Ninh). Vua Lý Nhân Tông sai tướng Lý Thường Kiệt đem quân chặn đánh nhưng quân giặc dùng súng bắn đá gây tổn thất cho ta rất nhiều. Lý Thường Kiệt hết sức điều động dân quân chống giữ không cho giặc sang sông, nhưng lại lo quân mình ngã lòng, bèn ngâm lớn bài thơ có bốn câu bằng chữ Hán nói là của thần linh mách bảo để động viên, cổ cũ quan quân dốc lòng đánh giặc: Đêm khuya, các chiến sĩ nghe đọc mấy câu thơ đó ai nấy đều phấn chấn nên ra sức đánh giặc rất hăng làm cho quân Tống phải rút lui. Các nhà nghiên cứu sử đều cho rằng bài thơ trên có giá trị như bản tuyên ngôn độc lập vì đã rao truyền cho giặc biết sự độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của nước nhà mà không ai được xâm lấn. Nó còn nói lên khí phách, tư thế và quyết tâm của cả dân tộc lúc bấy giờ.
- Bản tuyên ngôn độc lập thứ hai là bài Bình Ngô đại cáo do Nguyễn Trãi soạn để bá cáo (công bố) cho thiên hạ biết sau khi Bình Định Vương Lê Lợi tổ chức thành công cuộc kháng chiến mười năm chống giặc ngoại xâm nhà Minh (1418-1427).
- Bản Tuyên ngôn độc lập thứ ba do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và tuyên đọc ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình – thủ đô Hà Nội khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Văn kiện lịch sử này không phải chỉ được đọc trước quốc dân đồng bào mà còn trước thế giới, đặc biệt là trước bọn đế quốc thực dân đang chuẩn bị tái chiếm nước ta. Mặt khác, tại thời điểm này thực dân Pháp tuyên bố: Đông Dương là đất bảo hộ của người Pháp bị Nhật xâm chiếm, nay Nhật đã đầu hàng, vậy Đông Dương đương nhiên phải trở lại với người Pháp. Bản tuyên ngôn đã dứt khoát bác bỏ những luận điểm đó. Vì vậy đối tượng hướng tới của văn bản này, không chỉ là hai mươi triệu đồng bào Việt Nam để khẳng định quyền độc lập dân tộc, nhân dân tiến bộ thế giới để tranh thủ sự ủng hộ mà còn hướng đến bọn đế quốc: Anh, Pháp, Mỹ nhằm ngăn chặn mọi âm mưu xâm lược của chúng.
b. Cách khẳng định chủ quyền:
- Nam quốc sơn hà: chủ quyền được khẳng định trên 2 phương diện: bờ cõi, vua được ghi trong sách trời – lực lượng siêu nhiên thần bí.
- Bình Ngô đại cáo: chủ quyền được khẳng định trên nhiều phương diện hơn: tên nước, nền văn hiến, bờ cõi, phong tục, triều đại, anh hùng, hào kiệt – các phương diện sánh ngang với Trung Quốc.
- Tuyên ngôn độc lập: Đưa ra lập luận để khẳng định chủ quyền trên 2 phương diện: VN có quyền được hưởng tự do độc lập. Sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Từ đó mới tuyên bố độc lập. Đây là cách lập luận khoa học, chặt chẽ, thuyết phục.
c. Lòng yêu nước, thương dân:
- Nam quốc sơn hà: đề cập đến theo quan niệm Nho giáo, trung quân ái quốc. Yêu nước là yêu vua, yêu vua là yêu nước. Chủ quyền của nước chính là chủ quyền của vua.
- Bình Ngô đại cáo: Quan niệm lấy dân làm gốc, yêu nước là yêu nhân dân: dân đen, con đỏ
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Nhân dân là tầng lớp đáng thương nhất trong chiến tranh. Họ là nhân dân Đại Việt.
=> Đây là quan niệm có tiến bộ nhưng chưa rộng mở.
- Tuyên ngôn độc lập: Yêu nước là yêu nhân dân đất nước, là đem lại độc lập cho dân tộc và dân chủ cho nhân dân “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ …”. Tình yêu con người được đề cập đến rộng rãi hơn, con người trên toàn thế giới. Quan niệm tư tưởng tiến bộ của con người trong thời đại mới.
d. Cách mở đầu:
- Nam quốc sơn hà, Lý Thường Kiệt vào đầu bằng một lời tuyên ngôn đanh thép: Nam quốc sơn hà Nam đế cư (sông núi nước Nam vua Nam ở);
- Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã khẳng định một chân lý lịch sử: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân – Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
- Tuyên ngôn độc lập mở đầu bằng cách trích dẫn hai câu nói nổi tiếng trong hai bản tuyên ngôn của thế giới. Câu thứ nhất được trích từ Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776: Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Câu thứ hai được rút ra từ bản Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền Cách mạng Pháp năm 1791: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đây là một dụng ý chiến lược và chiến thuật của Bác. Người muốn dùng lời của ông cha người Pháp và người Mỹ để đập vào lưng của con cháu họ, dùng cây gậy độc lập tự do đánh vào lưng những kẻ thù của độc lập tự do. Nếu câu mở đầu của Nam quốc sơn hà là lời khẳng định chủ quyền dân tộc, mở đầu của Bình Ngô đại cáo là một triết lí nhân nghĩa gắn với an dân thì mở đầu của Tuyên ngôn độc lập là một lời tranh luận ngầm nhằm lột tẩy những mưu mô thủ đoạn của bọn thực dân. Cách trích dẫn ấy vừa tạo được cơ sở vững chắc cho Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam, vừa sảng khoái niềm tự hào dân tộc.
Trong phần mở đầu, ngoài việc trích dẫn lời lẽ của hai bản Tuyên ngôn độc lập trên, Bác còn thể hiện một tư duy đầy biến hóa và sáng tạo qua luận điểm suy rộng ra: Tất cả các dân tộc đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Ở đây, Bác đã nâng từ quyền con người lên thành quyền dân tộc, từ vấn đề nhân quyền, vấn đề quyền cá nhân lên thành quyền của mọi dân tộc bị áp bức trên thế giới. Một nhà văn hóa nước ngoài đã viết: Cống hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của dân tộc. Như vậy, tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh.
e. Cách tố cáo tội ác của giặc:
- Nam quốc sơn hà: lời vạch trần tội ác của quân xâm lược, là lời dự báo cho số phận của bọn cướp nước tội xâm phạm đất nước khác (d/c). Cách nói hàm xúc, cô đọng.
- Bình Ngô đại cáo: Ức Trai tiên sinh đã từng vạch tội giặc Minh mượn gió bẻ măng, lợi dung thời cơ phù Trần diệt Hồ để thôn tính nước ta: Nhân họ Hồ chính sự phiền hà - Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa. Năm xưa, Nguyễn Trãi đã khái quát lại tội ác tày trời và chủ trương cai trị phản nhân đạo của giặc Ngô qua hai câu thơ: Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn- Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
- Tuyên ngôn độc lập: trong tác phẩm của mình, Bác đã dùng lập luận bác bỏ để vạch trần năm tội ác về chính trị, bốn tội ác về kinh tế của thực dân Pháp. Nếu nước mẹ Pháp đưa ra chiêu bài bảo hộ thì Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ: Trong năm năm, chúng bán nước ta cho Nhật… Ở Tuyên ngôn độc lập, với văn phong đĩnh đạc, giàu tính luận chiến, Bác đã viết: Chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu. Với cách lặp kết cấu cú pháp, điệp ngữ “chúng”, kết cấu song hành, tăng tiến, Tuyên ngôn độc lập là bản tuyên cáo chi tiết những hành động tham tàn bạo ngược của giặc Tây trên đất nước Việt Nam. Đặc biệt, ở Tuyên ngôn độc lập, với những dẫn chứng, số liệu cụ thể, bằng ngòi bút giàu sức chiến đấu, Nguyễn Ái Quốc còn vạch rõ thủ đoạn thâm độc của chính sách ngu dân, cai trị dân tộc Việt Nam bằng rượu và thuốc phiện, lập nhà tù nhiều hơn trường học. Nước Pháp ở thời điểm này đang rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế; thay vì đổ xuống biển hàng tấn rượu thì bọn thực dân đã mở rộng khai thác thuộc địa sang các nước Đông Dương và biến các nước này trở thành nơi tiêu thụ hàng hóa ế thừa của chúng. Vì vậy chúng cấm người dân Việt Nam không được nấu rượu bằng các sản vật địa phương như gạo, mía, sắn mà phải dùng rượu Pháp. Trở lại những năm ba mươi của thế kỷ hai mươi, ta mới thấy hết được không khí ngột ngạt, đau khổ của thôn xóm Việt Nam. Khắp nơi , bọn tay sai phong kiến và thực dân Pháp truy tìm, bắt bớ bỏ tù hàng ngàn người dân vì tội nấu “rượu lậu”. Bên cạnh đó, bọn chúng cho phép các tiệm hút được mở công khai ở Hà Nội, Hải Phòng nhằm làm suy nhược sức khỏe và băng hoại ý chí đấu tranh của tầng lớp thanh niên ta. Lên án âm mưu thâm độc này, trong Tuyên ngôn độc lập, Bác viết: Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
g. Tính chất chính nghĩa, thái độ khoan hồng và nhân đạo:
- Nam quốc sơn hà: sách trời đã định, không thể thay đổi.
- Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn – Lấy chí nhân mà thay cường bạo. Tư tưởng nhân nghĩa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong Bình Ngô đại cáo và cuộc đấu tranh chống quân Minh của quân dân Đại Việt. Sau khi giặc đầu hàng, lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn đã có những hành động hết sức cao thượng: Mã Kì, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà hồn bay phách lạc – Vương Thông, Mã Anh phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà tim đập chân run. Sự thảm hại của kẻ thù vừa làm tôn lên khí thế hào hùng của nghĩa quân đồng thời càng làm nổi bật tính chất chính nghĩa, nhân đạo sáng ngời của cuộc kháng chiến chống quân Ngô thuở nào.
- Trong Tuyên ngôn độc lập, Bác đã ngợi ca thái độ khoan hồng và nhân đạo của người dân đất Việt: Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng, tài sản cho họ. Tinh thần nhân nghĩa đó vốn xuất hiện từ lâu trong đạo lý dân tộc: Đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại. Trong truyện cổ dân gian, khi nghe Thạch Sanh đàn, quân giặc rụng rời chân tay và xin hàng. Trước khi chúng về nước, Thạch Sanh không chỉ tha bổng mà còn cấp cho chúng niêu cơm “ăn mãi không hết”...
h. Tuyên bố độc lập:
- Lời kết thúc Bình Ngô đại cáo với sự hòa quyện giữa cảm hứng độc lập và cảm hứng vũ trụ, Ức Trai tiên sinh trịnh trọng tuyên bố nền độc lập tự do: Xã tắc từ nay vững bền – Giang san từ đây đổi mới – Càn khôn bĩ mà lại thái – Nhật nguyệt hối mà lại minh – Muôn thuở nền thái bình vững chắc – Ngàn năm, vết nhục nhã sạch làu.
- Ở Tuyên ngôn độc lập, trước khi công bố quyền được hưởng tự do độc lập một cách xứng đáng của dân tộc ta, Hồ Chí Minh đã tuyên bố thoát lí mọi quan hệ với thực dân, xóa bỏ mọi hiệp ước, mọi quyền lợi của Pháp trên đất nước Việt Nam. Đây là một việc làm vô cùng có ý nghĩa. Để thiết lập một đất nước Việt Nam mới và mở ra một kỉ nguyên độc lập tự do của đất nước, ta phải xóa bỏ mọi ràng buộc, mọi mối quan hệ với thực dân Pháp, phải đập tan mọi luận điệu của Đờ Gôn (tướng Pháp) và bọn thực dân phản động Pháp đang âm mưu tái chiếm Đông Dương: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. Đoạn văn gồm ba ý, xây dựng theo lối tăng cấp: quyền hưởng tự do độc lập của dân tộc, hưởng tự do độc lập là sự thực, quyết tâm giữ vững độc lập tự do bằng mọi giá của con người Việt Nam. Đây là lời tuyên bố hào hùng, là kết quả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu dân (Trần Dân Tiên).
i. Về nghệ thuật.
- Về tổng thể, Tuyên ngôn độc lập có điểm tương đồng giữa các phần như Bình Ngô đại cáo song bố cục ngắn gọn và chặt chẽ hơn. Nếu hai tác phẩm trên sáng tác theo các thể thơ văn cổ Trung đại thì Tuyên ngôn độc lập viết theo phong cách văn chính luận hiện đại với lập luận sắc sảo, bằng chứng rõ ràng, hình ảnh gợi cảm, ngôn từ chính xác, kết hợp sâu sắc giữa văn học và chính trị, kế thừa và phát triển.
- Ngôn từ, hành văn, cách diễn đạt của TNĐL ngắn gọn, dễ hiểu, lập luận khoa học, sắc sảo. NQSH ngắn gọn, xúc tích chưa thật đầy đủ. BNĐC dài hơn.
- Thể loại chữ viết hai bài trên: TNĐL là chữ quốc ngữ thể văn chính luận, BNĐC chữ Hán thể phú, NQSH là chữ Hán thể thơ tứ tuyệt Đường luật.
3. Lí giải: Tại sao giữa TNĐL và BNĐC lại có sự khác nhau và giống nhau về nội dung và tư tưởng.
- Giống: là bởi vì cả hai tác giả đều là những danh nhân lớn của Việt Nam, tiếp thu tinh hoa dân tộc từ bao đời, có lòng yêu nước, yêu nhân dân.
- Khác: là bởi vì hoàn cảnh sống giữa hai tác giả khác nhau, vốn sống, vốn hiểu biết và tài năng nghệ thuật cũng khác nhau, đặc biệt là ngoài tinh hoa của dân tộc, Hồ Chủ Tịch còn tiếp thu cả tinh hoa văn hoá thế giới một cách có chọn lọc.
4. Đánh giá:
Cả 3 đều khẳng định chủ quyền đất nước, là kim nam châm chỉ phương cho nhân dân ta dựng và giữ nước.
So sánh ba bản tuyên ngôn độc lập của Việt Nam - Mẫu 1
Trong tiến trình phát triển của lịch sử, hầu như dân tộc nào cũng có những văn kiện có tính chất tuyên ngôn về độc lập, chủ quyền được công bố rộng rãi trong một hoàn cảnh nhất định.
Tầm vóc, sức hấp dẫn và lôi cuốn của một bản Tuyên ngôn phụ thuộc vào hai điều kiện chính: truyền thống văn hóa, văn hiến kết tinh trong mỗi chiến công, kỳ tích; tài năng của người khởi thảo, tạo lập
Lịch sử dân tộc Việt Nam với truyền thống hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước đã từng được chứng kiến sự ra đời của nhiều bản Tuyên ngôn độc lập.
Trong đó có ba bản Tuyên ngôn tiêu biểu, tương ứng với mỗi giai đoạn khác nhau, qua đó khẳng định mạnh mẽ quyền độc lập, tự chủ của dân tộc. Bao gồm: Nam quốc sơn hà (1076) của Lý Thường Kiệt; Bình Ngô đại cáo (1428) của Nguyễn Trãi; Tuyên ngôn độc lập (1945) của Hồ Chí Minh.
Bản Tuyên ngôn lịch sử bằng thơ này ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt. Năm 1076, 30 vạn quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy tràn sang xâm chiếm nước ta. Lý Thường Kiệt là tổng chỉ huy quân ta đã kiên cường chống lại đội quân xâm lược đến từ phương Bắc.
Ông cho lập phòng tuyến sông Như Nguyệt (còn gọi là sông Cầu) để chặn giặc, Sau đó, cho quân vây đánh chúng ở vùng biển Quảng Ninh. Nhiều trận quyết đấu đã xảy ra, do chênh lệch về lực lượng, quân Tống có thời điểm đã chọc thủng được phòng tuyến sông Như Nguyệt.
Trước tình thế khó khăn, nhằm khích lệ tinh thần của binh sỹ và tỏ rõ chí khí của ta, Lý Thường Kiệt đã đọc bài thơ “thần”:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”.
Dịch thơ:
(“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”).
Nếu như trong hai câu đầu, tác giả khẳng định dứt khoát về chủ quyền dân tộc như là một chân lý thiêng liêng, bất di bất dịch thì hai câu sau là lời quyết chiến, quyết thắng kẻ tàu xâm lược. Trong “Nam quốc sơn hà” Lý Thường Kiệt đã thể hiện rất rõ lòng tự tin, tự hào dân tộc. Điều này được thể hiện qua giọng điệu hào sảng và việc tác giả sử dụng từ “đế” trong nguyên tác.
Từ thời Tần Thủy Hoàng, các hoàng đế Trung Quốc cho mình là chủ thiên hạ, được trời giao cho sứ mệnh trông nom muôn dân. Các nước khác chỉ là chư hầu, người đứng đầu chỉ được xưng Vương.
Lý Thường Kiệt đã không thừa nhận trật tự áp đặt đó, mà khảng khái chỉ ra rằng cũng có một hoàng đế phương Nam sánh ngang hàng với hoàng đế phương Bắc.
Như vậy, với tầm vóc của một bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên, “Nam quốc sơn hà” vừa khẳng định chủ quyền lãnh thổ vừa thể hiện niềm tin tất thắng dựa vào chân lý và chính nghĩa. Đó cũng chính là sự thăng hoa của tâm hồn dân tộc được hun đúc nên từ lịch sử của những cuộc chiến đấu chống xâm lăng.
Còn “Bình Ngô đại cáo” được Nguyễn Trãi viết bằng chữ Hán vào mùa xuân năm 1428. Tác giả đã thay lời Lê Lợi tuyên cáo với muôn dân về việc kết thúc cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, giành lại độc lập cho nước Đại Việt.
Nếu như trong “Nam quốc sơn hà”, Lý Thường Kiệt khẳng định chủ quyền của dân tộc bằng một niềm tin nhuốm màu huyền thoại (Định phận tại sách trời), thì hơn 3 thế kỷ sau Nguyễn Trãi đã chứng tỏ điều đó bằng những luận cứ khoa học và sự thật lịch sử đầy tính thuyết phục:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”.
Nguyễn Trãi đã nhấn mạnh những điều chứng tỏ quyền độc lập, tự chủ của dân tộc: Nước ta đã có một nền văn hiến lâu đời, có bờ cõi riêng, có phong tục riêng, có các triều đại sánh ngang với phương Bắc.
Từ “Bình Ngô đại cáo” có thể thấy được toàn cảnh cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược vô cùng gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng của nhân dân ta. Tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất, không ngại khó ngại khổ ấy được dựa trên nền tảng vững chắc của lập trường chính nghĩa:
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”.
“Bình Ngô đại cáo” cho đến nay vẫn được xem là áng “thiên cổ hùng văn” bởi sự kết hợp, hoà quyện nhuần nhuyễn giữa cảm hứng chính trị và cảm hứng nghệ thuật.
Ngày 19/8/1945 cuộc cách mạng tháng 8 thành công, chính quyền thuộc về tay nhân dân. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” trước đông đảo quốc dân đồng bào khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Tuyên ngôn độc lập vừa là văn kiện chính trị quan trọng của dân tộc vừa là tác phẩm văn chính luận có giá trị lớn. Theo Trần Dân Tiên thì đó là “kết quả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam”. Tuyên ngôn độc lập đã khẳng định quyền độc lập của dân tộc dựa trên công lý về quyền con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đó khéo léo viện dẫn lời của hai bản Tuyên ngôn của hai nước lớn có truyền thống dân chủ, bình đẳng nhưng lúc bấy giờ đang đi ngược lại những nguyên tắc của cha ông mình là “Bản tuyên ngôn độc lập” năm 1776 của Mỹ và “Tuyên ngôn nhân quyền năm 1791 của Pháp” và trong “Tuyên ngôn độc lập” của Mỹ năm 1776 đã ghi rõ:
“Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ có những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Tuyên ngôn của Pháp cũng nhấn mạnh: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”, đó thực sự là “những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Điểm sáng tạo đồng thời là tư tưởng cốt lõi trong Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh là việc khẳng định quyền con người và quyền độc lập dân tộc không thể tách rời nhau.
“Nước mất nhà tan”, có độc lập dân tộc mới có quyền con người. Tư tưởng đó cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Tuyên ngôn độc lập ca ngợi tinh thần đấu tranh của nhân dân Việt Nam suốt chặng đường lịch sử với tinh thần kiên cường, gan góc.
Từ các phong trào nổi dậy của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, các phong trào yêu nước của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đến thời kỳ cách mạng vô sản. Tất cả đều hướng đến một mục tiêu cao nhất: giành độc lập cho dân tộc.
Kết thúc bản Tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đó trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tinh mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Tuyên ngôn độc lập là một tác phẩm chính luận đặc sắc. Sức mạnh và tính thuyết phục của tác phẩm được thể hiện chủ yếu ở cách lập luận chặt chẽ, lời lẽ sắc bén, bằng chứng xác thực, ngôn ngữ hùng hồn đầy cảm xúc, đó cũng là áng văn tâm huyết của chủ tịch Hồ Chí Minh, hội tụ vẻ đẹp tư tưởng và tình cảm của Người.
Đồng thời, tác phẩm cũng kết tinh khát vọng cháy bỏng về độc lập tự do của dân tộc ta.
Sau bao nhiêu năm đã trôi qua đi kể từ khi bản “Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được vang lên trên quảng trường Ba Đình đầy nắng, ngày nay, đất nước đã sang trang, đang từng bước hội nhập sâu rộng với thế giới trong thế và lực mới. Âm hưởng của bản tuyên ngôn lịch sử năm nào lại vọng vang khiến cho lòng người thêm náo nức!
So sánh ba bản tuyên ngôn độc lập của Việt Nam - Mẫu 2
Với triệu triệu người dân Việt Nam, ngày 2/9/1945 là ngày trọng đại trong lịch sử khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trên lễ đài, tuyên bố khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) với cả thế giới. Kể từ thời khắc đó, lịch sử dân tộc ta đã bước sang một trang mới. Những người con Việt Nam lần đầu tiên được ngẩng đầu, tự hào với thế giới vì mình đã trở thành công dân của một nước tự do và độc lập. Nhưng ít ai biết rằng, trong hơn 4.000 năm lịch sử gìn nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã ghi nhận 3 bản Tuyên ngôn Độc lập.
Mặc dù ra đời vào những thời điểm khác nhau nhưng đó đều là những mốc thời gian trọng đại của đất nước, và chính là lời khẳng định giá trị, tinh thần độc lập tự cường của dân tộc, của nhân dân Việt Nam.
Đầu tiên là bài thơ thần "Nam quốc sơn hà"
"Nam quốc sơn hà, Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên tư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư".
Khi được hỏi, hẳn nhiều người sẽ ngay lập tức nói rằng, đây là bài thơ có tên là Nam quốc sơn hà - tác phẩm được cho là của danh tướng Lý Thường Kiệt. Tuy nhiên, cần phải khẳng định rằng, bài thơ này không có tên. Tên "Nam Quốc Sơn Hà" là do đời sau mượn bốn chữ ở câu thơ đầu và cũng là tinh thần của cả bài thơ để đặt tên cho bài thơ mà thôi. Dẫu chỉ vỏn vẹn 4 câu nhưng bài thơ đã thể hiện một cách hoàn hảo chân lý toàn vẹn lãnh thổ, bất di bất dịch của dân tộc Việt Nam trong bối cảnh lịch sử là đánh đuổi giặc ngoại xâm mà cụ thể ở đây là giặc Tống. Nghe thơ, tướng sĩ ta đều phấn chấn, hừng hực khí thế nhưng bên kia sông Cầu, quân nhà Tống hoang mang, rồi đại bại dưới tay ta.
Ý thơ đơn giản nhưng chặt chẽ, ngắn gọn nhưng đĩnh đạc, nghiêm trang - như một lời tuyên ngôn, khẳng định sự tồn tại của nước Nam với tư cách là một nước độc lập, có chủ quyền, lãnh thổ, đồng thời đanh thép cảnh cáo quân giặc sẽ bị bại vong nếu cố tình xâm phạm nước Nam. Đây cũng chính là tinh thần bất diệt của dân tộc Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, đã được thực tế lịch sử minh chứng suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước.
Bình Ngô đại cáo chính là bản bố cáo lớn do Nguyễn Trãi viết vào năm 1428, thay lời Bình Định vương Lê Lợi tuyên bố nghĩa quân Lam Sơn đã tiêu diệt và làm tan rã 15 vạn viện binh của quân Minh, giành lại độc lập cho nước Đại Việt. Bằng lời lẽ đanh thép, ngắn gọn thì Bình Ngô đại cáo như bản hùng ca bất tận về sự chiến đấu ngoan cường của nhân dân Đại Việt trước sự hung tàn của kẻ thù xâm lăng; qua đó khẳng định sự độc lập chủ quyền của dân tộc. Không những thế còn tố cáo âm mưu và tội ác của nhà Minh với cớ khôi phục nhà Trần.
Bình Ngô đại cáo đã khẳng định một lần nữa , chính nghĩa luôn thắng phi nghĩa. Dù đứng trước thế mạnh nào, Đại Việt dù nhỏ bé nhưng vẫn luôn đứng vững hiên ngang, ngoan cường, không chịu khuất phục. Đây là áng thiên cổ hùng văn của Nguyễn Trãi, được xem là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước Việt Nam.
Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trải qua bao nhiêu năm trôi nhưng 50 vạn nhân dân Hà Nội có mặt ở quảng trường Ba Đình lịch sử ngày ấy vẫn mãi không thể quên được hình ảnh Bác Hồ kính yêu trong bộ quần áo kaki giản dị đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, mở ra kỉ nguyên độc lập tự do của dân tộc. Chất giọng trầm ấm, chậm rãi ấy vang lên trong buổi sáng mùa thu rực nắng trước hàng triệu người dân đồng bào quả thực có sức thu hút kỳ lạ.
"Hỡi đồng bào cả nước.
Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu nói này có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: "người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được...".
Sẽ không sai khi nói rằng, bản Tuyên ngôn Độc lập thực sự là bản hùng ca, thể hiện tinh thần kiên cường của người dân Việt Nam không bao giờ chịu khuất phục trước thế mạnh nào. Cuối cùng, Bác Hồ khẳng định: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy". Đó thực sự là một lời kết thể hiện quyết tâm sắt đá của nhân dân Việt Nam, như một lời động viên mạnh mẽ đưa dân tộc vượt qua muôn ngàn khó khăn, thử thách để xây dựng đất nước.
Ba bản tuyên ngôn của Việt Nam mặc dù xuất hiện trong những giai đoạn khác nhau nhưng đều mang trong mình những giá trị lịch sử vô cùng to lớn. Đất nước Việt Nam là của người Việt Nam, không một quốc gia nào có quyền xâm phạm và cướp đi. Chúng ta là những con người trẻ của thế hệ tương lai luôn biết ơn sự hi sinh của ông cha đã ngã xuống để bảo vệ cho dân tộc và sẽ chung tay gìn giữ đến cùng mảnh đất này.
So sánh ba bản tuyên ngôn độc lập của Việt Nam - Mẫu 3
Suốt dòng lịch sử, Việt Nam đã trải qua biết bao cuộc đấu tranh giữ nước để đắp xây và bảo vệ nền độc lập dân tộc. Quá trình đó đã để lại nhiều áng văn bất hủ khẳng định quyền độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam. Theo trình tự thời gian, có thể ghi nhận bài Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi và Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh.
Vào cuối năm 1076, đại quân Tống do Quách Quỳ và Triệu Tiết kéo quân vào xâm lược Đại Việt lần thứ hai. Tháng 12/1077, khi quân Tống tiến đến bờ sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt đem thuyền ra đánh. Để cổ vũ, động viên binh sĩ vững tin vào chiến thắng, Lý Thường Kiệt sáng tác bài thơ nổi tiếng:
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Bài thơ chỉ vẻn vẹn có 28 chữ, nhưng thật ý nghĩa sâu xa, khẳng định ý chí độc lập dân tộc, tình cảm dân tộc mạnh mẽ. Độc lập dân tộc là ý thức về Tổ quốc Việt Nam, ý thức về sông núi, lãnh thổ nước Nam, ý thức về chủ quyền quốc gia dân tộc của nhân dân Việt Nam, mà đại diện là Hoàng đế nước Nam. Đó là chân lý do "sách trời" đã định. Giặc bên ngoài vào xâm lược là trái với "sách trời", tức là trái với đạo lý, nên nhất định sẽ "bị đánh tơi bời", nhất định chuốc lấy bại vong.
Phải nói thêm rằng, trong Hán văn, từ vương cũng có nghĩa là vua. Vào thời Xuân thu, Chiến quốc, từ vương chỉ những vua nước chư hầu của Thiên tử nhà Chu. Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, tự xưng là Tần Thủy Hoàng đế. Các đời sau đều xưng là đế như: Đường đế, Tống đế, Nguyên đế... Trong quan hệ bang giao, các Hoàng đế Trung Hoa chưa một lần công nhận các vua Việt ta là đế, mà chỉ là vương. Nhưng trong ý thức của các vua Việt bao giờ cũng đặt ngang hàng với Bắc đế, chứ không bao giờ chịu nhún mình là vương. Ví như Lý Nam đế, Đinh Tiên Hoàng đế, Đại Hành Hoàng đế… để khẳng định một quyền lực tối cao, độc lập hoàn toàn, không phụ thuộc vào Thiên triều Trung Hoa. Trong nhiều bài dịch "Nam đế cư" thành "vua Nam ở" là chưa sát ý, mà phải dịch là "Nam đế ở" mới đúng tư tưởng của bài thơ.
Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ hai vào thế kỷ thứ XI do Lý Thường Kiệt lãnh đạo là một trong những chiến công chói lọi trong trang sử vàng về bảo vệ và khẳng định chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam. Bài thơ đã đi vào lịch sử như bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam.
Khi cuộc kháng chiến chống Minh ở thế kỷ XV kết thúc thắng lợi hoàn toàn, Đại Việt sạch bóng quân xâm lăng. Năm 1428, thay mặt vua Lê, Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo. Bài đại cáo là bản tổng kết lịch sử đất nước, dân tộc một cách hoàn chỉnh và được hậu thế xưng tụng là "thiên cổ hùng văn".
Một đặc điểm làm nổi bật giá trị bài cáo là ý thức, lòng tự hào về quốc gia, dân tộc đã được khẳng định một cách rõ ràng, đầy đủ nhất:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Cõi bờ sông núi đã riêng,
Phong tục Bắc, Nam cũng khác.
Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên xưng đế một phương.
Người đời sau xem đoạn văn này là tiêu biểu nhất cho ý thức về quốc gia dân tộc. Bài cáo khẳng định, Đại Việt là một nước có văn hiến, có sức mạnh trí tuệ để giữ vững nền độc lập và phát huy các giá trị của dân tộc. Nguyễn Trãi đề cập đến những cái "riêng", cái "khác" của Đại Việt là để chỉ sự ngang hàng với Trung Hoa. Khẳng định sự thật lịch sử này là điều rất quan trọng, không phải ai cũng nhận thức được, nhất là những người xuất thân từ Nho giáo, chuyên học Bắc sử, mà trước hết là đánh vào đầu óc khinh miệt, kiêu ngạo của các triều đại Trung Hoa. Cuộc kháng chiến chống Minh kéo dài 20 năm được kết thúc thắng lợi, bài cáo cũng kết thúc bằng một lý tưởng lớn: độc lập dân tộc và thái bình lâu dài:
Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Càn khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt mờ rồi lại trong.
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.
Bình Ngô đại cáo đã khẳng định quyền độc lập dân tộc, thể hiện rõ ý thức dân tộc, lòng tự hào dân tộc, khả năng tự chủ, tự cường mà bằng chứng là biết bao chiến công vang dội trên. Có thể nói, Bình Ngô đại cáo mang đầy đủ giá trị, xứng đáng là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam.
Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Mở đầu Tuyên ngôn, Người viện dẫn Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ, rằng: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Đồng thời, Người cũng viện dẫn Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền năm 1791 của nước Pháp, rằng: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi".
Hồ Chí Minh đã vận dụng những tinh hoa của hai bản tuyên ngôn trên để khẳng định "đó là những lẽ phải không ai chối cãi được". Sau khi khẳng định quyền con người, Người còn "suy rộng ra" và nâng lên thành quyền của tất cả các dân tộc trong thời đại mới: "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do".
Ngay trong Tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã kêu gọi Liên hợp quốc: "Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam". Người không chỉ khẳng định về nguyên tắc pháp lý về quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, mà còn khẳng định trong thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng kiên cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam gắn với các quyền dân tộc thiêng liêng đó. Kết thúc bản Tuyên ngôn, Người khẳng định ý chí đanh thép: "Một dân tộc gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập". Đồng thời trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".
Chỉ hơn một nghìn từ với nội dung ngắn gọn, Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh thể hiện một trình độ kiến thức uyên bác, tầm nhìn bao quát về thời đại, một lập trường kiên định vì độc lập, tự do của dân tộc, vừa có tính chiến đấu mạnh mẽ với lập luận khôn khéo, sắc sảo, hùng văn, chứa đựng những giá trị bất hủ.
Có thể khẳng định, Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt ở thế kỷ thứ XI, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi ở thế kỷ thứ XV và Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh ở thế kỷ XX đã đánh dấu những giai đoạn phát triển của lý tưởng "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", có giá trị bất hủ trong lịch sử dân tộc Việt Nam.