Văn mẫu lớp 10: Phân tích khổ 1 Thơ duyên mang đến dàn ý chi tiết kèm theo 2 bài văn mẫu cực hay, giúp cho các em học sinh lớp 10 tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng về văn phân tích đánh giá đoạn thơ ngày một tốt hơn.
Khổ 1 trong bài đã khắc họa một cách chân tình lòng yêu đời, yêu cuộc sống và niềm vui khát khao giao cảm với cuộc đời của một tâm hồn nhạy cảm và đa cảm Xuân Diệu. Vậy dưới đây là dàn ý và 2 bài văn mẫu phân tích Thơ duyên khổ 1 hay nhất mời các bạn cùng theo dõi. Bên cạnh đó các bạn xem thêm bài văn mẫu phân tích Thơ duyên.
Phân tích khổ 1 Thơ duyên hay nhất -
Dàn ý phân tích khổ 1 Thơ duyên
I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát đôi nét về tác giả, tác phẩm.
Xuân Diệu được mệnh danh là ông hoàng thơ tình Việt Nam, thơ của ông luôn nồng nàn, đắm say và ẩn chứa một tình yêu mãnh liệt đến khao khát cháy bỏng. Tuy nhiên bên cạnh những bài thơ sôi nổi như vậy, ta lại có thể bắt gặp một Xuân Diệu khác, dịu dàng, nhẹ nhàng, say đắm trong bài “Thơ duyên” – một tác phẩm ca ngợi cái duyên, sự hòa hợp đến kì diệu xảy đến trong một buổi chiều thu. Điều này được thể hiện rất rõ nét qua khổ thơ đầu tiên.
II. Thân bài
1. Khái quát
- Tác giả Xuân Diệu (quê quán, tiểu sử cuộc đời, sự nghiệp văn học, phong cách nghệ thuật,..)
- Tác phẩm Thơ Duyên ( hoàn cảnh sáng tác, thể loại,…)
2. Phân tích
- Nội dung tác phẩm: Tác giả muốn thể hiện tình yêu của mình, không chỉ là tình yêu đôi lứa, ở đây tình yêu trong tác phẩm còn mang nghĩa rộng lớn hơn. Chính là tình yêu dành cho cuộc sống, cho vạn vật, cho đất trời, đồng thời nhà thơ cũng phát hiện ra mối nhân duyên, sự gắn bó, liên kết kì diệu, hài hòa tuyệt vời giữa con người với cỏ cây hoa lá, giữa vũ trụ với cuộc đời, giữa thời gian với không gian bao la
- Phân tích bốn câu thơ đầu:
“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền"
+ Nhà thơ đã rất khéo léo và tinh tế trong việc họa nên bức tranh thu đầy nhạc tính, đó là một khúc nhạc khai mạc mang các nốt trầm du dương, êm dịu giúp cho khung cảnh trở nên dịu dàng.
“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”
+ Động từ “Đổ” qua đó cảnh làm cho cảnh vừa chân thật lại rất thơ mộng; Màu xanh ngọc của sắc thu cùng hồn thu hòa lẫn thêm sắc xanh của “muôn lá” => Khiến người thi sĩ cũng phải thẫn thờ, choáng ngợp trước sắc thu đẹp mộng mơ.
"Thu đến, nơi nơi động tiếng huyền.”
+ Thiên nhiên dường như cũng đang cất lên một bản giao hưởng đến từ tiếng chim, từ tiếng đàn ở xa kia vọng lại.
=> Chỉ với bốn câu thơ, tác giả Xuân Diệu đã thành công phác họa nên một bức tranh chiều thu thật thơ mộng, sinh động, huyền ảo nhưng vẫn mang vẻ đẹp chân thực của một chiều thu nơi thôn dã, giản dị, yên bình
3. Tổng kết lại giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của tác phẩm
III. Kết bài
Nêu suy nghĩ và tình cảm của em dành cho tác phẩm.
Phân tích khổ 1 bài Thơ duyên - Mẫu 1
Viết về mùa thu, Xuân Diệu có một lối nói riêng đầy thi vị, tứ thơ mới mẻ, cảm nhận tinh tế nhẹ nhàng cái hồn thu của đất trời, quê hương xứ sở. "Thơ duyên" là một bài thơ thu độc đáo nhận diện cảnh thu, tình thu qua tâm hồn thơ mộng của một chàng trai đa tình và tài hoa lãng mạn. Điều này được thể hiện rất rõ nét qua khổ thơ đầu bài thơ.
Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cành me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền.
Cả đoạn thơ là một bức tranh toàn cảnh về buổi chiều mùa thu với đủ hình ảnh (chiều mộng, nhánh duyên), âm thanh (tiếng chim ríu rít), màu sắc (xanh ngọc) và sự chuyển động của vạn vật (nơi nơi động tiếng huyền). Dưới thấp trên cao, ở gần ở xa, tất cả đều xôn xao, ríu rít, nên thơ nên mộng, hòa quyện vào nhau, tạo nên âm hưởng sống động của chiều thu.
Chỉ bốn dòng thơ mà xuất hiện rất nhiều từ ngữ chưa từng có trong văn chương trước đó: chiều mộng, nhánh duyên và đặc biệt câu thơ:
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá.
Biết bao thi nhân đã viết về bầu trời xanh nhưng mấy ai đã cảm nhận được sắc xanh ngọc của bầu trời đang đổ xuống, tuôn chảy như Xuân Diệu.
Xuân Diệu không những nhìn cảnh vật bằng mắt mà còn nhìn bằng tâm hồn, cả nỗi lòng dào dạt cảm xúc của mình. Ông không những lắng nghe bằng tai mà còn đón nhận tất cả những âm vang của đất trời bằng toàn bộ "tâm cảm" của mình. Vì thế ông mới thấy chiều mộng, nhánh duyên, đổ trời xanh ngọc và những âm thanh huyền diệu của cuộc sống mà không phải ai cũng nhận ra.
Bằng tài năng và sự mẫn cảm của mình, Xuân Diệu đã đem đến cho người đọc bức tranh thu đẹp, trong sáng, tươi tắn. Đó là tất cả sự náo nức, dào dạt của trời thu và của lòng người. Thiên nhiên và sự sống có sự tương giao hòa hợp, có duyên với nhau, thơ mộng và trữ tình.
Buổi chiều là đề tài quen thuộc của thơ ca nói chung và trong thơ Xuân Diệu nói riêng. Buổi chiều thường đi vào văn chương với nỗi buồn quạnh quẽ, thê lương. Thơ Xuân Diệu cũng vậy. Duy chỉ có Thơ duyên nằm trong số ít ỏi những bài viết về buổi chiều mà không chứa đựng nỗi buồn hiu hắt. Cảnh thu ở đây tươi vui, náo nức, hồn nhiên, ấm áp. Thơ duyên, với khổ thơ đầu, đã đem đến cho buổi chiều, trong văn học nói chung và trong thơ Xuân Diệu một gương mặt mới.
Đoạn thơ đầu bài Thơ duyên đã bộc lộ một cách chân tình lòng yêu đời, yêu cuộc sống và niềm vui khát khao giao cảm với cuộc đời của một tâm hồn nhạy cảm và đa cảm Xuân Diệu.
Phân tích khổ 1 Thơ duyên - Mẫu 2
Như ai đã từng si trước bức tranh thu vàng của họa sĩ Levitan, từng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh con nai vàng ngơ ngác trong rừng thu của Lưu Trọng Lư thì không thể ko xao xuyến trước cảnh chiều thu thơ mộng của Xuân Diệu trong Thơ duyên:
“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến, nơi nơi động tiếng huyền.”
Thơ duyên với thể hiểu là nhân duyên của con người, cũng mang thể là sự gắn bó giữa đất trời vạn vật, cỏ cây tạo cần mối liên kết huyền diệu. Mùa thu hiện ra thơ mộng trong sự hài hòa, hữu tình ấy:
“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên”
Qua đây chúng ta nhận thấy trong đôi mắt của thi sĩ đa tình, chiều mùa thu biến thành “chiều mộng”. Vẻ đẹp gợi cảm giác êm đềm, buộc phải thơ tới những cành cây tưởng như vô tri cũng vươn lên là “nhánh duyên”. Vạn vật hòa quyện vào nhau tạo thành sự “hòa thơ”. Cách sử dụng từ mới lạ, câu thơ tả cảnh mà còn đậm tình, đem lại cảm giác ảo mộng. Đi giữa chiều mộng trong không gian êm đềm nghe tiếng chim ríu rít đùa vui. Cảnh tượng hiện ra thật thanh bình, cần thơ, tạo thành 1 niềm vui dịu dàng, ấm áp. Trong hai câu thơ đầu, nhà thơ siêu tài giỏi và khéo léo trong việc họa phải bức tranh thu đầy nhạc tính: khúc nhạc khai mạc là các nốt trầm du dương, êm nhẹ làm cho cho khung cảnh thêm dịu dàng. Nhà thơ ghi lại những hình ảnh thắm màu: từ nhánh cây xanh đến sắc trời “xanh ngọc” trẻ trung. Dưới mặt đất, vạn vật đang hòa khúc hoan ca:
“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá.”
“Đổ” là động từ làm cho cảnh như thật mà như mộng. Màu xanh ngọc của sắc thu và hồn thu. Trên vòm me là bầu trời, hòa lẫn cộng màu xanh của lá non, quanh quéo vòm me là mùa thu. Tất cả nhường nhịn như cùng sóng đôi, cộng bước đi, cộng hòa mình trong cảnh sắc đẹp thu thơ mộng. Và thi sĩ cũng thẫn thờ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, bỗng chứa lên 1 tiếng ngợi ca:
“Thu đến, nơi nơi động tiếng huyền”
Trong giây phút ban đầu của mùa thu, cả ko gian dịu vợi ánh nắng tinh khôi, màu xanh tươi mới, trinh nguyên chan hòa mang khúc nhạc du dương. Thiên nhiên cất lên bản giao hưởng của tiếng chim, tiếng đàn từ xa vọng lại. Xuân Diệu muốn khẳng định 1 lần nữa: mùa thu đã tới rồi và hưởng thụ mùa thu là lắng nghe sự đi lại của đất trời. Sự đi lại tương giao đó diễn ra cực kỳ khẽ khàng, 1 sự “hòa thơ”, cảnh vật như cùng nhau dạo cần khúc ca duyên, sóng đôi mang nhau, hòa quyện cùng nhau. Đất trời giao hòa gắn bó: “chiều mộng” đi có “nhánh duyên”, “cây me” hòa duyên cộng “chim”, ánh sáng đan vào muôn sắc lá… Cảnh thu hài hòa đường nét, màu sắc đẹp tươi sáng, dịu dàng, tạo bắt buộc bức tranh thu thơ mộng, tuyệt mỹ. Nhân vật trữ tình là người nhà thơ cảm nhận tự nhiên bằng toàn bộ giác quan: chiều mộng êm dịu tác động tới xúc giác, thị giác, thính giác.
Chỉ với bốn câu thơ, Xuân Diệu đã phác họa nên bức tranh thu thơ mộng, huyền ảo, vẻ đẹp chân thật, phúc hậu như được chụp lại từ một chiều thu nơi thôn dã. Mọi vật chuyển động nhịp nhàng, sóng đôi có nhau, hòa vào khiến một. Cùng là đề tài mùa thu, nhưng trong thơ Xuân Diệu ko với áo mơ phai, không với rặng liễu lả lướt mà chỉ sở hữu nhánh duyên, cánh chim, bầu trời xanh ngọc, cảnh vật giản đơn như soạn ra bản nhạc dạo đầu khởi xướng bài ca thu. Tự nhiên như có mối lương duyên giao hòa thầm kín, mời gọi con người khám phá, trải lòng.
Qua đây chúng ta nhận thấy bốn câu thơ đầu trong bài Thơ duyên mang cấu trúc hoàn chỉnh, gợi tả cảnh vật mùa thu thơ mộng, độc đáo, không trùng lặp có bất cứ bài thơ chủ đề mùa thu nào khác trong văn chương Việt Nam. Qua bức tranh thu ấy, người đọc cảm nhận một hồn thơ Xuân Diệu tinh tế, hòa quyện sở hữu thiên nhiên để say đắm trong sự giao hòa. Đó là khát khao giao cảm của nhà thơ, sự kết duyên của cảnh vật là chất xúc tác cho sự gắn kết của con người.