Dàn ý phân tích hình tượng con sông Đà trong Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân mang đến 11 mẫu dàn ý chi tiết đầy đủ nhất kèm theo sơ đồ tư duy. Qua đó giúp các bạn học sinh nắm vững được kiến thức nắm được các luận điểm chính để biết cách triển khai bài văn phân tích hình tượng sông Đà hay đầy đủ các ý.
TOP 11 Dàn ý vẻ đẹp của con sông Đà dưới đây được viết rất chi tiết, rõ ràng, dễ hiểu có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, sẽ giúp các em học môn Ngữ văn tốt hơn và có sự chuẩn bị tốt hơn khi học. Vậy dưới đây là TOP 11 Dàn ý hình tượng con sông Đà chi tiết nhất mời các bạn cùng theo dõi. Bên cạnh đó các bạn xem thêm dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà, Dàn ý hình tượng người lái đò sông Đà.
Dàn ý phân tích hình tượng con sông Đà hay nhất
- Sơ đồ tư duy hình tượng sông Đà
- Dàn ý sông Đà hung bạo - Mẫu 1
- Dàn ý hình tượng con sông Đà hung bạo - Mẫu 2
- Dàn ý phân tích hình tượng sông Đà - Mẫu 3
- Dàn ý phân tích hình tượng con sông Đà - Mẫu 4
- Dàn ý phân tích hình tượng con sông Đà - Mẫu 5
- Dàn ý phân tích hình tượng con sông Đà - Mẫu 6
- Dàn ý phân tích hình tượng con sông Đà - Mẫu 7
- Dàn ý phân tích hình ảnh con sông Đà - Mẫu 8
- Dàn ý vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà - Mẫu 9
- Dàn ý hình tượng con sông Đà - Mẫu 10
- Lập dàn ý hình tượng sông Đà - Mẫu 11
Sơ đồ tư duy hình tượng sông Đà
Mẫu 1
Mẫu 2
Dàn ý sông Đà hung bạo - Mẫu 1
Dàn ý số 1
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Dẫn dắt vấn đề
2. Thân bài
- Hướng chảy của sông Đà cho thấy đó là một dòng sông đầy cá tính “Chúng thủy giai đông ...”.
- Bờ sông dựng vách thành: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá ... như một cái yết hầu”
- Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đò.
- Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”, thuyền qua đoạn hút nước “y như ô tô ...mượn cạp ngoài bờ vực”,
- Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:
- Xa: âm thanh thác đá “con xa lắm” mà đã nghe tiếng thác “réo gần mãi lại, réo to mãi lên”, âm thanh ấy hiện lên với nhiều trạng thái khi “oán trách”, lúc “van xin”, khi “khiêu khích”, “chế nhạo”; cách so sánh độc đáo: “rống lên như một ngàn con trâu ... cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước).
- Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “méo mó”, “”hất hàm”, “oai phong”, “bệ vệ”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “canh”, “đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”
- Sự biến hóa linh hoạt của trùng vi thạch trận: có 3 vòng, vòng 1 có 5 cửa sinh, một cửa tử (tả ngạn), vòng 2 có nhiều cửa tử, 1 cửa sinh (hữu ngạn), vòng 3 có ít cửa và 1 cửa sinh (giữa), gơi hình ảnh con sông Đà có tâm địa nham hiểm, mẹo lược, biến hóa khôn lường.
- Nhận xét: sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng thác hùm beo”, thứ kẻ thù số một của con người
3. Kết bài
- Khái quát lại vấn đề
Dàn ý số 2
a) Mở bài
– Là một nhà văn tài hoa rất độc đáo, tác giả Nguyễn Tuân thích miêu tả những cái gì dữ dội, mãnh liệt hoặc với những đẹp một cách tuyệt đỉnh. Những trang viết hay nhất của ông thường là trang tả đèo cao, vực sâu, thác nước.
– Nguyễn Tuân yêu thiên nhiên tha thiết, khi ông có nhiều phát hiện tinh tế về vẻ đẹp của núi sông, cỏ cây trên khung hình đất nước mình. Bút kí “Người lái đò sông Đà” đã thể hiện đậm nét phong cách nhà văn Nguyễn Tuân. Cảm hứng về dòng sông Đà “hung bạo và trữ tình” với sự chảy trên trang văn của Nguyễn Tuân biến vùng sông nước ấy thành một hình tượng nghệ đặc sắc.
b) Thân bài
* Phân tích tính cách hung bạo của dòng sông Đà:
– Vách đá “đá bờ sông dựng vách thành” những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy lòng sông hẹp. Cái hẹp của lòng sông của tác giả tả theo đủ cách:
- “Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ cũng mới có mặt trời”
- “Con hổ con nai có thể vọt qua sông, và cũng chỉ cần nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ bên này rồi qua bên kia vách”
- “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, khi mà đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà với sự ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào trên các tầng nhà thứ mấy nào cũng vừa tắt phụt đèn điện”
-> So sánh vừa chính xác, rất tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng. Cảm giác như Nguyễn Tuân luôn lục lọi đến tận những kiệt cùng cái kho ấn tượng ăm ắp này để tìm cho được một trong những cách nói có thể làm kinh động hồn trí con người.
– Gió trên sông Đà: “Dài hàng cây số nước xô đá, có đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt nhiều năm” -> bằng chính những lối viết tài hoa, những câu văn diễn đạt theo nhiều kiểu móc xích, cấu trúc câu trùng điệp, gợi hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, đã dữ dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt hết con người.
– Những hút nước ở quãng Tà Mường Vát khi: “nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc” và “chỗ giếng nước sâu ặc ặc lên”, “những cái hút nước lôi tuột bè gỗ xuống hoặc hút những chiếc thuyền xuống rồi cũng đánh chúng tan xác” -> Lối so sánh độc đáo khiến con sông Đà không khác gì những loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như muốn khủng bố đến tinh thần và uy hiếp con người.
– Âm thanh những con thác nước sông Đà:
Nguyễn Tuân như một người nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật hùng tráng bài ca của gió thác đá xô sóng đá.
Ban đầu tác giả mới để cất lên khúc như đang “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích” và “giọng gằn mà chế nhạo”. Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ, với các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở chính đỉnh điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại mà: “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa những rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa”, “rừng lửa cùng cần gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng” -> với sự liên tưởng vô cùng phong phú, âm thanh của thác nước sông Đà được tác giả Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì những âm thanh của một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa với thời tiền sử. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, khi mà Nguyễn Tuân quả là đã chơi ngông lắm khi trong nghệ thuật.
– Bằng thủ pháp nhân hóa, người đã đọc nhận ra từng sắc diện người trong những hình thù đá vô tri. Nhà văn Nguyễn Tuân đã dùng đến sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào từng thớ đá là: “Cả một chân trời đá” mặt hòn nào cũng trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó” -> Những hòn đá đã vô tri vô giác nhưng qua cái nhìn của Nguyễn Tuân chúng mang dáng vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại, hung dữ với ba trùng vi thạch trận.
- Trùng vi thạch trận thứ I: Bọn đá đứa thì “hất hàm” đứa thì “thách thức”, “mặt nước hò la ùa vào bẻ gãy cán chèo”, khi sóng nước “đá trái, thúc gối vào bụng vào bên hông thuyền”.
- Trùng vi thạch trận thứ II: “Sông nước bài binh bố trận ở khắp nơi, tăng nhiều cửa tử, cửa sinh đã nằm ở phía hữu ngạn”
- Trùng vi thạch trận thứ III: Sông Đà sắp đặt bên phải bên trái đều là những luồng chết, luồng sống ở ngay giữa.
=> Con sông Đà hung bạo, tàn ác không hề khác gì “kẻ thù số một của con người”. Nhưng cũng chính từ hình ảnh con sông ấy lại chính là kẻ tôn vinh tài năng nghệ thuật tài hoa, tài tử và thật cực kì uyên bác của một ngòi bút số một về thể loại tùy bút của đất nước Việt Nam.
c) Kết bài
Cảm nhận của các bạn về tính cách hung bạo và đầy những biến động của sông Đà.
Dàn ý hình tượng con sông Đà hung bạo - Mẫu 2
a) Mở bài:
- Là một nhà văn tài hoa, độc đáo, Nguyễn Tuân thích miêu tả những cái gì dữ dội, mãnh liệt hoặc đẹp một cách tuyệt đỉnh. Những trang viết hay nhất của ông thường là những trang tả đèo cao, vực sâu, thác nước.
- Nguyễn Tuân yêu thiên nhiên tha thiết, ông có nhiều phát hiện tinh tế về vẻ đẹp của núi sông, cỏ cây trên đất nước mình. Bút kí "Người lái đò sông Đà" đã thể hiện đậm nét phong cách Nguyễn Tuân. Cảm hứng về dòng sông Đà "hung bạo và trữ tình" chảy trên trang văn của Nguyễn Tuân biến vùng sông nước ấy thành một hình tượng nghệ thuật đặc sắc.
b) Thân bài:
* Phân tích tính cách hung bạo của con sông Đà:
- Vách đá "đá bờ sông dựng vách thành" và những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy lòng sông hẹp. Cái hẹp của lòng sông tác giả tả theo đủ cách:
- "Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời"
- "Con hổ con nai có thể vọt qua sông, và chỉ cần nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách"
- "Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện"
-> So sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng. Cảm giác như Nguyễn Tuân luôn lục lọi đến tận kiệt cùng cái kho ấn tượng ăm ắp này để tìm cho được một cách nói có thể làm kinh động hồn trí con người.
- Gió trên sông Đà: "Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm" -> bằng lối viết tài hoa, những câu văn diễn đạt theo kiểu móc xích, cấu trúc câu trùng điệp, gợi hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, dữ dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt con người.
- Những hút nước ở quãng Tà Mường Vát: "nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc", "chỗ giếng nước sâu ặc ặc lên", "những cái hút nước lôi tuột bè gỗ xuống hoặc hút những chiếc thuyền xuống rồi đánh chúng tan xác" -> Lối so sánh độc đáo khiến con sông Đà không khác gì loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như muốn khủng bố tinh thần và uy hiếp con người.
- Âm thanh thác nước sông Đà:
- Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật hùng tráng bài ca của gió thác xô sóng đá.
- Ban đầu tác giả mới để cất lên khúc như đang "oán trách", "van xin", "khiêu khích", "giọng gằn mà chế nhạo". Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ, các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại: "nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa", "rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng" -> Sự liên tưởng vô cùng phong phú, âm thanh của thác nước sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì âm thanh của một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, Nguyễn Tuân quả là đã chơi ngông lắm trong nghệ thuật.
- Bằng thủ pháp nhân hóa, người đọc nhận ra từng sắc diện người trong những hình thù đá vô tri. Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào từng thớ đá: "Cả một chân trời đá" mặt hòn nào trông cũng "ngỗ ngược", "nhăn nhúm", "méo mó" -> Những hòn đá vô tri vô giác nhưng qua cái nhìn của Nguyễn Tuân chúng mang vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại và hung dữ với ba trùng vi thạch trận.
- Trùng vi thạch trận thứ I: Bọn đá đứa thì "hất hàm" đứa thì "thách thức", "mặt nước hò la ùa vào bẻ gãy cán chèo", sóng nước "đá trái, thúc gối vào bụng vào hông thuyền".
- Trùng vi thạch trận thứ II: "Sông nước bài binh bố trận ở khắp nơi, tăng nhiều cửa tử, cửa sinh nằm ở phía hữu ngạn"
- Trùng vi thạch trận thứ III: Sông Đà sắp đặt bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở ngay giữa.
=> Con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác gì "kẻ thù số một của con người". Nhưng cũng chính từ hình ảnh con sông ấy lại là kẻ tôn vinh tài năng nghệ thuật tài hoa, tài tử và cực kì uyên bác của một ngòi bút số một về thể loại tùy bút Việt Nam.
c) Kết bài:
Cảm nhận của em về tính cách hung bạo của sông Đà.
Dàn ý phân tích hình tượng sông Đà - Mẫu 3
I. Mở Bài
- Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống.
- Ông có sở trường về thể loại tuỳ bút. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là tùy bút “ Người lái đò sông Đà”.
- Tác phẩm đã khắc hoạ vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kỳ vĩ trên dòng sông.
II. Thân Bài
1. Giới thiệu chung.
- Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” được in trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960), gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc.
- Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp,đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
- Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vỹ và tuyệt vời thơ mộng, NT còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc.”
- Qua “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc họa những nét thơ mộng, hùng vỹ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình.
- Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới : chất vàng mười của đất nước trong xây dựng CNXH qua hình ảnh người lái đò sông Đà.Từ đó nhà văn ca ngợi sông Đà, núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử, tài hoa.
2. Phân tích hình tượng dòng sông Đà.
- Trước hết, con sông đà được Nguyễn Tuân miêu tả là dòng sông hung bạo, dữ dội. Khi hung bạo, sông Đà là kẻ thù số một sẵn sàng cướp đi mạng sống con người, có tâm địa độc ác như người dì ghẻ. Để khắc họa tính cách của sông Đà, tác giả đã dựng lại khúc sông nguy hiểm. Đó là đoạn cảnh đá bờ sông dựng đứng vách thành: chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Đó là quãng Hát Loóng dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đây. Lại một đoạn sông khác, sông Đà là cái hút nước xoáy tít. Có những thuyền đã bị nó hút tụt xuống, thuyền trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi đến mười phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới..Nhưng dữ dội nhất là ở những thác đá. Nguyễn Tuân đã buộc sự dữ dội, nham hiểm của sông Đà phải hiện lên thành hình và gào thét bằng trăm ngàn âm thanh. Chưa thấy sông nhưng người ta đã bị đe dọa bởi tiếng thác nước nghe như oán trách gì, rồi lại như van xin, rồi lại như khiêu khích, giọng nghe gằn mà chế nhạo. Tác giả đã dựng lại cuộc thuỷ chiến giữa sông Đà và người lái đò để lột tả cho được tính hung bạo của nó và tài nghệ của người lái đò. Thác đá được xếp thành từng tuyến mà nhà văn gọi là thạch trận, nhằm ăn chết cái thuyền đơn độc. Ở tuyến một, thác đá mở ra năm cửa trận, bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn. Ở tuyến hai, tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại nằm bên phía hữu ngạn. Ở tuyến bã, bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống nằm ở giữa. Người lái đò phải nhắm đúng luồng sinh để vượt qua.
Bên cạnh tính cách hung bạo, dưới ngòi bút Nguyễn Tuân con sông Đà lại rất trữ tình, gợi bao cảm xúc làm mê say lòng người. Khi trữ tình, sông Đà hiền hoà, mềm mại, huyền ảo như mái tóc của một phụ nữ kiều diễm: con sông tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mây mù khói núi Mèo nương xuân.
Không chỉ đẹp ở hình dáng, sông Đà còn gợi cảm ở màu sắc, mà tác giả đã bao lần dày công quan sát mới nói hết được vẻ độc đáo ấy: Mùa xuân dòng sông xanh ngọc bích (nghĩa là một màu xanh trong và sáng); mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như mặt người bầm đi vì rượu bữa. Đặc biệt là không khí hoang dại, tĩnh lặng : Bờ sông hoang dại như bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Đề lột tả không khí đầy thơ ấy.Nguyễn Tuân đã tả đàn hươu ngẩng đầu ngơ ngác mơ một tiếng còi sương, và cái nắng tháng ba Đường thi Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu, gợi tâm sự của người tình nhân chưa quen biết ! Lúc này, không thấy đâu con sông Đà diện mạo và tâm địa độc ác, mà chỉ thấy tình cảm của dòng sông đối với con người như một cố nhân, xa thì thấy nhớ thương, gặp lại thì thấy mừng vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Còn con sông lại mang bao rung động yêu thương như nhớ những hòn đá xa xôi để lại nơi thượng nguồn. Khi tả con sông Đà trữ tình, Nguyễn Tuân đã sử dụng những câu văn nhẹ nhàng, êm ái. Câu ngắn, vị ngữ diễn tả trạng thái bình lặng, để lại trong lòng người âm hưởng mênh mang, thơ mộng.
III. Kết bài
Trong tùy bút “ Người lái đò sông Đà”, nhà văn Nguyễn Tuân đã rất thành công trong việc sử dụng nhiều thuật ngữ của các ngành nghề khác nhau nhằm miêu tả vẻ hùng vĩ, thơ mộng của con sông Đà và mở ra bao liên tưởng độc đáo, bất ngờ trong tâm trí người đọc. Qua đó, ta thấy được tài hoa, vốn văn hoá uyên thâm và phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân. Đồng thời ta còn thấy được cảm hứng ngợi ca, tự hào về chất vàng thiên nhiên, về giang sơn gấm vóc Việt Nam của tác giả.
Dàn ý phân tích hình tượng con sông Đà - Mẫu 4
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân: “nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp” - có phong cách nghệ thuật độc đáo, uyên bác, tài hoa.
- Tác phẩm Người lái đò sông Đà: là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của Nguyễn Tuân.
- Hình tượng con sông Đà chính là thứ vàng mười của thiên nhiên mà Nguyễn Tuân tìm kiếm.
II. Thân bài
1. Sông Đà hung bạo
- Hướng chảy của sông Đà cho thấy đó là một dòng sông đầy cá tính “Chúng thủy giai đông tẩu/Đà giang độc bắc lưu”.
- Bờ sông dựng vách thành: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá... như một cái yết hầu”
- Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đò.
- Ở quãng Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”, thuyền qua đoạn hút nước “y như ô tô...mượn cạp ngoài bờ vực”,
- Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:
- Từ xa, âm thanh thác đá “còn xa lắm” mà đã nghe tiếng thác “réo gần mãi lại, réo to mãi lên”, âm thanh ấy hiện lên với nhiều trạng thái khi “oán trách”, lúc “van xin”, khi “khiêu khích”, “chế nhạo”; cách so sánh độc đáo: “rống lên như một ngàn con trâu... cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước).
- Đến gần, đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “méo mó”, “”hất hàm”, “oai phong”, “bệ vệ”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “canh”, “đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”
- Sự biến hóa linh hoạt của trùng vi thạch trận: có 3 vòng, vòng 1 có 5 cửa sinh, một cửa tử (tả ngạn), vòng 2 có nhiều cửa tử, 1 cửa sinh (hữu ngạn), vòng 3 có ít cửa và 1 cửa sinh (giữa), gợi hình ảnh con sông Đà có tâm địa nham hiểm, mẹo lược, biến hóa khôn lường.
=> Sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái - “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”.
2. Sông Đà trữ tình
- Khi từ tàu bay nhìn xuống:
- “Sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình... đốt nương xuân”
- Nước sông Đà đổi màu theo từng mùa một cách độc đáo: mùa xuân xanh ngọc bích, mùa thu đỏ.
- Khi đi rừng lâu ngày bất ngờ gặp lại con sông:
- Niềm vui vô hạn của tác giả khi bất ngờ gặp sông Đà: “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm”, “nối lại chiêm bao đứt quãng”, “như gặp lại cố nhân”.
- Sông Đà gợi cảm như một cố nhân, có vẻ đẹp như trò chơi trẻ con tinh nghịch, có vẻ đẹp Đường thi.
- Khi đi thuyền trên sông phía hạ lưu:
- Cảnh thiên nhiên thi vị, mơn mởn: trôi qua một nương ngô “nhú lá non”, con hươu thơ ngộ, “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”.
- Sông Đà như một “người tình nhân chưa quen biết”
=> Sông Đà trữ tình như một cố nhân.
- Như vậy: Hình tượng sông đà vừa mang nét hung bạo lại vừa trữ tình thơ mộng. Qua hình tượng sông Đà đã thể hiện tình cảm của Nguyễn Tuân với thiên nhiên Tây Bắc.
III. Kết bài
- Nội dung: Tác phẩm là áng văn đẹp được tạo nên từ tình yêu đất nước của một con người muốn dùng văn chương để ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ, thơ mộng của thiên nhiên và con người Tây Bắc.
- Nghệ thuật: So sánh, nhân hóa, tưởng tượng độc đáo, vận dụng tri thức của nhiều lĩnh vực, xây dựng hình tượng thành công.
Xem thêm Phân tích hình tượng con sông Đà
Dàn ý phân tích hình tượng con sông Đà - Mẫu 5
I. Mở bài
- Giới thiệu đôi nét về nhà văn Nguyễn Tuân, tác phẩm Người lái đò sông Đà.
- Dẫn dắt giới thiệu về hình tượng con sông Đà với hai nét đẹp tiêu biểu: hung bạo và trữ tình.
II. Thân bài
1. Khái quát chung
- “Người lái đò sông Đà” rút từ tập tùy bút “Sông Đà” (1960) của Nguyễn Tuân.
- Tác phẩm là thành quả của chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi. Vừa thỏa mãn thú phiêu lãng vừa để tìm kiếm vẻ đẹp thiên nhiên và “chất vàng mười đã qua thử lửa” trong tâm hồn của những con người lao động và chiến đấu trên miền sông núi hùng vĩ và thơ mộng đó.
2. Phân tích
a. Sông Đà hung bạo
- Vách đá sông Đà “đá bờ sông dựng vách thành” và những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy lòng sông hẹp:
- “Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời…”
- Con hổ con nai có thể vọt qua sông, và chỉ cần nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách
- “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào trên các tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
=> So sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng.
- Thác nước sông Đà: “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như đòi nợ suýt”. Hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, dữ dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt con người.
- Những hút nước ở quãng Tà Mường Vát: “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “chỗ giếng nước sâu ặc ặc lên những cái hút nước lôi tuột bè gỗ xuống hoặc hút những chiếc thuyền xuống rồi đánh chúng tan xác”. Lối so sánh độc đáo khiến con sông Đà không khác gì loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như muốn khủng bố tinh thần và uy hiếp con người.
- Âm thanh thác nước sông Đà:
- Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật hùng tráng bài ca của gió thác xô sóng đá.
- Ban đầu tác giả mới để cất lên khúc như đang “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích”, “giọng gằn mà chế nhạo”. Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ, các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại: “Nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Sự liên tưởng vô cùng phong phú, âm thanh của thác nước sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì âm thanh của một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông.
- Đặc biệt nhất là thạch trận sông Đà: Cả một chân trời đá mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”. Với ba trùng vi thạch trận đều vô cùng nguy hiểm.
=> Con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác gì “kẻ thù số một của con người”.
b. Sông Đà trữ tình
- Dòng sông Đà không chỉ có những "dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá" mà nó còn là bức tranh thủy mặc vương vấn lòng người. Từ trên tàu bay nhìn xuống “con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo”.
- Màu sắc dòng sông thay đổi theo mùa:
- “Mùa xuân xanh màu ngọc bích”, khác với sông Gâm, sông Lô “màu xanh canh hến”.
- Mùa thu nước sông “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ.
- Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kì gợi cảm: Lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu “ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương”.
- Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa lặng tờ như từ Lí, đời Trần, đời Lê...”
=> Sông Đà hiện lên với nét đẹp thơ mộng.
III. Kết bài
Cảm nhận về vẻ đẹp của con sông Đà, tài năng nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân.
Xem thêm Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà
Dàn ý phân tích hình tượng con sông Đà - Mẫu 6
I. Mở bài
Giới thiệu về nhà văn Nguyễn Tuân, tác phẩm Người lái đò sông Đà và hình tượng con sông Đà: Người lái đò sông Đà là một trong những tùy bút xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam. Bài tuỳ bút có chất văn độc đáo, mới lạ được sáng tạo nên từ ngòi bút tài hoa và uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân. Nổi bật trong tác phẩm là hình tượng con sông Đà hiện lên với những vẻ đẹp đối lập.
II. Thân bài
1. Vẻ đẹp hung bạo
- Hùng vĩ của sông Đà không chỉ có thác đá mà còn có “đá bờ sông, dựng vách thành”, có “vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”.
- Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đò.
- Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”, thuyền qua đoạn hút nước “y như ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực”.
- Thác nước sông Đà: “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo…”
- Thạch trận sông Đà: đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “méo mó”, “”hất hàm”, “oai phong”, “bệ vệ”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “canh”, “đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”... Sự biến hóa linh hoạt của trùng vi thạch trận.
=> Sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, kẻ thù số một của con người.
2. Vẻ đẹp trữ tình
- Khi từ tàu bay nhìn xuống:
- “Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”.
- Nước sông Đà đổi màu theo từng mùa một cách độc đáo: mùa xuân xanh ngọc bích, mùa thu đỏ.
- Khi đi rừng lâu ngày bất ngờ gặp lại con sông:
- Niềm vui khi bắt gặp dòng sông: “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm”, “nối lại chiêm bao đứt quãng”, “như gặp lại cố nhân”.
- Sông Đà gợi cảm như một cố nhân, có vẻ đẹp như trò chơi trẻ con tinh nghịch, có vẻ đẹp Đường thi.
- Khi đi thuyền trên sông phía hạ lưu:
- Cảnh thiên nhiên thi vị, mơn mởn: trôi qua một nương ngô “nhú lá non”, con hươu thơ ngộ, “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”.
- Sông Đà như một “người tình nhân chưa quen biết”
=> Sông Đà mang vẻ đẹp lãng mạn, thơ mộng.
III. Kết bài
Khái quát lại về con sông Đà cũng như nêu cảm nhận chung về hình ảnh sông Đà qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân: Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, hình ảnh con sông Đà hiện lên với những vẻ đẹp độc đáo. Tác phẩm đã để lại những ấn tượng sâu sắc cho bạn đọc về hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ mà thơ mộng.
Xem thêm Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
Dàn ý phân tích hình tượng con sông Đà - Mẫu 7
I. Mở bài
- Giới thiệu về nhà văn Nguyễn Tuân, nội dung của tác phẩm Người lái đò sông Đà.
- Giới thiệu về hình tượng con sông Đà với hai vẻ đẹp: hung bạo và trữ tình.
II. Thân bài
1. Vẻ đẹp hung bạo
- Bờ sông:
- “dựng vách thành”, cao vút, dựng đứng.
- Quãng sông thì hẹp đến nỗi “con nai, con hổ có lần vọt từ bờ sông này sang bờ kia”.
- “Mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới có mặt trời”, “đang mùa hè đi đò qua quãng ấy cũng cảm thấy lạnh”.
- Khi đi qua quãng này, người ta cảm tưởng như mình “đang đứng ở một cái ngõ nào mà ngóng vọng lên cái cửa sổ trên các tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
=> Trước mắt là một khúc sông Đà vừa sâu, vừa hẹp, vừa tối, vừa lạnh đủ để bất kỳ ai đến đây cũng phải rùng mình sợ hãi.
- Ghềnh:
- ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…”.
- Các từ láy “cuồn cuộn”, “gùn ghè” vừa hợi âm thanh ghê rợn vừa gợi những hình ảnh khủng khiếp của nơi đây.
- Được miêu tả như những kẻ sẵn sàng đòi nợ
=> Nó có thể gây ra rất nhiều nguy hiểm mà con người không thể nào lường trước được.
- Hút nước:
- Nhìn từ xa những cái xoáy nước trên sông giống như cái lúm đồng tiền trên má cô gái, có thể lôi tuột một cái thuyền xuống đáy sông và đánh cho tan xác.
- Những cái hút nước như những cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu.
- “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”.
- Thác nước:
- Tiếng thác nghe như là “oán trách”, nghe như là “van xin”, “khiêu khích”, giọng gằn mà “chế nhạo”.
- “Thế rồi nó rống lên… ”,so sánh tiếng thác sông Đà giống như tiếng của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn để phá tuông sự bủa vây của rừng lửa.
- Đá sông Đà:
- “cả một chân trời đá”
- từng tảng đá mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”.
- Rồi chúng còn vây thành một thạch trận giống như một trận đồ bát quái trên sông Đà.
2. Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà
- Sông Đà “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”.
- Không chỉ đẹp ở dáng hình mà còn đẹp ở màu nước: mùa xuân dòng xanh ngọc bích, thu sang nước sông chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa.
- Bờ bãi sông Đà thì mênh mang, trải dài “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”. So sánh vô cùng gợi cảm khi miêu tả dòng sông “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
III. Kết bài
Cảm nhận chung về hình ảnh con sông Đà.
Xem thêm Phân tích bài Người lái đò sông Đà
Dàn ý phân tích hình ảnh con sông Đà - Mẫu 8
1.Mở bài :
– Nguyễn Tuân là một nhà văn tài hoa và uyên bác.Ông có sở trường về viết tùy bút.
– “Người lái đò sông Đà” là một trong 15 bài tuỳ bút được in trong tập tùy bút “Sông Đà” của Nguyễn Tuân được viết vào năm 1960, sau nhiều lần nhà văn đế Tây Bắc.
– Có thể nói: bài tùy bút đã miêu tả hình ảnh của sông Đà, một con sông hung bạo hiểm ác và cũng rất đỗi thơ mộng trữ tình bằng một phong cách nghệ thuật độc đáo.
2. Thân bài :
*Sông Đà được hiện lên là một dòng sông hung bạo và hiểm ác:
– Đầu tiên sự hiểm trở của dòng sông được nhà văn ghi lại bằng địa thế của dòng sông với “hai bên đá dựng thành vách”, lòng sông “chẹt lại như một cái yết hầu” .Và đó còn là những thác nước gầm réo muôn đời “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo…”. Đặc biệt, con sông chợt trở nên hung bạo hơn khi sóng nước reo hò làm thanh viện cho đá “mặt nước hò la vang dậy quanh mình ùa vào mà bẻ gãy cán chèo…”. Có thể nói, tiếng ghềnh thác sông Đà nghe thật ghê rợn “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm …”
– Không những vậy, sông Đà còn là một dòng sông vô cùng hiểm ác. Cái hiểm ác của dòng sông được nhà văn ghi lại ở những quãng sông đầy thác ghềnh, lòng sông như dàn bày thạch trận chực nuốt chìm những con thuyền non tay lái “mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông.Đám tảng, đám hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông, đòi ăn chết cái thuyền”.Ở đây, Nguyễn Tuân đã rất thành công khi sử dụng một loạt các phép nhân hoá để đặc tả sự hiểm ác của dòng sông.
Từ đó, sông Đà “thành ra diện mạo và tâm địa của một thứ kẻ thù số một”.Nó hiện lên như một con thuỷ quái khổng lồ vừa nham hiểm và hung dữ, vừa khôn ngoan mưu trí.
* Bên cạnh sự hung bạo- hiểm ác, sông Đà còn là một dòng sông thơ mộng – hiền hoà:
– Trước hết, vẻ thơ mộng của dòng sông được nhà văn so sánh như hình ảnh của một người thiếu nữ Tây Bắc vừa kiều diễm, vừa hoang dại, man sơ : “Sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo và khói Mèo đốt nương xuân”; hay “Sông Đà như một áng tóc mun dài ngàn ngàn , vạn vạn sải…”.
– Cùng với hình dáng của dòng sông mềm mại, tha thướt là màu nước của dòng sông cũng thay đổi theo mùa: Mùa xuân, nước sông Đà xanh màu ngọc bích. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa…”.
– Không chỉ thơ mộng, sông Đà còn hiện lên trong cảm nhận của nhà văn là một con sông rất đỗi hiền hoà.Có những quãng ven sông “lặng lờ”, “bờ sông hoang dại như bờ tiền sử.Bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.Nét hiền hoà ấy làm cho cảnh vật trở nên gợi cảm, say đắm lòng người.Hai bên bờ sông, tràn ngập cảnh sắc tươi vui của một cuộc sống mới đang bắt đầu với “ nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa…đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi..”
Quả thật, sông Đà thật mỹ lệ, gợi cảm hứng nghệ thuật , gợi cảm xúc cho những ai một lần biết đến.Vẻ đẹp của sông Đà vừa Đường thi -cổ điển, vừa hiện đại- trữ tình.
3. Kết bài :
–Tóm lại, bằng trí tưởng tượng phong phú; óc tạo hình và khả năng quan sát kỹ lưỡng và chính xác; ngôn ngữ điêu luyện…Nguyễn Tuân đã cung cấp những kiến thức rất phong phú cho chúng ta về một dòng sông nổi tiếng của mảnh đất Tây Bắc . Đó là một dòng sông có cá tính như một cố nhân “lắm bệnh, nhiều chứng” với những ai một lần gặp gỡ.
– Sông Đà nói chung, và “Người lái đò sông Đà” chính là áng thơ trữ tình bằng văn xuôi ca ngợi Tổ quốc giàu đẹp, thể hiện niềm tin yêu cuộc sống mới đang diễn ra trên đất nước ta.
Dàn ý vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà - Mẫu 9
1. Mở bài
Người lái đò sông Đà là một tùy bút rất đặc sắc của Nguyễn Tuân rút từ tập Sông Đà. Hình ảnh con sông Đà với 2 đặc tính nổi bật là hung bạo và trữ tình được tác giả khắc họa đậm nét trong tùy bút. Khi miêu tả tính cách hung bạo của sông Đà, tác giả sử dụng những câu văn mang nhịp điệu dồn dập, hình ảnh thơ hùng vĩ. Nhưng khi ca ngợi dòng sông Đà trữ tình gợi cảm ông lại dùng những câu văn dài, êm ả, nghe như tiếng hát ngân nga.
2. Thân bài
* Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà
Thác ghềnh lúc này chỉ còn lại trong nỗi nhớ. Thuyền được trôi êm: câu văn mở đầu đoạn hoàn toàn là thanh bằng gợi cảm giác lâng lâng, mơ màng; ý lặng tờ nhắc lại trùng điệp tạo chất thơ.
Thiên nhiên hài hòa mang vẻ trong trẻo nguyên sơ, kỳ thú: Cỏ gianh đồi núi đang ra những búp non, đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương
So sánh bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa mở ra những liên tưởng về sự bát ngát, lãng mạn, hư hư thực thực của dòng sông.
Người với cảnh có sự tương giao, hư thực đan xen: Tiếng còi, con hươu ngộ ngẩng đầu nhìn và hỏi ông khách sông Đà. Cảnh làm cho vị tình nhân non nước sông Đà xúc động trong thực và mơ.
* Nghệ thuật của ngòi bút lãng mạn tài hoa, tinh tế. Nhà văn hiến cho độc giả hình ảnh sống động, ấn tượng sâu sắc:
Lấy động tả tĩnh: Cá quẫy đủ khiến ta giật mình.
Cái tĩnh hàm chứa sự bất ngờ bởi sự biến hóa liên tiếp: thuyền thả trôi, con hươu thơ ngộ vểnh tai, áng cỏ sương, tiếng còi sương, đàn cá dầm xanh quẫy vọt. Cảnh và vật đều ở trạng thái động, không chịu ép mình và đều mang hơi thở vận động của cuộc sống nhiều chiều
* Nhà văn đã trải lòng mình với dòng sông, hóa thân vào nó để lắng nghe nhịp sống cuộc đời mới, để nhớ, để thương cho dòng sông, cho quê hương đất nước:
Thưởng ngoạn vẻ đẹp sông Đà, lòng ông dậy lên cảm giác liên tưởng về lịch sử, về tình cảm đối với cố nhân: nhắc tới đời Lí đời Trần.
Trước vẻ đẹp hoang dại nhà văn suy nghĩ về tiếng còi tàu, cuộc sống hiện đại.
Trải lòng, hóa thân vào dòng sông trong đắm đuối của tình non sông đất nước: Nhớ thương hòn đá thác, lắng nghe giọng nói, trôi những con đò mình nở.
3. Kết bài
Qua đoạn trích thấy cảnh vật và con người gắn quyện với nhau chặt chẽ; thấy những đặc sắc của văn Nguyễn Tuân. Đọc “Sông Đà” người đọc càng thêm quý trọng tài năng và tấm lòng của con người suốt đời đi tìm cái đẹp, làm giàu có đời sống tinh thần của tất cả độc giả chúng ta.
Dàn ý hình tượng con sông Đà - Mẫu 10
1. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về Nguyễn Tuân.
- Giới thiệu chung về văn bản "Người lái đò sông Đà".
2. Thân bài:
a. Hình tượng con sông Đà
-"Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu"
- Lời đề từ: Khẳng định vẻ đẹp và sự độc đáo của sông Đà: Mọi dòng sông đều chảy về hướng Đông - Chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc. Trên trang văn Nguyễn Tuân, sông Đà đại diện cho thiên nhiên Tây Bắc và là một sinh thể có hồn, sống động, có tính cách, có tâm hồn, vừa hùng vĩ hung bạo vừa thơ mộng, trữ tình.
* Sông Đà hùng vĩ, dữ dội với tính cách hung bạo:
- Vách đá dựng đứng, kì vĩ: cảnh đá bờ sông dựng vách thành… sang bờ kia.
- Ghềnh Hát Loóng hung dữ: nước xô đá, đá xô sóng… dễ lật ngửa bụng thuyền ra.
- Hút nước vừa tráng lệ vừa dữ dội: như cái giếng bê tông… ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi.
- Thác đá: nghe như là oán trách… cháy bùng bùng, đá thác từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông… ngỗ ngược, bệ vệ oai phong, hất hàm hiếu chiến.
- Sông Đà bố trí ba thạch trận trùng trùng điệp điệp, đòi tóm lấy mọi con thuyền qua sông.
* Vẻ đẹp thơ mộng và tính cách trữ tình:
- Hình dáng dòng sông mềm mại: như cái dây thừng, như mái tóc tuôn dài…
- Màu nước thay đổi theo mùa: xanh ngọc bích, lừ lừ chín đỏ.
- Sông Đà gợi cảm, mang vẻ đẹp đa chiều: như cố nhân, như Đường thi,…
- Vẻ đẹp đôi bờ: êm ả, nguyên sơ, tràn đầy sức sống (cỏ cây, những con vật lành, đàn cá…)
=> Nghệ thuật xây dựng hình tượng sông Đà: ngôn ngữ điêu luyện, giàu chất tạo hình; so sánh, liên tưởng độc đáo, táo bạo; tiếp cận con sông dưới phương diện cái đẹp, cái tôi trữ tình dạt dào cảm xúc; vận dụng tri thức của nhiều lĩnh vực; giọng điệu phóng khoáng.
=> Ý nghĩa của hình tượng sông Đà: đại diện cho vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, đóng vai trò như bức phông nền kì vĩ, làm nổi bật tài nghệ chèo đò, vượt thác của ông đò.
b. Hình tượng người lái đò sông Đà.
* Vẻ đẹp bình dị của người dân lao động:
- Ông lái đò sinh ra đã gắn bó với dòng sông Đà. Tuổi ngoài 70 nhưng thân hình vạm vỡ như chất sừng mun, giọng nói vẫn khỏe, cặp mắt vẫn tinh tường. Có thể nói ông lái đò là con người của sông nước.
- Ông là người hiểu biết sâu rộng về dòng sông:
- Đó là một người lái đò lão luyện: “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi chỉnh tay giữ lái độ sáu chục lần...” trong thời gian hơn chục năm làm cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ này.
- Ông hiểu biết sâu rộng và rất thành thạo, thành thạo đến mức sông Đà “đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng. Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chỉnh tay giữ lái độ sáu chục lần... Cho nên ông có thể bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở.”
- Ông có trình độ lái đò hết sức điêu luyện và là vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm. Giờ đây khi đã rời xa nghề chèo đò nhưng ông vẫn hoài niệm về những ngày tháng gian nan mà vui vẻ đó.
* Là một người nghệ sĩ tài hoa:
- Thủy quái sông Đà: có diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số 1, nguy hiểm và hung bạo, đầy cạm bẫy với những ghềnh, thác, hút nước, sóng nước, với thạch trận trùng điệp, đầy luồng chết chầu chực nuốt chửng, đập tan con thuyền.
- Người lái đò bước vào cuộc vượt thác giống như vị chỉ huy bước vào trận đánh. Phải đặt nhân vật vào trong môi trường chiến trận mới có thể bộc lộ hết phẩm chất của người lái đò:
- Ông đò vượt trùng vây thứ nhất: Đá thác hiếu chiến (bệ vệ oai phong, hất hàm), nước thác làm thanh viện ùa vào đòi bẻ cán chèo, đội thuyền, túm lấy thắt lưng, bóp chặt hạ bộ, ông cố nén vết thương, kẹp chặt cuống lái, tiếng chỉ huy vẫn ngắn gọn tỉnh táo.
- Ông đò vượt trùng vây thứ hai: trùng vây thứ 2 tăng thêm cửa tử để đánh lừa con thuyền, cửa sinh bị bố trí lệch đi, ông đò thay đổi chiến thuật, cưỡi lên thác sông Đà, lái miết một đường chéo, rảo bơi chèo lên… sấn lên chặt đôi ra để mở đường vào cửa sinh.
- Ông đò vượt qua trùng vây thứ ba: vòng 3 bên phải, bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở giữa bọn đá hậu vệ, ông đò phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa.. lượn được.
=> Ông đò là người anh hùng, người nghệ sĩ trong công việc chèo đò, vượt thác. Ông đại diện cho con người Tây Bắc và là chất vàng mười của đất nước ta.
3. Kết bài
- Nêu cảm nhận về hình tượng Sông Đà.
- Nghệ thuật: so sánh, nhân hóa, tưởng tượng độc đáo, vận dụng tri thức của nhiều lĩnh vực, xây dựng hình tượng thành công.
- Tác phẩm là áng văn đẹp được tạo nên từ tình yêu đất nước của một con người muốn dung văn chương để ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ, thơ mộng của thiên nhiên và con người Tây Bắc.
Lập dàn ý hình tượng sông Đà - Mẫu 11
I. Mở bài
- Người lái đò sông Đà in trong tập tùy bút sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân là kết quả của chuyến đi thực tế của ông ở vùng Tây Bắc, thể hiện tấm lòng gắn bó với đất nước quê hương và kính trọng người lao động của tác giả.
- Hai hình ảnh nổi bật trong bài tùy bút là ông lái đò và dòng sông Đà. Sông Đà được mô tả như một sinh thể có linh hồn, như một nhân vật có tính cách với hai đặc điểm nổi bật: hung bạo (ở thượng nguồn) và trữ tình (ở hạ lưu).
- Tùy bút Người lái đò sông Đà thể hiện một nét phong cách của Nguyễn Tuân: tính uyên bác với nhiều phát hiện tinh tế độc đáo về núi sông, cây cỏ trên đất nước ta.
II. Thân bài
Phân tích hình tượng con sông Đà
A. Phát hiện tinh tế sông Đà hung bạo
1. Con Sông Đà hung bạo với 73 cái thác hiểm nghèo ở thượng nguồn. Tác giả đã nghiên cứu công phu xem con sông Đà bắt nguồn từ đâu, xa xưa trong lịch sử có những tên gọi gì, có bao nhiêu thác ghềnh. Đoạn sông Đà ở thượng nguồn, lòng hẹp, bờ là những vách đá dựng đứng được mô tả bằng hình ảnh vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu,.. Có khi là những hình ảnh so sánh mới lạ đến bất ngờ: Ngôi trong khoang đò qua quãng ấy... cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên các tầng nhà thứ mấy nên vừa tắt phụt đèn điện.
2. Sông Đà như đang náo động, gào thét luôn muôn vạn âm thanh: quãng mặt ghềnh Hát Loong, dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm,.. Nhà văn đã sử dụng chọn lọc những hình ảnh nhân hóa để làm sống dậy một cách dữ dội hình thù những hòn đá vô tri: một hòn trông nghiêng thì y như là hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến Một hòn khác... thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Những hòn đá ngỗ ngược trên dòng sông gần như phục sẵn, nhất tề nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền, đòi ăn chết cái thuyền...
3. Sông Đà như một trùng vi thạch trận với đủ cả cửa sinh cửa tử, với những binh đoàn của đá, của sóng, của xoáy hút, với những boongke, pháo đài, với những đòn âm, đòn tỉa đánh vào chỗ hiểm. Thác sông Đà có lúc rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.
B. Phát hiện tinh tế độc đáo: sông Đà trữ tình
1. Khi bộc lộ tính cách trữ tình, con sông Đà lại là một dòng sông đầy thơ mộng hiền hòa.
- Dòng sông thơ mộng được mô tả từ trên cao: Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc...
- Nước sông thay đổi tùy mùa tiết: Mùa xuân dòng xanh ngọc bích... Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ...
2. Con sông hiền hòa, có những quãng ven sông lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng Lặng tờ đến thế mà thôi...
Với mỗi người, mỗi trạng thái, sông Đà khơi gợi sự cảm nhận khác nhau: Có khi như một cố nhân, có khi bờ sông Đà hoang dại như một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Đúng là “Dải sông Đà bọt nước lênh đênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.”
3. Nét hiền hòa của con sông làm cho cảnh vật trở nên gợi cảm, làm cho khách trên con đò chợt mơ màng như nghe tiếng con hươu đang thủ thỉ: “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương (...)” của một chuyến xe lửa đầu tiên, trong tưởng tượng của tác giả.
III. Kết bài
Nêu cảm nhận về hình tượng Sông Đà.