Sau đây giới thiệu đến tất cả thầy cô và các bạn một số bài văn mẫu lớp 12: Nghị luận về ý kiến Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên, đây là tài liệu đã được chúng tôi tổng hợp và đăng tải tại đây.
Với dàn ý chi tiết và một số bài văn mẫu nghị luận về ý kiến Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên dưới đây, chúng tôi hy vọng có thể giúp cho mọi người rèn luyện kĩ năng viết văn nghị luận xã hội lớp 12, cũng như có thêm hành trang để bước vào kỳ thi THPT Quốc gia sắp tới. Sau đây chúng tôi xin mời các bạn cùng tham khảo tài liệu.
Bài văn mẫu lớp 12: Nghị luận về ý kiến Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên
- Dàn ý nghị luận về ý kiến Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên
- Nghị luận về ý kiến Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên - Mẫu 1
- Nghị luận về ý kiến Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên - Mẫu 2
- Nghị luận về ý kiến Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên - Mẫu 3
- Nghị luận về ý kiến Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên - Mẫu 4
- Nghị luận về ý kiến Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên - Mẫu 5
Dàn ý nghị luận về ý kiến Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên
I. Mở bài:
- Giới thiệu câu nói của nhà văn Pháp La Bơ-ruy-e.
II. Thân bài:
* Giải thích câu nói:
+ Một tác phẩm hay là một tác phẩm nghệ thuật phải vì con người, phải bước ra từ cuộc sống của con người, người nghệ sĩ phải biết thông cảm, thấu hiểu muôn mặt của cuộc sống để cho ra những tác phẩm có tác dụng thay đổi, nâng đỡ tâm hồn còn người, làm cho xã hội ngày càng phát triển.
+ Nêu dẫn về quan điểm "nghệ thuật vị nhân sinh" của một số nhà văn.
+ "Không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa" không phải là không có nguyên tắc để đánh giá văn chương mà thực tế nó chỉ cần một nguyên tắc duy nhất là tác phẩm phải hướng đến con người giáo dục, nâng cao tư tưởng tình cảm, củng cố đạo đức, xây dựng nhân cách, làm tâm hồn con người trở nên trong sạch, đẹp đẽ,...
* Bàn luận:
- "Tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên":
+ Là một tác phẩm mở mang tầm nhận thức của con người, nó có ý nghĩa tích cực, khuyến khích động viên con người, khiến con người ta thấy cuộc sống tràn đầy tươi đẹp, nó kéo con người ta từ chỗ tối tăm tuyệt vọng ra chỗ ánh sáng ngập tràn hy vọng.
+ Dẫn con người đến với sự nhận thức rõ ràng về đời sống vật chất và tinh thần, giúp con người ngày càng thêm thấu hiểu giá trị của cuộc sống, nắm bắt được quy luật của tọa hóa từ đó trở nên mạnh mẽ biết nắm bắt cơ hội, biết tự chủ động nắm giữ cuộc đời, thực hiện ước mơ để cuộc sống trở nên có ý nghĩa hơn, hạnh phúc hơn.
- Văn chương "gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm":
+ Mỗi tác phẩm văn chương đều là kết tinh của một tâm hồn riêng biệt, cách nhìn nhận thế giới và cuộc sống của các nghệ sĩ là khác biệt nhau, ở mỗi một lĩnh vực các tác phẩm văn học đều mang đến cho độc giả những kiến thức, những tình cảm mới mẻ, làm phong phú tinh thần và nhận thức của con người.
+ Đọc và học văn cũng ít nhiều làm thay đổi khí chất và phong thái hành xử, con người dần trở nên tinh tế hơn, hoàn thiện hơn cả về nhân cách lẫn tri thức, cùng với các quan điểm thẩm mỹ, thế giới nội tâm, tình cảm.
+ Lấy dẫn chứng về việc văn chương "nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm" thông qua các tác phẩm văn học Việt Nam (Văn học dân gian, văn học trung đại, văn học hiện đại).
III. Kết bài:
- Nêu cảm nghĩ cá nhân.
Nghị luận về ý kiến Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên - Mẫu 1
Từ trước tới nay, trên thế giới có rất nhiều ý kiến khác nhau bàn về cách đánh giá giá trị của một tác phẩm văn chương. Có người thì đề cao nghệ thuật, có người thì đề cao nội dung. La Bơ-ruy-e, nhà văn Pháp đã bày tỏ quan điểm của mình như sau: Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra.
Xét về mặt ý nghĩa thì quan điểm trên gần giống với quan điểm của nhà văn hiện thực Nga nổi tiếng Mác-xim Go-rơ-ki: Văn học là nhân học. La Bơ-ruy-e nhấn mạnh tới chức năng giáo dục của văn học. Văn học nuôi dưỡng tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của con người. Văn chương có khả năng đặc biệt trong việc phát hiện và diễn tả sự bí ẩn, huyền diệu của con người. Đặc điểm của văn học là thông qua các sự kiện, các hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm để giáo dục cho con người tình cầm trong sáng, đạo lý làm người. Mặt khác, văn học giúp con người hoàn thiện nhân cách, nâng cao tình thần và gợi cho con người những tình cảm cao quý và can đảm.
Văn học đến với con người bằng con đường tình cảm, cảm xúc. Nó mang tạt cho con người những rung cảm sâu xa trước vẻ đẹp của quê hương, đất nước, trước cuộc sống phong phú, đa dạng muôn màu muôn vẻ và nhất là trước chiều sâu của thế giới tâm hồn. Mục đích trước tiên và quan trọng của văn học là giúp con người đối chiếu, liên tưởng, suy ngẫm về cuộc đời và về chính bản thân, nâng cao niềm tin vào bản thân để từ đó có nhận thức đúng đắn hơn, có khát vọng hướng tới chân lí, dám đấu tranh chống cái xấu, cái ác; biết tìm tòi và hướng tới cái Đẹp, cái Thiện của cuộc sống. Đó chính là văn học chân chính có khả năng cảm hóa, nhân đạo hóa, xứng đáng là bạn tốt của con người.
Nhà văn La Bơ-ruy-e cũng bày tỏ ý kiến về cách đánh giá một tác phẩm văn chương và một nghệ sĩ chân chính. Theo ông, tác phẩm nào có ảnh hưởng lớn lao tới đời sống tinh thần của con người theo chiều hướng tích cực thì đó là một cuốn sách hay, đích thực là văn chương và người viết ra nó xứng đáng được gọi là nghệ sĩ.
Hai nhà văn nổi tiếng của Việt Nam là Thạch Lam và Nam Cao cũng có quan điểm gần giống với La Bơ-ruy-e. Thạch Lam cho rằng: "Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại, văn chương là một thứ khi giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn". Còn Nam Cao đã thông qua nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa để bày tỏ quan điểm của mình về tác phẩm văn chương, về nhà văn chân chính. Là một nhà văn, Hộ từng ấp ủ một hoài bão lớn về sự nghiệp văn chương của mình. Anh mong ước sẽ sáng tạo ra những tác phẩm thật sự có giá trị, vượt lên tất cả bờ cõi và giới hạn. Quan điểm về văn chương của Hộ cũng hết sức tiến bộ: Một tác phẩm văn chương đích thực phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn. Nhà văn phải là những người nghệ sĩ vừa có tâm vừa có tài, trong sáng tác phải tạo cho mình một phong cách riêng, một dấu ấn riêng không thể lẫn với bất cứ ai khác; vì: Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có (Nam Cao).
Chúng ta có thể lấy một số tác phẩm kinh điển của các nhà văn nổi tiếng thế giới để chứng minh và khẳng định ý kiến của La Bơ-ruy-e là đúng.
Bộ tiểu thuyết Những người khốn khổ của Vích-to Huy-gô là bài ca tuyệt vời về tình thương yêu con người, về đức vị tha, hi sinh đến quên mình. Nhân vật Giăng Van-giăng là “nhân vật tư tưởng” tiêu biểu cho chủ nghĩa nhân đạo của nhà văn. Người thợ làm vườn nghèo khổ này vì thương đàn cháu mồ côi nheo nhóc, đói khát nên đã liều đập vỡ cửa kính tiệm bán bánh mì để lấy cắp một ổ bánh. Bị kết án khổ sai, Giăng Van-giăng mấy lần tìm cách vượt ngục nhưng không thành nên thời gian ngồi tù cứ kéo dài ra mãi. Sau khi được trả tự do, vì hoàn cảnh ngặt nghèo, Giăng Van-giăng lại phạm tội cướp đồng xu của một đứa trẻ và lấy cắp bộ đồ ăn bằng bạc của giám mục Mi-ri-en. Sự độ lượng và lòng bác ái của vị giám mục nhân từ đã cứu Giăng Van-giăng thoát vòng lao lý và nó tác động rất lớn tới tư tưởng, tình cảm của con người tội nghiệp này. Nó đóng vai trò quyết định trong việc thay đổi cuộc sống và tính cách của Giăng Van-giăng.
Đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Vích-to Huy-gô và mang dấu ấn đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn trong văn chương Pháp thế kỉ XIX. Nội dung đoạn trích phản ánh sự đối lập giữa cái ác và cái thiện, giữa bạo lực cường quyền và nạn nhân của nó. Qua đó, nhà văn phê phán cương quyền, khơi dậy mối đồng cảm với những người khốn khổ và khẳng định lí tưởng nhân đạo tốt đẹp.
Từ một người tù khổ sai, sau nhiều năm làm việc cật lực, Giăng Van-giăng đã trở thành ông chủ nhà máy có uy tín và được dân chúng tín nhiệm bầu làm thị trưởng, ông quan tâm và có những nghĩa cử cao đẹp đối với người đàn bà bất hạnh Phăng-tin. Bị tên mật thám Gia-ve phát hiện và đến bắt, Giăng Van-giăng (tức thị trưởng Ma-đơ-len) không hề run sợ. Trước thái độ hung hăng, tàn nhẫn của Gia-ve, ông vẫn tìm cách trấn an Phăng-tin để níu kéo sự sống cho chị. Phăng-tin chết vì bị sốc trước sự thực phũ phàng (tên mật thám Gia-ve túm cổ áo ngài thị trưởng đáng kính). Giăng Van-giăng ghé tai chị thì thầm hứa sẽ tìm bằng được bé Cô-dét – đứa con gái yêu quý của chị. Một điều kì diệu ngoài sức tưởng tượng đã xảy ra: Điều mà chẳng ai nghi ngờ là bà xơ Xem-pli-xơ, người độc nhất chứng kiến cảnh ấy, thường kể lại rằng lúc Giăng Van-giăng thì thầm bên tai Phăng-tin, bà trông thấy rõ ràng một nụ cười không sao tả được hiện trên đôi môi nhợt nhạt và trong đôi mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng của chị khi đi vào cõi chết. Đây là một ảo tưởng cảm động trước một sự thực cao cả làm rung động sâu xa tâm hồn người đọc.
Truyện ngắn Số phận con người của nhà văn Sô-lô-khốp không ngần ngại nói lên cái giá rất đắt của chiến thắng, những đau khổ tột cùng mà con người phải gánh chịu do chiến tranh; đồng thời ca ngợi lòng nhân hậu, vị tha của người lính Hồng quân nói riêng và của nhân dân Nga nói chung. Tác phẩm này ra đời như một sự kiện làm chấn động nền văn học Xô viết và Sô-lô-khốp được đánh giá là nhà văn vĩ đại của nước Nga thế kỉ XX.
Nhân vật chính của truyện là An-đrây Xô-cô-lốp, một chiến sĩ Hồng quân tham gia cuộc chiến tranh vệ quốc của Liên bang Xô viết chống phát xít Đức xâm lược. Bị bắt làm tù binh, anh phải chịu đựng sự hành hạ dã man của kẻ thù. Trong một cuộc trốn chạy để trở về với Hồng quân, anh đã mưu trí dũng cảm bắt sống một tên thiếu tá Đức và cướp một xe vận tải. Chiến tranh kết thúc, thay vì được hưởng niềm hạnh phúc vô biên là được đoàn tụ với gia đình trên quê hương thân yêu thì Xô-cô-lốp lại phải chịu đựng một số phận bất hạnh: Vợ và hai con gái nhỏ bị trúng bom của phát xít; con trai lớn của anh cũng là một chiến sĩ Hồng quân đã trúng đạn ngã xuống tại cửa ngõ Béc-lin ngay trong ngày chiến thắng. Đất nước đã hòa bình nhưng Xô-cô-lốp không thể sống yên ổn bởi anh mang trong tim một nỗi đau vô hạn. Anh nhận chú bé mồ côi Va-ni-a làm con nuôi và từ đó cuộc sống của anh thay đổi hẳn. Tuy vất vả, cực nhọc nhưng Xô-cô-lốp thấy lòng vui trở lại, thấy cuộc đời là đáng yêu, đáng sống. Tình yêu thương quả là một sức mạnh thần kỳ giúp con người vượt qua nghịch cảnh, chiến thắng sự nghiệt ngã của số phận. Nhân vật Xô-cô-lốp là hiện thân của tính cách Nga kiên cường, dũng cảm và giàu lòng nhân ái. Bằng hình tượng nhân vật điển hình này, nhà văn Sô-lô-khốp đã đề cập tới một vấn đề trọng đại từng ám ảnh bao nghệ sĩ lớn, đó là vấn đề số phận con người. Một khái niệm trừu tượng đã được nhà văn cụ thể hóa thông qua cuộc đời của một nhân vật với nhiều đau khổ, mất mát; để rồi với ý chí, nghị lực phi thường và lòng nhân ái sâu sắc, nhân vật đã vượt qua tất cả để chiến thắng số phận bất hạnh. Đọc truyện ngắn Số phận con người của Sô-lô-khốp, người đọc nhận thức được rất nhiều điều và cũng học được nhiều bài học nhân sinh bổ ích từ nhân vật Xô-cô-lốp. Đó là thành công của tác phẩm, là vinh dự lớn lao của người nghệ sĩ.
Trong tiểu thuyết Ông già và biển cả của nhà văn Mĩ Hê-minh-uê, hình ảnh ông lão đánh cá đơn độc dũng cảm săn đuổi con cá lớn nhất đời mình là một biểu tượng về vẻ đẹp của ước mơ và hành trình gian khổ của con người để biến ước mơ thành hiện thực. Tác phẩm này là một bài học thiết thực và bổ ích về khát vọng, ý chí và nghị lực của con người. Nhà văn đặt nhân vật vào một tình huống đặc biệt là chỉ có một mình giữa biển khơi bao la đầy bất trắc; một mình săn đuổi, đánh bắt con cá kiếm khổng lồ và một mình đương đầu với đàn cá mập hung dữ để bảo vệ thành quả lao động, ông lão đánh cá Xan-ti-a-gô suốt đời làm lụng vất vả, cực nhọc nhưng không nguôi mơ ước một ngày nào đó sẽ đánh bắt được một con cá thật to để thỏa mãn ước mơ và khẳng định tài năng của mình. Trớ trêu thay, cho tới lúc ông đã quá già thì ước mơ này mới trở thành hiện thực. Suốt mấy ngày đêm lênh đênh trên biển, ông lão mới phát hiện ra con cá kiếm khổng lồ, to hơn chiếc thuyền của ông. Cuộc chiến đấu gay go giữa người và cá kéo dài tưởng chừng quá sức chịu đựng của ông lão, nhưng ông lão không nản chí, vẫn đem hết sức lực để bắt bằng được con cá mà ông ao ước đã bao lâu. Thế nhưng đàn cá mập tham lam đã tấn công con cá kiếm. Mặc dù ông lão chống đỡ quyết liệt để xua đuổi đàn cá mập hung dữ nhưng đến lúc thuyền cập bến thì con cá kiếm chỉ còn là một bộ xương.
Cốt truyện giản dị chỉ có vậy nhưng Hê-minh-uê đã viết nên một áng văn xuôi giản dị và trung thực về con người. Tuy không có âm hưởng anh hùng ca nhưng câu chuyện về ông lão đánh cá thực sự là bài ca ca ngợi vẻ đẹp khỏe khoắn, kiên cường rất đáng khâm phục của người lao động. Tác phẩm còn chứa đựng một tầng nghĩa sâu xa hơn trong hình tượng con cá kiếm và ông già đánh cá. Vẻ đẹp kiêu hùng của con cá kiếm vùng vẫy tự do trên biển cả tượng trưng cho ước mơ và lý tưởng mà con người suốt đời khao khát và theo đuổi. Ông lão đánh cá với ý chí kiên cường tiêu biểu cho quyết tâm biến ước mơ thành hiện thực của con người. Tiểu thuyết Ông già và biển cả với số trang khiêm tốn chỉ nhiều hơn một truyện vừa chút ít nhưng thực sự là một sáng tác mà nhà văn nào cũng ao ước viết được lấy một lần (Phôn-cơ-ne), bởi nó đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc trên toàn thế giới và đem lại vinh quang cho tên tuổi Hê-minh-uê – một nghệ sĩ vĩ đại của nhân loại.
Ý kiến của La Bơ-ruy-e đã góp phần khẳng định vai trò quan trọng của chức năng giáo dục trong văn chương và nêu lên cách đánh giá đúng đắn về – tài năng người nghệ sĩ. Văn chương đem lại cho con người những giá trị tinh thần cao quý, giúp con người hướng tới Chân, Thiện, Mỹ trong cuộc sống. Những tác phẩm văn học có giá trị nội dung, tư tưởng; giá trị nghệ thuật cao sẽ vượt qua thử thách khắc nghiệt của dư luận, của thời gian, không gian để trở thành kiệt tác muôn đời của nhân loại. Đúng như La Bơ-ruy-e khẳng định:… đó là một cuốn sách hay và người viết ra nó xứng đáng là một nghệ sĩ đích thực.
Nghị luận về ý kiến Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên - Mẫu 2
Văn chương là một sản phẩm tinh thần tinh tế chứa đựng tài hoa và trí lực của người làm ra nó, vì thế nên người ta thường đánh giá và nhận định văn chương bằng nhiều tiêu chí, nhiều nguyên tắc phức tạp để phân loại hay dở, đáng thờ hay không đáng thờ, nên trân trọng hay rẻ rúng, vị nghệ thuật hay vị nhân sinh,... Chín người mười ý, đều khó có thể vẹn toàn, việc sáng tạo ra một tác phẩm được lòng đa số các độc giả đón nhận và đánh giá cao, hay việc tác giả được thừa nhận là một nghệ sĩ trong giới văn chương chưa bao giờ là điều dễ dàng. Bởi có người dẫu có viết cả hàng tá tác phẩm, những vẫn mãi nhìn cái danh xưng nghệ sĩ bằng đôi mắt buồn rầu, xa tầm tay với, bởi nó vốn dĩ phụ thuộc vào năng lực của người viết. Bàn về vấn đề đánh giá giá trị của tác phẩm và khái niệm về người nghệ sĩ, nhà văn Pháp La Bơ-ruy-e đã có một nhận định rất mới mẻ: "Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: Đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra".
Xét từ quan điểm của La Bơ-ruy-e thế nào là một cuốn sách hay và thế nào là một người nghệ sĩ? Đó đều là những khái niệm mà chúng ta phải làm sáng rõ, bởi ở mỗi một giai đoạn khác nhau thì con người ta lại có những nhận định riêng biệt về giá trị của những tác phẩm, mỗi một cá nhân lại có những tư tưởng và cách cảm nhận khác nhau, thế nên bàn về việc hay dở của tác phẩm luôn là điều gây nhiều tranh cãi. Bởi có người cho rằng sách hay thì văn chương phải mạch lạc, câu cú xuôi chèo mát mái, nội dung phải ca ngợi những thứ hoàn mỹ, tuyệt diệu, thanh cao tránh đi những thứ tầm thường, giả dối. Lại cũng có người đơn thuần cho rằng tác phẩm hay thì phải mới lạ, lấy cái sự sáng tạo làm đầu, phải tạo ra được sự đột phá khác biệt, hoặc cũng có người lại thấy rằng văn chương càng bình dị, gần gũi thân thuộc với cuộc sống con người thì càng hay, càng dễ tiếp cận,... Nhưng nổi bật nhất về việc phân định giá trị của các tác phẩm văn học phải kể đến cuộc bút chiến gay gắt giữa hai trường phái "nghệ thuật vị nhân sinh" do Hải Triều đứng đầu và "nghệ thuật vị nghệ thuật" do Hoài Thanh làm bút tướng, sau cùng thứ văn học lấy con người làm trung tâm đã chiến thắng một cách vang dội, và trở thành tiêu chí chung nhất để đánh giá về các tác phẩm văn học. Mà nếu diễn dịch ra thì dùng câu nói của Nguyễn Văn Siêu có lẽ đã đủ rõ ràng: "Văn chương... có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người". Một số các nhà văn sau này cũng có những nhận định tương tự về các tác phẩm văn chương thật sự có giá trị, ví như Nguyễn Huy Tưởng viết: "Nghệ thuật mà không gắn liền với đời sống thì đó nó chỉ là những bông hoa ác mà thôi", rồi Nam Cao cũng viết: "Chao ôi, nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than và nhà văn không được trốn tránh nghệ thuật mà phải đứng trong lao khổ mở hồn ra đón lấy những vang động của đời", hay những lời tâm đắc của nhà văn Thạch Lam: "Đối với tôi văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn". Chung quy lại rằng nghệ thuật phải vì con người, phải bước ra từ cuộc sống của con người, người nghệ sĩ phải biết thông cảm, thấu hiểu muôn mặt của cuộc sống để cho ra những tác phẩm có tác dụng thay đổi, nâng đỡ tâm hồn còn người, làm cho xã hội ngày càng phát triển. Quan điểm ấy của giới văn nghệ sĩ Việt Nam không hẹn mà cùng gặp những nét tương đồng trong ý kiến của La Bơ-ruy-e về giá trị của các tác phẩm. Ý "không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa" của La Bơ-ruy-e không phải là không có nguyên tắc để đánh giá văn chương mà thực tế nó chỉ cần một nguyên tắc duy nhất, tác phẩm ấy đã hướng đến con người hay chưa, đã mang lại gì cho cuộc sống của con người, bao gồm việc giáo dục, nâng cao tư tưởng tình cảm, củng cố đạo đức, xây dựng nhân cách, làm tâm hồn con người trở nên trong sạch, đẹp đẽ,... hay chưa mà thôi.
Còn thế nào là một người nghệ sĩ, theo tôi chỉ đơn giản là họ làm ra được một tác phẩm hay đúng nghĩa như trên thì học chính là nghệ sĩ rồi, bởi có tài năng, có sự khéo léo, tâm huyết và tỉ mẩn trong sáng tác, người ta mới có thể thấu hiểu về cuộc sống con người, rồi làm ra những tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc để thay đổi tam quan của độc giả theo chiều hướng tích cực. "tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên" tức là một tác phẩm mở mang tầm nhận thức của con người, nó có ý nghĩa tích cực, khuyến khích động viên con người, khiến con người ta thấy cuộc sống tràn đầy tươi đẹp, nó kéo con người ta từ chỗ tối tăm tuyệt vọng ra chỗ ánh sáng ngập tràn hy vọng. Có thể nói văn học chính là lối dẫn con người đến với sự nhận thức rõ ràng về đời sống vật chất và tinh thần, giúp con người ngày càng thêm thấu hiểu giá trị của cuộc sống, nắm bắt được quy luật của tọa hóa từ đó trở nên mạnh mẽ biết nắm bắt cơ hội, biết tự chủ động nắm giữ cuộc đời, thực hiện ước mơ để cuộc sống trở nên có ý nghĩa hơn, hạnh phúc hơn. Không chỉ gói gọn trong việc nâng cao tinh thần mà văn học chân chính còn có vai trò "gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm", ý này của La Bơ-ruy-e cũng chính là ý tứ trong câu nói nổi tiếng của nhà phê bình văn học Hoài Thanh: "Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có luyện những tình cảm ta sẵn có". Bởi mỗi tác phẩm văn chương đều là kết tinh của một tâm hồn riêng biệt, cách nhìn nhận thế giới và cuộc sống của các nghệ sĩ là khác biệt nhau, có người đứng giữa tầng lớp nông dân, trí thức, tiểu tư sản bần cùng, nghèo khổ để viết như Nam Cao, Kim Lân, Nguyễn Công Hoan, nhưng cũng có người tìm về thế giới thượng lưu hào nhoáng xa hoa như Vũ Trọng Phụng, có người chuyên trách với đề tài kháng chiến cách mạng và đất nước như Tố Hữu, Tô Hoài, Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thi, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Đình Thi,... Có thể nói, ở mỗi một lĩnh vực các tác phẩm văn học đều mang đến cho độc giả những kiến thức, những tình cảm mới mẻ, làm phong phú tinh thần và nhận thức của con người. Đọc và học văn cũng ít nhiều làm thay đổi khí chất và phong thái hành xử, con người dần trở nên tinh tế hơn, hoàn thiện hơn cả về nhân cách lẫn tri thức, cùng với các quan điểm thẩm mỹ, thế giới nội tâm, tình cảm. Người nóng nảy, bộp chộp quay về bình tâm, trầm lắng, người vụng về, hậu đậu cũng dần ý thức để trở nên tinh tế khéo léo hơn, không chỉ thế văn chương còn ngấm ngầm giáo dục cho con người ta cái tính cẩn thận trong lời ăn tiếng nói, trong cách hành xử trước sau. Chung quy lại vẫn quay về với một câu nói thật hay của nhà văn hiện thực Nam Cao "Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình... Nó làm cho người gần người hơn", văn học chỉ cần đạt được nhiêu đấy thôi thì cũng đã đủ là một tuyệt phẩm và người sáng tác ra nó ắt hẳn phải là một nghệ sĩ tài ba.
Tính đúng đắn trong quan điểm của nhà văn Pháp La Bơ-ruy-e, có thể dùng cả chặng đường văn học của nhân dân ta để chứng minh. Trước hết là nói về nền văn học dân gian, đậm chất truyền thống của dân tộc Việt Nam phổ biến nhất là ca dao, tục ngữ, những câu hát than thân ông cha ta dùng để làm tư liệu truyền miệng giáo dục cho con cháu. Chất liệu văn hóa dân gian đã lưu truyền từ suốt mấy ngàn năm nay đã giúp giáo dục và nâng cao tinh thần của con người, rèn luyện cho nhân dân ta những tình cảm đáng quý trong gia đình, trong cộng đồng, tình yêu quê hương đất nước,... Ví như nó nhắc nhở con người về lòng biết ơn "ăn quả nhớ kẻ trồng cây", ca ngợi tình cảm vợ chồng sắt son mặn nồng với "gừng cay muối mặn", nhắc nhở con cái lòng hiếu nghĩa với cha mẹ trong "công cha như núi thái sơn/nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra",... Không chỉ có ca dao tục ngữ, mà truyện cổ tích hay truyền thuyết cũng mang nhiều ý nghĩa giáo dục lớn ví như truyền thuyết Lạc Long Quân - u Cơ nhằm ca ngợi nguồn gốc dân tộc, những câu chuyện như Tấm Cám, Sọ Dừa giáo dục con người chân lý ở hiền gặp lành, ác giả ác báo, Sơn Tinh Thủy Tinh ca ngợi tinh thần chiến đấu mạnh mẽ của nhân dân ta trong quá trình chế ngự sức mạnh của thiên nhiên, hoặc Thánh Gióng là ca ngợi vẻ đẹp của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm,... Tất cả đều có một ý nghĩa giáo dục và khích lệ tinh thần độc giả nhất định, thế nên chúng xứng đáng được xem là những tác phẩm hay có giá trị đến muôn đời sau.
Bước vào nền văn học trung đại, văn chương đã trở nên có lề lối, khuôn mẫu và chuẩn mực thế nhưng nó vẫn không thoát khỏi cái thước đo giá trị dựa vào việc nó có hướng đến con người, có mang tính giáo dục, tính nhân văn sâu sắc hay không. Xét thấy thời này nổi tiếng nhất phải kể đến Truyện Kiều đại kiệt tác của nền văn học Việt Nam, với đầy đủ những giá trị nổi bật, từ việc tố cáo chế độ phong kiến nhiều bất công, thương cảm cho thân phận người phụ nữ tài hoa bạc mệnh, đến việc ca ngợi, trân trọng những vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Tất cả đều đánh động đến tâm can người đọc, mở ra trong tâm hồn mỗi con người một nhận thức mới về thời đại cũ, khiến con người ta biết đồng cảm biết thương xót cho số phận của những con người bất hạnh hơn. Ngoài Truyện Kiều thì một loạt các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu cũng mang những giá trị nhân văn, giáo dục sâu sắc hướng con người đến cái thiện bài trừ cái ác, thúc đẩy con người sống chính trực, thẳng thắn, đề cao con người tài hoa, dũng cảm.
Đó là văn học trung đại, khi bước sang nền văn học hiện đại các tác phẩm văn chương lại càng có thêm nhiều không gian để phát triển, bởi nó đã buông bỏ cái xiềng xích cổ hủ của nề nếp phong kiến cũ để tự do sáng tạo. Người ta thấy một Xuân Diệu với triết lý nhân sinh sâu sắc, ý thức về sự chảy trôi của thời gian rõ rệt, thúc đẩy tinh thần ham sống, sự nhiệt huyết, quý trọng thanh xuân của nhiều người trẻ, thấy một Xuân Quỳnh với những nhận thức về tình yêu lứa đôi dịu dàng và chân thực, mở mang tâm hồn của con người trong khía cạnh tình cảm trai gái. Nhưng có lẽ nổi bật nhất để chứng minh cho câu nói của La Bơ-ruy-e, phải kể đến cách nhà văn hiện thực trước cách mạng, những tác phẩm lần lượt ra đời như Chị Dậu, Chí Phèo, Lão Hạc, Đời Thừa, Sống mòn, Vợ nhặt, Số đỏ, Vợ chồng A Phủ,... đều có một vai trò chung mà theo như cách nói của Thạch Lam ấy là nó "tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn". Đó là nền văn học hiện thực, chuyển sang nền văn học mang khuynh hướng trữ tình chính trị hoặc khuynh hướng sử thi nó lại cũng mang những giá trị riêng biệt hướng đến con người, ấy là củng cố tình yêu quê hương đất nước, khích lệ tinh thần đấu tranh bảo vệ Tổ quốc giành lại độc lập cho dân tộc. Kế đến là những tác phẩm vào giai đoạn sau khi đất nước hoàn toàn độc lập, ví dụ như Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu lại cho người ta thấy một khía cạnh khác của cuộc sống rằng chính nghĩa không phải lúc nào cũng giải quyết được tất cả mọi việc, người đàn bà làng chài chấp nhận chịu bị bạo hành, chứ không chịu ly hôn là vì cuộc sống của gần mười đứa con nhỏ, nó cũng giáo dục cho mỗi chúng ta một chân lý ấy là chẳng có cái vẻ đẹp nào là hoàn mỹ, toàn bích cả, nghệ thuật thực sự phải bước ra từ chính cuộc sống của con người. Hay đến Hai đứa trẻ của Thạch Lam kể về cuộc sống nghèo nàn nơi phố huyện, cùng với chuyến tàu đêm đã gợi ra cho độc giả những suy nghĩ về niềm tin, niềm hy vọng thay đổi cuộc đời của những con người như chị em Liên, ca ngợi sức sống tiềm tàng và vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn của những con người bình thường giống như nhân vật chính. Và khi đọc những tác phẩm trên, chúng ta cũng dần biết đồng cảm, thấu hiểu cuộc sống của những nhân vật trong tác phẩm, rồi thông qua những thông điệp ý nghĩa mà tác phẩm truyền tải để làm mới, củng cố và xây dựng tâm hồn mình.
Cuối cùng tôi muốn trích một câu nói của Thạch Lam rằng: "Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng,thương yêu hơn", người nghệ sĩ không cần phải là người thợ khéo tay, ưng làm ra những tác phẩm chuộng hình thức mà quan trọng cái mà họ sáng tác ra phải đem đến cho cuộc đời, cho xã hội những giá trị có tính giáo dục, có tính thẩm mỹ làm thay đổi, cải tạo và nâng đỡ tâm hồn của con người. Chỉ có như vậy thì tác phẩm ấy mới thực sự là một cuốn sách hay và tác giả là một nghệ sĩ đáng quý trọng muôn đời.
Nghị luận về ý kiến Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên - Mẫu 3
Chúng ta cũng có thể nói văn chương giống như một bản nhạc đa thanh điệu và cứ ngân nga mãi những nốt nhạc thật vi diệu trong cuộc sống. Hay nếu ví văn chương như một bức bích họa thì mỗi nhà văn cũng sẽ vẽ lên đó những mảng màu tối sáng, vẽ sao cho thật giống cuộc sống mà lại cũng phải sáng tạo theo cách của riêng mình. Nhưng trong bức tranh đó một người họa sĩ lại có trách nhiệm viết riêng về một bức họa, hay nói cách khác là một bức tranh không vẽ hộ, không sao chép ý tưởng của người khác. Nhận định về điều này thì La Bơ-ruy-e: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra”.
Có thể nhận thấy được khi mà chúng ta đọc một tác phẩm văn học mà tác phẩm văn học đó nâng tinh thần ta lên cao. Bên cạnh đó thì nó dường như cũng lại gợi cho ta những tình cảm cao quý cũng như chính sự can đảm thì chẳng cần phải dùng nguyên tắc đánh giá nào để có thể giúp đánh giá tác phẩm đó nữa mà chắc chắn đó là một tác phẩm hay, hay phải là một cuốn sách hay được một tác nghệ sĩ viết ra thì mới có được tính thống nhất cũng như tình cảm sâu sắc nhất. Thực sự chính những câu nói của nhà văn Pháp La-bơ-ruy-e thực như đã có ý khẳng định giá trị của một tác phẩm văn học. Người ta cũng lại có thể nhận thấy được chính một tác phẩm văn học mà được viết ra có nhiều người đọc thưởng thức. Thế rồi chúng ta cũng nhận thấy được không phải ai ai cũng sẽ nhìn nhận thấy được tác phẩm này hay, bởi vì mỗi người có một sở thích khác nhau.
Bạn đọc cũng lại có được những nguyên tắc đánh giá một tác phẩm giá trị hay không. Thực tế chúng ta chỉ cần biết rằng đó là một tác phẩm mà nó có thể khiến cho tinh thần ta như cũng đã được nâng cao. Một tác phẩm nó thể lại gợi lên cho ta được biết bao tình cảm cao quý thì nó được đánh giá cũng chính là một tác phẩm giá trị do một người nghệ sĩ tài ba viết ra. Ta nên biết được rằng cũng chính bởi khi ấy, nó dường như cũng lại có giá trị tinh thần vô cùng lớn đối với ta rồi. Bạn đọc đọc tác phẩm “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam dường như cũng lại hẳn những người luôn luôn hoài niệm về quá khứ tốt đẹp của họ thì chắc chắn rằng họ cũng sẽ cảm thấy thích thú và say sưa với chính áng văn mềm mại như lên thơ. Thế rồi cũng chính cái thực sự nhẹ nhàng này khiến cho họ nhận thấy được sự đồng cảm từ mình và nhân vật.
La Bơ-ruy-e: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra".
Trong nhân vật Liên và An là nhân vật chính trong đó. Thế rồi chính cảnh phố huyện nghèo gợi cho ta nhớ về những ngày tháng xa xưa cùng với cha mẹ, gợi đến những miền quê còn nghèo, còn đói nhưng lại luôn thấm đẫm tình thương yêu và lấp lánh một niềm hi vọng vào một tương lai tươi sáng. Tác phẩm lại có thể có tác dụng như nâng tâm hồn của ta lên và giúp cho mỗi con người ta được sống trong những khoảnh khắc thân thương cùng những khung cảnh đơn sơ mộc mạc nhất. Chẳng phải đọc bất cứ một bài phê bình nào về tác phẩm này, cũng chẳng cần nghe nhận định của các tác giả khác, ta thấy được giá trị của tác phẩm đối với chính ta.
Không thể nào quên Xuân Diệu viết thi phẩm Vội Vàng với tất cả những tình cảm yêu thương cuộc đời tha thiết biết bao nhiêu. Xuân Diệu cũng lại không ngần ngại mà muốn ôm lấy cả sự sống để mà có thể “cắn” và cũng muốn “xiết” để có thể thỏa mãn được chính sự yêu thương ấy. Người đọc cũng có thể nhận thấy được cũng chính những sự vật hiện tượng, hay đó là những hình ảnh quá đỗi quen thuộc được nhà thơ tái hiện được thành một bức tranh thiên đường trên mặt đất nơi trần thế này. Không những vậy thì người ta thấy ở đó sự sinh sôi nảy nở, đồng thời cũng nhận thấy được ở đó có được cả những hương vị của cuộc sống. Bài thơ “Vội vàng” như cũng giúp cho con người ta thêm yêu cuộc sống, như yêu thiên nhiên này. Xuân Diệu thực sự là nhà thơ mới trong tất cả những nhà thơ mới.
Thêm tác phẩm ra đời không tránh được khỏi sự yêu thích hay chê bai không ngớt đó là tác phẩm “Truyện Kiều” của đại thi Nguyễn Du là một điển hình. Người ta thường thường cũng lại cứ vẫn so sánh Truyện Kiều Việt Nam với Kim Vân kiều truyện của Trung Quốc. Hay ta có thể nhận thấy được có tác phẩm “Tây Tiến” của Quang Dũng cũng chính là một tác phẩm mà từng bị cấm vì coi là mộng rớt buồn rơi. Thế nhưng, tất cả chúng ta cũng đều nhận thấy được cũng ở những tác phẩm đó ta thấy được giá trị về tinh thần, mang được những giá trị hay về con người, về nhân tình thế thái. Chỉ cần mỗi người đọc được và thấy hay là tác phẩm cũng mang giá trị tốt đẹp cho chính chúng ta rồi.
Chính ý kiến của nhà văn Pháp La bo–ruy–e như cũng thật đúng đắn. Người ta cũng lại có thể thấy được một tác phẩm khi ra đời còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nếu như đọ sức sống của tác phẩm thì chắc chắn nó dường như cũng không được quyết định bằng tác giả mà quyền quyết định chính là của đa số người tiếp nhận. Mà ta nên nhớ rằng một tác phẩm có thể hay với người này cũng có thể không hay với người khác. Có lẽ chính vì thế chỉ cần ta thấy được những điều tốt đẹp trong một tác phẩm, để có thể học được ở đó những thứ quý giá thì khi ấy tác phẩm đã có giá trị với mỗi người.
Nghị luận về ý kiến Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên - Mẫu 4
Có thể nói văn chương giống như một bản nhạc mà trong đó những câu chữ là lời bài hát, giọng điệu là giai điệu, cũng có thể nói văn chương giống như một bức họa lớn mà ở đó con người thấy được cảnh sống của mình, của mọi người xung quanh mình. Những bài hát ấy, những bức họa ấy sẽ có giá trị lớn đối với tinh thần của chúng ta. Nói về văn chương, nhà văn Pháp La-bơ-ruy-e cũng từng nhận định rằng: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra”.
Khi chúng ta đọc một tác phẩm văn học mà tác phẩm văn học đó nâng tinh thần ta lên cao, đồng thời nó gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm thì chẳng cần phải dùng nguyên tắc đánh giá nào để đánh giá tác phẩm đó nữa mà chắc chắn đó là một tác phẩm hay, một cuốn sách hay được một tác nghệ sĩ viết ra. Câu nói của nhà văn Pháp La-bơ-ruy-e có ý khẳng định giá trị của một tác phẩm văn học. Một tác phẩm văn học viết ra có nhiều người đọc thưởng thức, không phải ai cũng thấy được tác phẩm này hay vì mỗi người có một sở thích khác nhau. Bỏ qua những nguyên tắc đánh giá một tác phẩm giá trị hay không, chúng ta chỉ cần biết rằng đó là một tác phẩm khiến cho tinh thần ta được nâng cao và gợi lên cho ta những tình cảm cao quý thì nó là một tác phẩm giá trị do một người nghệ sĩ tài ba viết ra. Bởi khi ấy, nó có giá trị tinh thần vô cùng lớn đối với ta rồi.
Ví dụ như khi đọc tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam hẳn những người luôn hoài niệm về quá khứ sẽ cảm thấy thích thú và say sưa với áng văn mềm mại và nhẹ nhàng như một bài thơ trữ tình của tác giả này. Chúng ta như được trở về tuổi thơ cùng hai nhân vật An và Liên. Cảnh phố huyện nghèo gợi cho ta nhớ về những ngày tháng xa xưa cùng với cha mẹ, gợi đến những miền quê còn nghèo, còn đói nhưng lại luôn thấm đẫm tình thương yêu và lấp lánh một niềm hi vọng vào một tương lai tươi sáng. Tác phẩm nâng tâm hồn của ta lên và giúp ta được sống trong những khoảnh khắc thân thương cùng những khung cảnh đơn sơ mộc mạc nhất. Chẳng phải đọc bất cứ một bài phê bình nào về tác phẩm này, cũng chẳng cần nghe nhận định của các tác giả khác, ta thấy được giá trị của tác phẩm đối với chính ta.
Hay tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân. Một nền nghệ thuật, những thú vui nho nhã của những bậc thi nhân nay chỉ còn là thứ vang bóng một thời được tái hiện qua tác phẩm. Ở đó người đọc học được sự gan dạ và khí phách hiên ngang của người anh hùng tử tù Huấn Cao, tác phẩm khiến cho ta yêu cái đẹp và nhận thấy được sức mạnh của cái đẹp khiến cho con người gắn kết lại với nhau hơn.
Xuân Diệu viết Vội Vàng với tất cả những tình cảm yêu thương cuộc đời tha thiết. Ông muốn ôm lấy cả sự sống mà cắn mà xiết cho thỏa mãn sự yêu thương ấy. Những sự vật hiện tượng, những hình ảnh quá đỗi quen thuộc được nhà thơ tái hiện thành một bức tranh thiên đường trên mặt đất, người ta thấy ở đó sự sinh sôi nảy nở, thấy được ở đó hương vị của cuộc sống. Bài thơ giúp cho con người ta thêm yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên này. Vậy chẳng có cớ gì mà chê bai bài thơ cả. Và phải nói Xuân Diệu quả là một người nghệ sĩ tài ba khi làm nên một bài thơ như vậy.
Một tác phẩm ra đời không tránh được khỏi sự yêu thích hay chê bai. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một điển hình. Người ta vẫn so sánh Truyện Kiều Việt Nam với Kim Vân kiều truyện của Trung Quốc. Hay tác phẩm Tây Tiến của Quang Dũng từng bị cấm vì coi là mộng rớt buồn rơi. Thế nhưng ở những tác phẩm đó ta thấy được giá trị về tinh thần, về con người, về nhân tình thế thái. Chỉ cần nó hay với ta tức là nó có giá trị với ta rồi.
Như vậy qua đây có thể khẳng định rằng ý kiến của nhà văn Pháp vô cùng đúng đắn. Một tác phẩm khi ra đời còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Sức sống của nó không được quyết định bằng tác giả mà quyền quyết định chính là của đa số người tiếp nhận. Một tác phẩm có thể hay với người này cũng có thể không hay với người khác. Vì thế chỉ cần ta thấy được những điều tốt đẹp trong một tác phẩm, học được ở đó những thứ quý giá thì khi ấy tác phẩm đã có giá trị với ta rồi.
Nghị luận về ý kiến Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên - Mẫu 5
Có rất nhiều ý kiến khác nhau bàn về cách đánh giá giá trị của văn chương. Có người chú trọng nghệ thuật, có người chú trọng nội dung. Nhà văn Pháp La Bơ -ruy -e cũng đã đưa ra được một cách đánh giá giá trị tác phẩm văn học của mình. Ông viết " Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và cân đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay do một nghệ sĩ viết ra"
Đúng vậy! Nhà văn La Bơ-ruy-e cũng bày tỏ ý kiến về cách đánh giá một tác phẩm văn chương và một nghệ sĩ chân chính. Theo ông, tác phẩm nào có ảnh hưởng lớn lao tới đời sống tinh thần của con người theo chiều hướng tích cực thì đó là một cuốn sách hay, đích thực là văn chương và người viết ra nó xứng đáng được gọi là nghệ sĩ. Câu nói của nhà văn Pháp La Bo ruy e có ý khẳng định giá trị của một tác phẩm văn học. Một tác phẩm văn học viết ra có nhiều người đọc thưởng thức, không phải ai cũng thấy được tác phẩm này hay vì mỗi người có một sở thích khác nhau. Bỏ qua những nguyên tắc đánh giá một tác phẩm giá trị hay không, chúng ta chỉ cần biết rằng đó là một tác phẩm khiến cho tinh thần ta được nâng cao và gợi lên cho ta những tình cảm cao quý thì nó là một tác phẩm giá trị do một người nghệ sĩ tài ba viết ra. Bởi khi ấy, nó có giá trị tinh thần vô cùng lớn đối với ta rồi.
Văn học đến với con người bằng con đường tình cảm, cảm xúc. Nó mang tạt cho con người những rung cảm sâu xa trước vẻ đẹp của quê hương, đất nước, trước cuộc sống phong phú, đa dạng muôn màu muôn vẻ và nhất là trước chiều sâu của thế giới tâm hồn. Mục đích trước tiên và quan trọng của văn học là giúp con người đối chiếu, liên tưởng, suy ngẫm về cuộc đời và về chính bản thân, nâng cao niềm tin vào bản thân để từ đó có nhận thức đúng đắn hơn, có khát vọng hướng tới chân lí, dám đấu tranh chống cái xấu, cái ác; biết tìm tòi và hướng tới cái Đẹp, cái Thiện của cuộc sống. Đó chính là văn học chân chính có khả năng cảm hóa, nhân đạo hóa, xứng đáng là bạn tốt của con người. Tư tưởng này của ông gần giống với tư tưởng của hai nhà văn, hai nhà hiện thực văn học lớn của Việt Nam là Thạch Lam và Nam Cao. Thạch Lam cho rằng: Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại, văn chương là một thứ khi giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn. Còn Nam Cao đã thông qua nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa để bày tỏ quan điểm của mình về tác phẩm văn chương, về nhà văn chân chính. Là một nhà văn, Hộ từng ấp ủ một hoài bão lớn về sự nghiệp văn chương của mình. Anh mong ước sẽ sáng tạo ra những tác phẩm thật sự có giá trị, vượt lên tất cả bờ cõi và giới hạn. Quan điểm về văn chương của Hộ cũng hết sức tiến bộ : Một tác phẩm văn chương đích thực phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn. Nhà văn phải là những người nghệ sĩ vừa có tâm vừa có tài, trong sáng tác phải tạo cho mình một phong cách riêng, một dấu ấn riêng không thể lẫn với bất cứ ai khác; vì: Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có (Nam Cao).
Chúng ta có thể thâý có những tác phẩm được coi là kinh điển, hay những tác phẩm mang giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật to lớn- những tác phẩm ấy không viết về những cái cao siêu, mà chỉ đơn thuần viết những cái gì giản đơn, thân thuộc gần gũi với con người. Bởi những cái đó, nó gắn bó với cuộc sống của con người, khiến người đọc như cảm nhận được mình trong chính tác phẩm, thấy tiếng lòng của mình được nói ra. Ví dụ như tác phẩm hai đứa trẻ trong tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam ngày nào cũng ngồi đợi chuyến tàu đêm. Hay tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân kể về anh cu Tràng nhặt được vợ giữa ngày đói, rồi tác phẩm Chí Phèo, Đời thừa của Nam Cao. Bên cạnh đó, cũng có nhiều tác phẩm văn học thế giới kinh điển cũng đã chứng minh điều này ví dụ như bộ tiểu thuyết Những người khốn khổ của Vích-to Huy-gô là bài ca tuyệt vời về tình thương yêu con người, về đức vị tha, hi sinh đến quên mình. Nhân vật Giăng Van-giăng là “nhân vật tư tưởng” tiêu biểu cho chủ nghĩa nhân đạo của nhà văn. Người thợ làm vườn nghèo khổ này vì thương đàn cháu mồ côi nheo nhóc, đói khát nên đã liều đập vỡ cửa kính tiệm bán bánh mì để lấy cắp một ổ bánh. Bị kết án khổ sai, Giăng Van-giăng mấy lần tìm cách vượt ngục nhưng không thành nên thời gian ngồi tù cứ kéo dài ra mãi. Sau khi được trả tự do, vì hoàn cảnh ngặt nghèo, Giăng Van-giăng lại phạm tội cướp đồng xu của một đứa trẻ và lấy cắp bộ đồ ăn bằng bạc của giám mục Mi-ri-en. Sự độ lượng và lòng bác ái của vị giám mục nhân từ đã cứu Giăng Van-giăng thoát vòng lao lý và nó tác động rất lớn tới tư tưởng, tình cảm của con người tội nghiệp này. Nó đóng vai trò quyết định trong việc thay đổi cuộc sống và tính cách của Giăng Van-giăng...
Như vậy, ý kiến của nhà văn Pháp La Bơ-ruy-e hoàn toàn đúng, góp phần trong việc khẳng định vai trò quan trọng của chức năng giáo dục trong văn chương và nêu lên cách đánh giá đúng đắn về – tài năng người nghệ sĩ. Văn chương đem lại cho con người những giá trị tinh thần cao quý, giúp con người hướng tới Chân, Thiện, Mỹ trong cuộc sống. Những tác phẩm văn học có giá trị nội dung, tư tưởng; giá trị nghệ thuật cao sẽ vượt qua thử thách khắc nghiệt của dư luận, của thời gian, không gian để trở thành kiệt tác muôn đời của nhân loại. Đúng như La Bơ-ruy-e khẳng định:… đó là một cuốn sách hay và người viết ra nó xứng đáng là một nghệ sĩ đích thực.