Bài thơ về tiểu đội xe không kính đã khắc họa thành công hình ảnh người lính lái xe, với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp mọi hiểm nguy. Vậy Bài thơ về tiểu đội xe không kính được sáng tác trong hoàn cảnh nào?
Hoàn cảnh sáng tác vô cùng quan trọng bởi trong bất cứ đề văn liên quan đến phân tích, cảm nhận nào thì phần mở bài chúng ta phải nêu được hoàn cảnh sáng tác. Vậy mời các em cùng tham khảo bài viết dưới đây của Download.vn để hiểu rõ hơn:
Hoàn cảnh sáng tác Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật
- Hoàn cảnh sáng tác Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Mẫu 1
- Hoàn cảnh sáng tác Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Mẫu 2
- Hoàn cảnh sáng tác Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Mẫu 3
- Hoàn cảnh sáng tác Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Mẫu 4
- Bố cục Bài thơ về tiểu đội xe không kính
- Giới thiệu về Phạm Tiến Duật
Hoàn cảnh sáng tác Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Mẫu 1
Bài thơ được viết năm 1969, trong thời kì cuộc chiến tranh chống Mĩ đang diễn ra ác liệt, lấy cảm hứng từ hiện thực những chiếc xe tải ngày đêm vận chuyển nhu yếu phẩm chi viện cho miền Nam ruột thịt trên tuyến đường Trường Sơn bị bom giật, bom rung khiến chúng đều không còn cửa kính, Phạm Tiến Duật đã sáng tác bài thơ này.
Hoàn cảnh sáng tác Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Mẫu 2
Bài thơ sáng tác năm 1969 trên tuyến đường Trường Sơn, trong thời kì kháng chiến chống Mĩ diễn ra ác liệt. Bài thơ thuộc chùm thơ được tặng giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969, in trong tập “Vầng trăng quầng lửa”.
Hoàn cảnh sáng tác Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Mẫu 3
Bài thơ về tiểu đội xe không kính nằm trong chùm thơ của Phạm Tiến Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969. Sau này bài thơ được đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” (1970) của tác giả.
Hoàn cảnh sáng tác Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Mẫu 4
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được sáng tác trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra rất khốc liệt. Bài thơ nằm trong chùm thơ của Phạm Tiến Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969. Sau này bài thơ được đưa vào tập thơ Vầng trăng quầng lửa (1970) của tác giả. Khi in lại bài thơ này, có nhà biên tập có ý muốn bỏ đi ba chữ đầu tiên, chỉ để lại “Tiểu đội xe không kính”, vì cho rằng “ba chữ bài thơ về là thừa ra, vì ai đọc lên chẳng biết đây là bài thơ”. Như vậy là chưa hiểu được ý của tác giả. Ở bài thơ này, để nói sự lạc quan của lính vận tải trên đường Trường Sơn, tác giả nhìn thực tế bằng con mắt chiến sĩ lái xe: Mọi gian khổ, khó khăn chỉ là chuyện vặt, xe không có kính có cái hay, cái được mà xe có kính không có! Hay nói một cách khác, tác giả viết bài thơ này để ngợi ca tiểu đội xe không kính mà nội dung sự ngợi ca đó đã báo trước trong ba chữ bài thơ về nằm ở đầu đề.
Bố cục Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Gồm 4 phần:
- Phần 1: Từ đầu đến “Như sa như ùa vào buồng lái”. Tư thế hiên ngang của người lính lái xe.
- Phần 2: Tiếp theo đến “Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”. Tinh thần lạc quan của người lính lái xe trước hoàn cảnh nguy hiểm, khó khăn.
- Phần 3. Tiếp theo đến “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Tình động đội của những người lính.
- Phần 4. Còn lại. Lòng yêu nước, quyết tâm chiến đầu vì miền Nam, vì tổ quốc.
Giới thiệu về Phạm Tiến Duật
- Phạm Tiến Duật (1941 - 2007) quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.
- Sau khi tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, Phạm Tiến Duật gia nhập quân đội, hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn.
- Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước.
- Thơ ông tập trung thể hiện hình ảnh các người lính và cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
- Giọng thơ của Phạm Tiến Duật trẻ trung, sôi nổi, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc.
- Phạm Tiến Duật được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001 và được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2012.
- Một số tác phẩm tiêu biểu:
- Vầng trăng quầng lửa (thơ, 1970)
- Ở hai đầu núi (thơ, 1981)
- Vầng trăng và những quầng lửa (thơ, 1983)
- Thơ một chặng đường (tập tuyển, 1994)
- Nhóm lửa (thơ, 1996)
- Tiếng bom và tiếng chuông chùa (trường ca, 1997)
- Tuyển tập Phạm Tiến Duật (in xong đợt đầu ngày ngày 17 tháng 11 năm 2007, khi Phạm Tiến Duật đang ốm nặng).
- Vừa làm vừa ghi (tập tiểu luận, 2003)...