Hôm nay, Download.vn sẽ cung cấp Bài văn mẫu lớp 6: Phân tích văn bản Hang Én, vô cùng hữu ích.
Hy vọng với dàn ý và 2 bài văn mẫu sau đây, các bạn học sinh lớp 6 sẽ có thêm ý tưởng cho bài viết của mình.
Cảm nhận về văn bản Hang Én
Dàn ý phân tích văn bản Hang Én
I. Mở bài
Dẫn dắt, giới thiệu khái quát về văn bản Hang Én.
II. Thân bài
1. Hành trình đến với Hang Én
- Khởi đầu từ con dốc Ba Giàn dài gần 2 km.
- Dốc cao và gập ghềnh.
- Đường đi khó khăn: đường mòn vừa một người đi, khá trơn, nhiều chăng có cây đổ chắn ngang hoặc những vòm dây leo giăng kín.
- Sự phong phú của sinh vật: cây cổ thụ tán cao; phong lan đang nở hoa; các loài sên, vắt, côn trùng, chim chóc…
- Đi hết dốc là tới thung lũng Rào Thương:
- Được bao quanh bởi con suối cùng tên.
- Con đường qua thung lũng trải theo tiếng suối.
- Nước trong vắt, mát lạnh.
- Dưới suối còn có làn đá cuội nơi đáy suối.
- Những loại bươm bướm đủ màu sắc.
=> Ngỡ mình đi trong một giấc mộng đẹp.
2. Vẻ đẹp của Hang Én
- Ba cửa lớn: cửa trước có 2 lớp, vòm cửa dẫn vào một “sảnh chờ” rộng rãi, cửa trong lại thấp hẹp, sát ngay dải sông ngầm đá rộng sâu quá thắt lưng…
- Lòng hang én:
- Nơi rộng nhất 100m2 , có thể chứa hàng trăm người.
- Trần hang cao tương đương tòa nhà 40 tầng (120m).
- Cửa thứ 2 thông lên mặt đất như giếng trời đón khí và ánh sáng.
- Quãng sông ngầm êm đềm trước thềm hang chính, len các hang phụ chừng 4km rồi đổ ra cửa sau.
- Ở hang chính bờ sông cát mịn, nước mát, đáy toàn sỏi, đá đã bào nhẵn.
- Trong hang:
- Én: Hồn nhiên cư ngụ và chưa biết sợ con người.
- Bốn bên dày đặc én.
- Én bố mẹ tấp nập đi, về, mải mớm mồi cho con; Én anh chị rập rờn bay đôi; Én con chấp chới vỗ cánh; Én thiếu niên ngủ nướng.
- Én xuống kiếm ăn, gãy cánh: ung dung mổ cơm trong tay con người, thản nhiên đi quanh lều.
- Đàn én cuối cùng về hang khi nền trời đã sẫm hẳn.
- Tiếng chim ríu rít như ru nhau, ru người,... đến cả đêm.
- Phía sau hang:
- Hàng trăm dải san hô uốn lượn tạo tầng bậc, đọng đầy nước trong.
- Trên dải hóa thạch sò, ốc, san hô...
- Nhũ đá, măng đá, ngọc động giăng đầy vách núi, sàn hang…
- Bóng tối trùm kín lòng hang Én thì khoảng trời phía trên cửa hang thứ hai vẫn sáng rất lâu.
3. Con người với Hang Én
- Trong lịch sử: Người A-rem ngày trước ở hang Én, trứng chim là nguồn thực phẩm của họ. Khi ra ngoài họ vẫn giữ hội “ăn én”, dấu tích của một thế hệ leo vách đá, trần hang: bàn chân mỏng, ngón dẹt.
- Đoàn người hiện tại:
- Đối với nhân vật tôi, là một chuyến hành trình thú vị.
- Sự tương tác với động vật: đàn bướm, chú én ngủ nướng, chú én bị gãy cánh....
- Ai nấy nhoài khỏi lều, chân trần chạy quanh sông rồi ngồi ngay bên bờ cát vực nước rửa mặt, hít căng lồng ngực không khí tinh khiết.
=> Sự hòa hợp, gắn bó của con người đối với thiên nhiên.
III. Kết bài
Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản Hang Én.
Phân tích văn bản Hang Én - Mẫu 1
Văn bản “Hang Én” của Hà My đã khắc họa được vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên nơi hang Én.
Hành trình khám phá hang Én được nhân vật “tôi” kể theo trình tự không gian từ con dốc Ba Giàn, đến thung lũng Rào Thương rồi mới đến được hang Én. Chuyến đi bắt đầu từ sáng sớm cho đến lúc bóng tối đã ngả xuống trải qua rất nhiều khó khăn. Cánh rừng nguyên sinh hiện lên với: “Những con dốc cao và gập ghềnh. Đường mòn vừa một người đi, khá trơn, nhiều chặng có cây đổ chắn ngang hoặc những vòm dây leo giăng kín”. Thiên nhiên còn mang vẻ hoang sơ mà cũng rất thơ mộng: “Rất nhiều cây cổ thụ tán cao vút, thân đầy các loại tầm gửi, có cả phong lan đang nở hoa. Con đường qua thung lũng trải theo tiếng suối róc rách, thảm cỏ, rồi cây cối rậm rạp, lúp xúp, từ đó vẳng ra tiếng chim kêu đủ giọng. Nước trong vắt, mát lạnh và thấy cả làn đá cuội nơi đáy suối. Nhiều quãng còn nhìn rõ đàn cá bơi liêu xiêu giữa dòng nước chảy xiết như những chiếc lá trúc khô”...
Khi đến hang Én, nhân vật “tôi” tiếp tục miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây. Trước hết là “kiến trúc” độc đáo của hang Én: “Hang có tới ba cửa lớn, cửa trước có hai lớp, vòm cửa dẫn vào một “sảnh chờ” rộng rãi, cửa trong lại thấp hẹp, sát ngay dải sông ngầm đá rộng sâu quá thắt lưng. Phía bên trong, nơi rộng nhất phải tới 110m2, có thể chứa hàng trăm người. Trần hang cao tương đương tòa nhà bốn mươi tầng (120m). Cửa thứ hai thông lên mặt đất như giếng trời đón khí và ánh sáng. Quãng sông ngầm êm đềm trước thềm hang chính, len các hang phụ chừng 4km rồi đổ ra cửa sau”. Đặc biệt nhất là cuộc sống của hàng nghìn con én được khắc họa vô cùng chân thực, sống động: “Sống bên trong hang là hàng trăm nghìn con én hồn nhiên cư ngụ và chưa biết sợ con người. Én bố mẹ tấp nập đi, về, mải mớm mồi cho con; Én anh chị rập rờn bay đôi; Én con chấp chới vỗ cánh; Én thiếu niên ngủ nướng. Én xuống kiếm ăn, gãy cánh: ung dung mổ cơm trong tay con người, thản nhiên đi quanh lều. Vòng ra sau hang Én là hàng trăm dải đá san hô uốn lượn. Trời tối, khoảng trời phía trên cửa hang thứ hai vẫn sáng nên có thể nhìn rõ từng đàn én chao liệng”. Cuộc sống của loài én cũng thật giống với con người.
Đoạn cuối của văn bản, nhân vật tôi chủ yếu nói về cuộc sống của đoàn khách du lịch tại hang Én. Từ đó, tác giả muốn khẳng định mối quan hệ gắn bó mật thiết của con người đối với thiên nhiên.
Với những hình ảnh chân thực, giọng văn tự nhiên, tác giả đã gửi gắm tình yêu dành cho thiên nhiên Hang Én qua văn bản này.
Phân tích văn bản Hang Én - Mẫu 2
Qua bài viết “Hang Én”, tác giả đã khắc họa được vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên nơi hang Én - một trong những hang động lớn nhất thế giới.
Cuộc hành trình đến với hang Én được tác giả giới thiệu theo trình tự thời gian từ khi còn sáng sớm đến khi bóng tối đã buông xuống. Con đường đến với hang Én bắt đầu từ con dốc Ba Giàn, đến thung lũng Rào Thương với rất nhiều thác ghềnh. Thiên nhiên hiện lên với những gì hoang sơ nhất: “Rất nhiều cây cổ thụ tán cao vút, thân đầy các loại tầm gửi, có cả phong lan đang nở hoa. Con đường qua thung lũng trải theo tiếng suối róc rách, thảm cỏ, rồi cây cối rậm rạp, lúp xúp, từ đó vẳng ra tiếng chim kêu đủ giọng. Nước trong vắt, mát lạnh và thấy cả làn đá cuội nơi đáy suối. Nhiều quãng còn nhìn rõ đàn cá bơi liêu xiêu giữa dòng nước chảy xiết như những chiếc lá trúc khô”.
Vẻ đẹp của hang Én cũng không làm cho du khách thất vọng. Câu văn so sánh độc đáo: “Hang Én giống như cái tổ khổng lồ và an toàn mà mẹ Thiên Nhiên ban tặng cho con người…” thể hiện sự kì vĩ của thiên nhiên nơi đây. Tiếp đến, tác giả miêu tả cụ thể kiến trúc độc đáo của hang động này: “Hang có tới ba cửa lớn, cửa trước có hai lớp, vòm cửa dẫn vào một “sảnh chờ” rộng rãi, cửa trong lại thấp hẹp, sát ngay dải sông ngầm đá rộng sâu quá thắt lưng”. Nhưng đặc biệt nhất vẫn là cuộc sống của hàng trăm nghìn con én trong hang: “Én bố mẹ tấp nập đi, về, mải mớm mồi cho con; Én anh chị rập rờn bay đôi; Én con chấp chới vỗ cánh; Én thiếu niên ngủ nướng. Én xuống kiếm ăn, gãy cánh: ung dung mổ cơm trong tay con người, thản nhiên đi quanh lều”. Chúng sống hồn nhiên như không hề biết sợ con người.
Cuối cùng, tác giả đã kể lại cuộc sống của đoàn du khách tại hang Én. Mặc dù thiếu thốn, nhưng họ vẫn cảm thấy thích thú khi được hòa mình với thiên nhiên. Từ đó, tác giả cũng thể sự trân trọng, lòng biết ơn và tình yêu của con người đối với tự nhiên: “Ai nấy nhoài ra khỏi lều, chân trần chạy quanh sông, rồi ngay bên bờ cát vục mắt nước rửa mặt, hít căng lồng ngực thứ không khí mát lành, tinh khiết.”
Hành trình khám phá hang Én đã đánh thức ở con người ý thức về việc bảo vệ môi trường thiên nhiên, cũng như các loài thực vật, động vật hoang dã. Đây là một văn bản có giá trị to lớn.