Dẫn chứng liên hệ Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân tổng hợp rất nhiều dẫn chứng hay, áp dụng cho nhiều đề văn nghị luận khác nhau xoay quanh bài Người lái đò sông Đà.
Liên hệ mở rộng Người lái đò sông Đà nhằm đưa ra dẫn chứng để làm rõ vấn đề hoặc so sánh là rất tốt. Tuy nhiên các bạn học sinh cần tránh lạm dụng để mắc phải các lỗi như sau: đưa quá nhiều ngữ liệu vào để phân tích, so sánh. Điều đó sẽ khiến cho bài văn bị loãng, không đúng trọng tâm vấn đề, bài phân tích không sâu. Vậy sau đây là dẫn chứng Người lái đò sông Đà chi tiết nhất mời các bạn đón đọc. Bên cạnh đó các em xem thêm cách thay thế từ/cụm từ trong bài nghị luận văn học.
Lên hệ mở rộng Người lái đò sông Đà cực hay
1.Dẫn chứng liên hệ phần mở bài
VD1:
"Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền, vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi"
(Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm)
Đó là những vần thơ đẹp mà nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã cất lên khi nói về những dòng sông quê hương. Quê hương Việt Nam thật đẹp và yên bình, là mảnh đất màu mỡ để các nhà văn nhà thơ thỏa sức sáng và cho ra đời những tác phẩm hay và ý nghĩa. Và Nguyễn Tuân – bậc thầy ngôn ngữ đã viết về con sông Đà một cách hết sức sáng tạo không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác mà còn là một sinh thể có hoạt động, tính cách và cá tính. Dòng sông Đà trong trích đoạn “Người lái đò sông Đà” hiện lên với hai nét tính cách hung bạo và trữ tình….
2. Dẫn chứng liên hệ miêu tả vẻ đẹp trữ tình sông Đà
VD1:
GS.TS Trần Đình Sử đã từng nói: “Màu sắc trong văn học chẳng những là phương tiện miêu tả thế giới, mà còn là phương tiện thể hiện cái nhìn nghệ thuật với cuộc đời”. Miêu tả về sắc nước sông Đà, Nguyễn Tuân đã tinh tế quan sát phát hiện màu nước sông thay đổi theo mùa. Quả thực là vẻ đẹp đa hình, đa sắc. Có thể nói rằng màu xanh là một trong những màu sắc chủ đạo của văn chương nghệ thuật, là biểu tượng của tình cảm sâu lắng, nhẹ nhàng, trong sáng mà tinh khiết… Đến với Nguyễn Tuân, sắc xanh ấy không còn là “Con sóng xanh lơ, mái rừng xanh đậm” như thơ của Tế Hanh mà đó là sắc xanh ngọc bích khi tiết trời xuân, gợi nên sự thanh cao, quý giá và êm đềm của Đà giang…
VD2:
Nhà thơ Tố Hữu đã từng thảng thốt mà cất lên trước dòng sông:
Yêu biết mấy những dòng sông bát ngát
Giữa đôi bờ dào dạt lúa ngô non
Yêu biết mấy những con đường ca hát
Ở công trường mới dựng mái nhà son
Ôi đó là dòng sông bát ngát với thiên nhiên trù phú hoà với nhịp sống lao động say sưa. Đến với Đà giang, Nguyễn Tuân đã vẽ ra những tầm nhìn rất khác. Đà giang hiện lên với vẻ đẹp yên ả, thanh bình đến lạ… Vẻ đẹp hoang sơ cổ kính ấy tồn tại từ đời Lý đời Trần đời Lê toát lên dáng đứng sừng sững của lịch sử. Chính điều đó khiến cho Đà giang trở nên đặc biệt, độc đáo rất riêng, khác hẳn so với nhịp sống hiện đại.
VD3:
Hoàng Phủ Ngọc Tường viết về dòng sông Hương trong bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông:”người ta luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi”, từ đây, như đã tìm đúng đường về, dòng sông vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô kim long”. Vẻ đẹp mềm mại, nữ tính này của dòng sông Hương có nét rất giống với sông Đà. Dưới con mắt tài hoa đậm chất nghệ sĩ của bậc thầy ngôn ngữ Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên với mái tóc mềm mại uốn lượn quanh co tuôn chảy từ dãy núi hùng vĩ của biên giới Tây Bắc trôi chảy về đồng bằng, lặng lẽ hoà vào sông Hồng rồi đổ ra biển lớn…
3. Dẫn chứng liên hệ vẻ đẹp hung bạo của dòng sông Đà
VD1:
Ca dao xưa có câu:
“Đường lên Mường Lễ bao xa
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”
Ý là để nói sông Đà có nhiều thác dữ, nguy hiểm chồng chất khiến con người không khỏi lo lắng và khiếp sợ. Quả thực, phải đến sông Đà, hoà mình vào không gian thiên nhiên đại ngàn thì mới cảm nhận được hết vẻ đẹp hùng vĩ của dòng sông.
VD2:
Ta phải thẳng thắn mà công nhận rằng “Nguyễn Tuân là nhà văn của những cảm giác mạnh” (GS.Nguyễn Đăng Mạnh) vì quả thực Nguyễn Tuân rất dũng cảm khi “du ngoạn” Đà giang với cảnh “đá bờ sông dựng vách thành”, cảnh mặt ghềnh Hát Loong “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm”… trùng trùng điệp điệp thác nước dữ với cạm bẫy rình rập. Tưởng chừng như chỉ cần con người ta sơ sẩy là chúng hăm he nuốt trọn vẹn miếng mồi thơm ngon và bổ béo.
4. Dẫn chứng liên hệ Hình tượng ông lái đò sông Đà
VD1:
Ông lái đò được ghi tạc qua ngòi bút của Nguyễn Tuân là một người với ngoại hình cao to, gọn quánh như chất rừng chất mun. Ông hiện lên với biểu tượng của con người giàu trải nghiệm với nhiều năm gắn bó với sông Đà. Trong tận sâu tâm khảm của người lái đò, có lẽ Đà giang không chỉ là một người bạn đơn thuần mà còn là một người tâm giao, tri kỉ bởi lẽ chừng ấy năm gắn bó, ông hiểu sông Đà như hiểu chính bản thân mình vậy, ông làm chủ cuộc vượt thác như một người chỉ huy tài ba, chèo lái con thuyền một cách đầy chủ động, thông minh và khéo léo:
“Sống cuộc đời sông nước
Tôi lấy nước làm nhà
Nước là bầu là bạn
Tôi nhìn nước trên sông..”
(Trích Với sông Đà – Nhà thơ Vũ Quần Phương )
5. Liên hệ mở rộng Người lái đò sông Đà
1. Đây là tác phẩm tiêu biểu cho giai đoạn sáng tác sau Cách mạng tháng Tám của Nguyễn Tuân. “Nó nói rằng ngòi bút ấy đã đạt tới độ chín mới về tư tưởng và nghệ thuật”. (Nguyễn Đăng Mạnh)
2. "...Đọc “Sông Đà” thấy Tổ quốc ta thật là giàu đẹp. Chỉ nói riêng Than Uyên có nào mỏ xi măng thiên tạo, mỏ thạch anh làm thuỷ tinh ngũ sắc và đồ sứ, mỏi than mở, mỏ lần tinh, mỏ đồng, mỏ chì...Cảnh Tây Bắc thì tuyệt đẹp, ở đâu tác giả cũng nổi hứng nghệ sĩ muốn cắm ngay giá vẽ mà vẽ. Núi lớp lớp mênh mông như biển, sông trắng xóa như từng súc lụa tung trai ra, những thung lũng lúa chín vàng chóe lên, trên đó mây trắng điểm lơ lửng như thêu nổi vv… nhiên mà còn đi tìm vẻ đẹp Nhưng “Sông Đà” không chỉ nói vẻ đẹp thiên của lòng người. Ông gọi đó là chất vàng mười của tâm hồn con người Tây Bắc. Ông ngược dòng lịch sử tìm chất vàng đó ở những chiến sĩ cách mạng kiên cường đã theo gương bất khuất ở nh Sơn La, ở những cán bộ hoạt động bí mật hồi Tây Bắc bị giặc chiếm đã vượt qua những thử thách khủng khiếp để gây cơ sở cách mạng ở những chiến sĩ quân đội, những anh chị em dân công hồn tiến quân vào Điện Biên...”
(Nguyễn Đăng Mạnh “Sông Đà” Trích “Nhà văn Tư tưởng và phong cách NXB Văn học – 1983)
3. Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thử văn đề người nông nổi thưởng thức. (Vũ Ngọc Phan)