Cảm nhận nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương gồm 20 mẫu hay nhất, kèm theo 4 dàn ý chi tiết và sơ đồ tư duy, giúp các em học sinh lớp 9 thấy rõ hơn cuộc đời bất hạnh, đầy ngang trái của Vũ Nương.
Nhân vật Vũ Nương đã để lại trong lòng người đọc những cảm xúc khó phai về số phận của người phụ nữ Việt Nam trong chế độ cũ. Qua đó tác giả cũng muốn tố cáo tội ác của chế độ phong kiến, người đàn ông luôn cậy quyền lực mà đàn áp người phụ nữ khiến họ phải chịu thiệt thòi, oan khuất. Mời các em cùng theo dõi bài viết để ngày càng học tốt môn Văn 9.
Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương
- Sơ đồ tư duy Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương
- Dàn ý cảm nhận về nhân vật Vũ Nương (4 mẫu)
- Đoạn văn cảm nhận nhân vật Vũ Vương
- Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương hay nhất (15 mẫu)
- Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương
- Cảm nhận Vũ Nương hay nhất
- Cảm nhận vẻ đẹp nhân vật Vũ Nương
- Suy nghĩ về nhân vật Vũ Nương
Sơ đồ tư duy Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương
Dàn ý cảm nhận về nhân vật Vũ Nương
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác phẩm, tác giả
- Giới thiệu nhân vật:
- Vũ Nương là nhân vật chính trong truyện; là người phụ nữ bình dân có truyền thống tốt đẹp về đạo đức, phẩm chất nhưng trong xã hội phong kiến nhưng chịu đau khổ.
- Đọc “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ ta thương nàng Vũ Thị Thiết đã chịu đựng nỗi đau oan khuất.
II. Thân bài:
1. Tóm tắt tác phẩm
Vũ Nương nết na xinh đẹp. Trương Sinh cưới nàng về. Sau đó, Trương Sinh phải đi lính. Vũ Nương ở nhà chăm sóc mẹ già con trẻ. Bà mẹ vì quá nhớ con buồn rầu mà chết. Nàng ma chay tế lễ chu đáo. Vũ Nương hàng đêm thường chỉ bóng mình trên vách bảo với con đấy là cha Đản. Khi giặc tan trương Sinh trở về đứa trẻ không nhận là cha mình. Nghe nó kể lại Trương Sinh nghi ngờ vợ mình thất tiết, đánh đuổi vợ ra khỏi nhà. Vũ Nương thanh minh không được đành phải nhảy xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Cùng làng có người tên là Phan Lan vì cứu Linh Phi lúc hóa rùa đã được Linh Phi cứu sống, tình cờ gặp Vũ Nương ở thủy cung. Phan Lang trở về trần gian Vũ Nương gửi theo chiếc hoa vàng cùng lời nhắn Trương Sinh. Biết vợ bị oan Trương Sinh đã lập đàn giải oan bên bến Hoàng Giang. Vũ Nương hiện ra giữa dòng ngồi trên chiếc kiệu hoa đạ tạ chàng rồi biến mất.
2. Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương
a)Những phẩm chất tốt đẹp củaVũ Nương
* Người phụ nữ đẹp người, đẹp nết
- “vốn đã thùy mị, nết na lại thêm tư dung, tốt đẹp”.
- Có tư tưởng tốt đẹp.
- Người vợ dịu hiền, khuôn phép: Chồng đi xa vẫn một lòng chung thủy, thương nhớ chồng khôn nguôi, mong chồng trở về bình yên vô sự, ngày qua tháng lại một mình vò võ nuôi con.
- Người con dâu hiếu thảo: Chăm nuôi mẹ chồng lúc đau yếu, lo việc ma chay, tế lễ chu toàn khi mẹ chồng mất.
* Người phụ nữ thủy chung
- Khi chồng ở nhà
- Khi tiễn chồng ra trận
- Những ngày tháng xa chồng
- Khi bị nghi oan
- Khi sống dưới thủy cung
* Người con dâu hiếu thảo
- Thay chồng chăm sóc mẹ khi mẹ đau ốm (lời nói của mẹ chồng).
- Lo liệu ma chay khi mẹ mất như với cha mẹ đẻ
- Là người mẹ yêu thương con: Một mình chăm sóc con nhỏ khi chồng đi vắng.
- Là người phụ nữ trọng nhân phẩm, tình nghĩa, chọn cái chết để minh oan cho mình.
- Giàu lòng vị tha: Bị Trương Sinh đẩy đến đường cùng phải chét oan ức nhưng không oán trách, hận thù. Khi trương Sinh lập đàn giải oan ở bến song vẫ hiện về nói lời “đa tạ tình chàng”
b) Nỗi đau, oan khuất của Vũ Nương
- Người chồng đa nghi vì nghe lời con trẻ ngây thơ nên nghi oan, cho rằng nàng đã thất tiết.
- Nàng đau khổ, khóc lóc bày tỏ nỗi oan với chồng nhưng chồng vẫn không nghe còn mắng nhiếc, đánh và đuổi nàng đi.
- Không thể thanh minh được, nàng tìm đến cái chết để tỏ bày nỗi oan ức của mình.
c) Khi chết rồi Vũ Nương vẫn thiết tha với gia đình, muốn trở về quê cũ
- Ở thuỷ cung, nàng vẫn nhớ quê hương, có ngày tất phải tìm về.
- Tìm về là để giải bày nỗi oan với chồng, với mọi người.
- Nhưng nàng không thể trở về với nhân gian được nữa.
3. Nhận xét về nghệ thuật
- Nhận xét về nghệ thuật: khai thác vốn văn học dân gian, sáng tạo về nhân vật...
- Liên hệ về hình ảnh người phụ nữ trong xã hội hiện nay
III. Kết bài:
- Khẳng định “Chuyện người con gái Nam Xương” là tác phẩm giàu tính hiện thực và giá trị nhân văn
- Những phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương cũng chính là nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam cần được tôn vinh trong mọi thời đại.
...
Đoạn văn cảm nhận nhân vật Vũ Vương
Vũ Nương trong "Chuyện người con gái Nam Xương" là một người phụ nữ hội tụ tất cả phẩm chất quý báu của phụ nữ truyền thống Việt Nam. Trước hết, Vũ Nương là một người vợ yêu thương chồng hết mực. Khi Trương Sinh đi lính, nàng chỉ mong chồng trở về bình an lành lặn chứ không hè mong tước phong hầu trở về. Khi chồng đi lính, mẹ chồng ở nhà ốm nặng, nàng cũng chăm sóc vô cùng chu đáo. Đến khi mẹ chồng mất nàng lo ma chay tế lễ cẩn thận như đối với chính cha mẹ đẻ mình. Không chỉ là một người vợ yêu chồng, một người con dâu hiếu thảo mà Vũ Nương còn là một người mẹ yêu thương con hết mực. Vì sợ bé Đản không cảm nhận được tình thương của cha mà Vũ Nương đã trỏ bóng mình trên vách và nói đó là cha Đản. Đồng thời, Vũ Nương còn là một người phụ nữ có lòng tự trọng. Khi bị Trương Sinh nghi oan, nàng giải thích hết lời mà chàng không tin, Vũ Nương đã nhảy xuống sông tự vẫn để chúng minh sự trong sạch của mình. Nàng thà chết để được chứng minh trong sạch còn hơn là sống một cuộc đời bị mọi người sỉ vả. Không những thế, Vũ Nương còn là một người phụ nữ giàu lòng vị tha. Khi ở dưới thủy cung nàng vẫn một lòng nhớ về chồng và con mặc dù chính chồng nàng là nguyên nhân gây ra cái chết cho nàng. Khi được Trương Sinh lập đàn giải oan, nàng còn cảm ơn chồng vì đã nghĩ đến nghĩa vợ chồng mà giải oan cho nàng. Qua đây ta thấy được Vũ Nương là một người phụ nữ đẹp người đẹp nết nhưng lại chịu số phận đầy bất hạnh.
Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương hay nhất
Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương - Mẫu 1
Nguyễn Dữ sống ở thế kỷ XVI quê ở huyện Trường Tân nay là Thanh Miện – Hải Dương. Ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các tác phẩm của ông đã đóng góp rất lớn cho nền văn học trung đại Việt Nam. Điển hình là "Truyền kỳ Mạn Lục" gồm có hai mươi câu chuyện nhỏ. Trong đó tiêu biểu là chuyện người con gái Nam Xương là câu chuyện thứ 16 của Truyền Kỳ Mạn Lục, được bắt đầu từ truyện "vợ chàng Trương". Qua việc xây dựng hình tượng Vũ Nương với đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp nhưng lại chịu nhiều oan khuất, Nguyễn Dữ đã bày tỏ lòng thương cảm với Vũ Nương, với những người có số phận hẩm hiu giống nàng.
Vũ Nương tên thật là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương thuộc phủ Lý Nhân, xuất thân trong một gia đình nghèo khó, vừa có nhan sắc lại có đầy đủ đức hạnh. Vì thế Trương Sinh con nhà hào phú đã xin mẹ trăm lạng vàng để cưới về.
Phẩm hạnh tốt đẹp của Vũ Nương được thể hiện rất rõ trong các mối quan hệ với gia đình. Trong cuộc sống vợ chồng, nàng cư xử rất đúng mực, nhường nhịn, luôn biết giữ gìn khuôn phép cho nên dù chồng đa nghi, đối với vợ phải phòng ngừa quá mức nhưng vợ chồng không bao giờ thất hoà. Như vậy dù cuộc hôn nhân không xuất phát từ tình yêu và có dấu hiệu mua bán nhưng gia đình luôn êm ấm bởi đức hạnh của Vũ Nương. Khi tiễn Trương Sinh đi lính, nàng rót chén rượu đầy dặn dò những lời tình nghĩa đằm thắm thiết tha: "Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm hoa trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi". Lời tiễn biệt đó cho thấy nàng không trông mong vinh hiển mà chỉ cầu mong chàng bình yên trở về. Đó là mong ước giản dị, bình thường của người vợ, người phụ nữ luôn mong cuộc sống gia đình sum vầy, hạnh phúc. Không chỉ vậy, nàng còn biết cảm thông trước nỗi vất vả, gian lao mà người chồng phải chịu đựng khi ra chiến trường: "Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ hiền lo lắng". Rồi nàng còn nói lên nỗi khắc khoải, nhớ nhung của mình trong những ngày chồng đi xa: "Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú. Dù có thư tín nghìn hàng, cũng không sợ có cánh hồng bay bổng". Những câu văn biền ngẫu sóng đôi, cân xứng nhịp nhàng như nhịp đập thổn thức của trái tim người vợ trẻ, lời tiễn biệt ân tình thể hiện tình yêu thương chồng và niềm khát khao một mái ấm hạnh phúc. Xa chồng, Vũ Nương không lúc nào không nghĩ đến, không nhớ thương: "Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn nơi góc bể chân trời không thể nào ngăn được". Tác giả đã dùng những hình ảnh ước lệ, mượn cảnh vật thiên nhiên để diễn tả sự trôi chảy của thời gian. Thời gian trôi qua, không gian cảnh vật thay đổi, mùa xuân tươi vui đi qua, mùa đông ảm đạm lại đến còn lòng người thì dằng dặc một nỗi nhớ mong. Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên tường và nói với con rằng "cha Đản lại đến" không chỉ muốn con ghi nhớ bóng hình người cha trong trái tim non nớt của nó, mà còn thể hiện tình cảm của nàng trước sau như một, gắn bó như hình với bóng. Nói với con như vậy để làm vơi đi nỗi nhớ thương chồng. Tâm trạng đó của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người vợ có chồng đi lính trong thời loạn lạc:
"Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong"
(Trích "Chinh phụ ngâm" - Đoàn Thị Điểm)
Không chỉ là một người vợ thủy chung mà Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo. Khi chồng đi lính, nàng vẫn còn trẻ nhưng đã phải gánh vác mọi việc trong gia đình chồng. Trong xã hội, mối quan hệ mẹ chồng - nàng dâu rất khó dung hoà vậy mà Vũ Nương vẫn rất yêu quý, chăm sóc mẹ chồng như đối với cha mẹ đẻ của mình. Khi mẹ chồng ốm, nàng "hết sức thuốc thang và lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào, khôn khéo, khuyên lơn". Những lời nói dịu dàng, những cử chỉ ân cần của nàng thật đáng trân trọng. Đặc biệt lời trăn trối của bà mẹ chồng trước khi mất: "Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà gượng cơm cháo. Song tuổi thọ có chừng, số trời khó tránh. Đêm tàn chuông đổ, số tận mệnh cùng; một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, không khỏi phải phiền đến con. Chồng con xa xôi, mẹ chết lúc nào, không thể kịp về đền báo được. Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong sông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ" là sự ghi nhận, đánh giá rất cao công lao của Vũ Nương đối với gia đình. Đặt trong xã hội lúc bấy giờ thì đây là lời đánh giá thật xác đáng và khách quan khiến ta cảm nhận được nét đẹp trong phẩm chất của Vũ Nương. Rồi đến khi mẹ chồng mất, nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như cha mẹ ruột. Nàng làm những việc đó không chỉ vì bổn phận và trách nhiệm của người con dâu mà còn xuất phát từ lòng yêu thương, sự hiếu thảo mà nàng đã dành cho mẹ. Rõ ràng Vũ Nương là một người phụ nữ đảm đang, tháo vát. Trong cả ba tư cách: người vợ, người con, người mẹ, tư cách nào cũng nêu cao được đức hạnh của nàng: chung thủy, yêu thương chồng tha thiết, rất mực yêu thương con, hiếu thảo với mẹ chồng. Nàng là mẫu người phụ nữ lí tưởng trong xã hội phong kiến xưa, nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc bà được mọi người trân trọng.
Cứ ngỡ người phụ nữ như Vũ Nương sẽ có một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn, nhưng nàng lại vướng vào oan khuất đắng cay. Đó là khi Trương Sinh trở về, nghe lời con trẻ mà nghi nàng thất tiết và đã cư xử phũ phàng. Trước khi tự vẫn, nàng cố phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Nàng nói đến thân phận, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng thủy chung của mình: "Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp". Những lời nói của nàng đều vì muốn hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có ngu cơ tan vỡ. Vũ Nương đã hết lời phân trần nhưng Trương Sinh không tin, vẫn mắng mỏ nàng thậm tệ và đánh đuổi nàng đi. Hạnh phúc gia đình - nỗi khao khát cả đời nàng đã tan vỡ, tình yêu không còn: "Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi vọng phu kia nữa". Cuộc hôn nhân đã không thể nào hàn gắn nổi. Bao công sức xây đắp tổ ấm đã trở nên vô nghĩa. Không thể nào giải được nỗi oan khuất, nàng tìm đến cái chết để bày tỏ tấm lòng mình: "Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ". Lời than như một lời nguyền xin thần sông chứng giám cho nỗi oan khuất của nàng. Hành động trẫm mình xuống dưới sông Hoàng Giang là hành động cuối cùng để bảo toàn danh dự. Nàng tìm đến cái chết trong nỗi tuyệt vọng nhưng cũng có sự chỉ đạo của lí trí: nàng tắm gội chay sạch trước khi chết và cầu nguyện một cách thanh thoát.
Tuy nhiên Vũ Nương vì trong sáng, vô tội nên được Linh Phi cứu giúp đưa về động rùa. Ở dưới thủy cung, nàng có được một cuộc sống sung túc cùng các tiên nữ nhưng nàng vẫn không nguôi nỗi đau trần thế, nỗi nhớ gia đình, quê hương và đặc biệt luôn khao khát được phục hồi danh dự. Hình ảnh Vũ Nương trở về trong đàn tràng giải oan của Trương Sinh và lời nói vọng vào của nàng thể hiện nàng là người ân nghĩa thủy chung. Đàn tràng giải oan, sự ân hận muộn màng của Trương Sinh thể hiện tấm lòng vị tha cao thượng. Điều đó còn thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về lẽ công bằng, người tốt dù trải qua bao nhiêu oan khuất cuối cùng cũng được minh oan.
Truyện thành công nhờ việc sắp xếp các tình tiết hợp lí, cách tạo tình huống thắt nút, mở nút. Trên cơ sở cốt truyện có sẵn, tác giả sắp xếp thêm một số tình tiết, thêm bớt, tô đậm những tình tiết có ý nghĩa làm cho diễn biến hợp lí, tăng tính bi kịch làm câu chuyện trên hấp dẫn. Nguyễn Dữ đã khéo léo sử dụng các yếu tố kì ảo tạo kết thúc có hậu làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật chính.
Qua vẻ đẹp và bi kịch của Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã lên án, tố cáo xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của người giàu, người đàn ông, đồng thời thể hiện tấm lòng trân trọng của mình đối với người phụ nữ phải chịu nhiều bất hạnh thiệt thòi trong xã hội.
Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương - Mẫu 2
Vũ Nương quê ở Nam Xương, thùy mị nết na, xinh đẹp. Cuộc đời của Vũ Nương thật là ngắn ngủi, nhưng nàng đã làm tròn bổn phận của người phụ nữ. Biết giữ gìn khuôn phép, vì vậy cuộc sống gia đình trong ấm ngoài êm. Trương Sinh đi lính, nàng phải gánh bao vất vả phải sinh nở và nuôi con một mình chăm sóc mẹ già khi ốm đau, khi mẹ mất lo toan như cho mẹ mình. Nàng đã làm tròn bổn phận làm dâu. làm vợ, làm mẹ.
Vũ Nương cũng giống như bao nhiêu người chinh phụ khác, lúc nào nàng cũng ước mong người chồng trở về đoàn tụ. Khát vọng hạnh phúc ấy thật là bình thường giản dị. Người chinh phụ trong tác phẩm Chinh phụ ngâm luôn khao khát chồng đi lính sẽ được phong tước, phong hầu, để rồi một ngày kia “võng anh đi trước, võng nàng theo sau”. Còn Vũ Nương chẳng ham công danh, võng lọng chỉ xin ngày về mang theo hai chữ “bình yên”. Vũ Nương xem trọng hạnh phúc gia đình, xem đó là tất cả của cuộc đời mình.
Trương Sinh trở về, ước mong của Vũ Nương sắp trở thành hiện thực nhưng không ngờ lại có một cuộc chia li vĩnh viễn.
Trương Sinh bế con, nó không theo, chàng dỗ con. Không ngờ thằng bé ngây thơ lại nói: Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Cha tôi chỉ nín thin thít… Trương Sinh gặng hỏi con, thì đã được bé Đản nói rõ ràng: Cha nó ngày nào cũng đến, mẹ nó đi cha nó cũng đi theo, vốn tính cả ghen, Trương Sinh cho rằng có người đàn ông thứ hai xen vào gia đình mình.
Nghi ngờ này sẽ được giải tỏa nếu Trương Sinh cho biết câu nói của con. Trương Sinh không làm như vậy. Cái thói ghen tuông thô lỗ ăn sâu vào tâm trí, khiến cho Trương Sinh mất lí trí, thiếu tỉnh táo đã mắng nhiếc Vũ Nương thậm tệ rồi đánh đuổi nàng đi. Trương Sinh bất chấp những lời thanh minh, van xin tha của Vũ Nương, khiến nàng chỉ còn một con đường lấy cái chết để giãi bày lòng mình.
Từ đây ta nhận thấy nguyên nhân cái chết của Vũ Nương còn do: Chiến tranh li tán, vợ phải xa chồng tạo nên mối ngờ vực, xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ.
Cái chết của Vũ Nương đã chứng minh rằng: Hạnh phúc lứa đôi chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở của tình yêu thương chân chính, có sự cảm thông và sẻ chia.
Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương - Mẫu 3
Tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương đã để lại trong lòng người đọc những cảm xúc khó phai về số phận của người phụ nữ Việt Nam trong chế độ cũ. Hình ảnh người con gái Vũ Nương phải gieo mình xuống dòng sông Nhị Hà để chứng minh sự trong trắng trinh bạch của mình, khi bị chồng nghi oan, khiến cho người đọc vô cùng cảm động, rơi nước mắt xót xa.
Vũ Nương vốn là người con gái thùy mị, đoan trang nhưng do tính đa nghi của người chồng. Do xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, coi trọng tiếng nói, uy quyền của người đàn ông hơn phụ nữ đã khiến cho nàng phải chết oan khuất như vậy. Thông qua tác phẩm của mình tác giả Nguyễn Dữ muốn bày tỏ niềm xót xa với những người phụ nữ thời xưa, thể hiện tinh thần nhân văn nhân đạo của tác giả.
Vũ Nương tên cha mẹ đặt cho nàng là Vũ Thị Thiết, vốn là người con gái nết na, xinh đẹp, khéo tay được nhiều chàng trai để ý thầm thương trộm nhớ. Nhưng năm nàng tròn đôi chín, có chàng trai tên Trương Sinh, gia cảnh neo đơn, nhà chỉ có một mẹ một con đến xin hỏi cưới làm vợ với giá một trăm lạng vàng.
Chính trong phong tục cưới vợ ngày xưa đã cho thấy người phụ nữ không hề có quyền quyết định vận mệnh tương lai, hạnh phúc của mình. Nàng tuy là một con người có suy nghĩ, tính cách của riêng mình nhưng chuyện cưới hỏi, chuyện hạnh phúc trăm năm nàng lại phải nghe lời cha mẹ hai bên. Nàng được hỏi cưới với giá một trăm lạng vàng chẳng khác nào được bán với một trăm lạng vàng.
Từ ngày về làm dâu, làm vợ Trương Sinh, Vũ Nương luôn hiếu thuận với mẹ chồng, là người vợ hiền dâu thảo, không để gia đình chồng chê trách điều gì. Nàng luôn chu đáo lo toan trong ngoài. Từ xưa tới nay những người con dâu như nàng thật hiếm thấy. Nàng và Trương Sinh cũng tâm đầu ý hợp không bao giờ xảy ra to tiếng, cãi vã bất hòa bởi Vũ Nương luôn coi lời chồng và mẹ chồng là quan trọng nhất. Với đức tính ngoan hiền, dịu dàng, thùy mị nết na của mình Vũ Nương luôn giữ gìn gia đình của mình hạnh phúc ấm êm.
Những hạnh phúc ngắn ngủi, Trương Sinh phải gia nhập quân ngũ đi đánh giặc ngoài chiến trường, khi mà Vũ Nương vừa luôn giữ trọn đạo vợ hiền, dâu thảo, nàng chăm sóc mẹ chồng, giữ gìn đức hạnh mới mang thai. Dù xa chồng nhưng Vũ Nương chờ chồng, thủy chung trước sau như một. Không một chút tà tâm, hay có lòng dạ không chung thủy, yếu lòng với ai đó. Nhưng chẳng bao lâu khi Trương Sinh đi xa, mẹ chồng của nàng ốm bệnh, dù đã cố gắng chạy chữa thuốc thang nhưng bà không qua khỏi mà mất đi, bỏ lại Vũ Nương một mình với đứa con nhỏ.
Hai mẹ con nuôi nhau sống qua ngày, chờ ngày Trương Sinh trở về. Nhiều đêm buồn nhớ chồng Vũ Nương thường chỉ bóng mình trên tường nói với con trai đó chính là ba con đó. Thằng bé ngây thơ tưởng thật. Nó đâu biết rằng đó chỉ là cái bóng của mẹ nó mà thôi.
Chiến tranh kết thúc ngày Trương Sinh trở về nhà, Vũ Nương vui mừng khôn xiết, những tưởng năm tháng chờ chồng nuôi con một mình đã được báo đáp. Nhưng sóng gió đã ập đến với nàng một cách không ngờ. Khi về tới nhà nghe tin mẹ mất Trương Sinh đau xót vô cùng, anh chàng liền bế con trai của mình đi ra mộ mẹ thắp hương cho mẹ yên lòng. Nhưng thằng bé cứ khóc mãi không chịu nín nó nhất định không chịu nhận Trương Sinh là cha. Nó bảo cha nó tối nào cũng tới.
Trương Sinh nóng tính, hay ghen, lại quá đa nghi nên vội vã tin lời con trẻ, không cho vợ được giải thích mà đùng đùng nổi giận đuổi vợ ra khỏi nhà. Quá đau đớn vì không thể thanh minh sự trong sạch của mình nên Vũ Nương đã nhảy xuống sông Nhị Hà tự vẫn. Trước nỗi oan khuất quá lớn Vũ Nương không thể nào sống tiếp trên cõi đời này được nữa.
Người con gái tên Vũ Nương đó đã phải chết trong oan khuất, tủi hờn như vậy. Nhưng do phẩm giá cao quý và đức hạnh của nàng đã làm trời đất cảm động. Cuối cùng thì nàng cũng được giải oan, khi mà Trương Sinh trong một đêm không ngủ ngồi soi bóng mình trên tường thì con trai anh nhìn thấy nó vui mừng nói lớn "Cha con đó". Trương Sinh biết mình đã nghi oan cho vợ nhưng hối hận thì đã muộn màng. Còn Vũ Nương sau khi chết được cứu giúp rồi được lập đàn siêu thoát bay về trời làm tiên nữa, thoát kiếp con người khổ đau bất hạnh.
Chuyện người con gái Nam Xương nhằm tố cáo tội ác của chế độ phong kiến, người đàn ông luôn cậy quyền lực mà đàn áp người phụ nữ khiến cho nhiều người phụ nữ phải chịu thiệt thòi, oan khuất. Nhân vật Vũ Nương là người con gái hiền dịu nết na, là tấm gương cho nhiều nhiều phụ nữ noi theo. Cô là người đức hạnh, hiền thục rất tiếc rằng cuộc đời lại không cho cô gặp được một người chồng tốt, không cho cô được quyết định hạnh phúc của đời mình.
Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương - Mẫu 4
Nguyễn Dữ sống ở thế kỷ XVI quê ở huyện Trường Tân nay là Thanh Miện - Hải Dương. Ông là học trò của Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm. Các tác phẩm của ông đã đóng góp rất lớn cho nền văn học trung đại Việt Nam. Điển hình là “Truyền kỳ Mạn Lục” gồm có hai mươi câu chuyện nhỏ. Trong đó tiêu biểu là chuyện người con gái Nam Xương là câu chuyện thứ 16 của “Truyền Kỳ Mạn Lục”, được bắt đầu từ truyện cổ tích “vợ chàng Trương”. Truyện thể hiện niềm thương cảm sâu sắc của tác giả trước số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, đồng thời ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của họ qua nhân vật chính Vũ Nương.
Trước tiên, Vũ Nương là người phụ nữ mang nhiều phẩm chất tốt đẹp. Nàng là người phụ nữ bình dân xuất thân từ gia đình nghèo nhưng vừa có nhan sắc, vừa có đức hạnh. Tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp.
Vẻ đẹp của Vũ Nương là vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam - của “chiếc bánh trôi” trong thơ của Hồ Xuân Hương “vừa trắng lại vừa tròn”. Vì vậy Trương Sinh con nhà hào phú đã xin với mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ, cuộc hôn nhân ấy vốn không bình đẳng, đã vậy Trương Sinh lại có tính đa nghi, hay ghen. Nhưng trong đạo vợ chồng, nàng tỏ ra là một phụ nữ thông minh, đôn hậu, biết chồng có tính đa nghi hay ghen nàng đã “luôn giữ gìn khuôn phép... thất hòa”. Điều ấy chứng tỏ nàng rất khéo léo trong việc vun vén hạnh phúc gia đình.
Sống trong thời loạn lạc nên cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì Trương Sinh tòng quân đi lính nơi biên ải. Buổi tiễn chồng ra trận nàng rót chén rượu đầy chúc chồng bình yên “chàng đi chuyến này thiếp chẳng mong... thế là đủ rồi”. Ước mong của nàng thật giản dị chỉ vì nàng coi trọng hạnh phúc gia đình hơn mọi công danh phù phiếm ở đời. Những năm xa cách Vũ Nương thương nhớ chồng khôn xiết kể: “Mỗi khi bướm lượn đầy vườn mây che kín núi thì nỗi buồn chân trời góc bể lại không thể nào ngăn được”.
Tâm trạng thương nhớ ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của nhiều người chinh phụ trong thời loạn lạc ngày xưa:
Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
(Chinh phụ ngâm khúc, Đoàn Thị Điểm)
Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau xa cách chồng của Vũ Nương vừa ca ngợi tấm lòng chung thủy của nàng.
Không chỉ là một người vợ chung thủy, Vũ Nương còn là một người mẹ hiền, người con dâu hiếu thảo, chàng ra trận vừa tròn tuần thì nàng sinh con nuôi dạy con khôn lớn. Để bù đắp thiếu vắng cha của con nàng chỉ chiếc bóng của mình trên tường và nói là cha Đản, còn với mẹ chồng già yếu nàng chăm sóc mẹ rất chu đáo, thuốc thang phụng dưỡng như cha mẹ đẻ của mình. Nàng đã làm chọn chữ “công” với nhà chồng. Đây là điều rất đáng trân trọng của Vũ Nương bởi thời xưa quan hệ mẹ chồng nàng dâu dường như chưa bao giờ êm đẹp và chứa đầy những định kiến khắt khe.
Tấm lòng của nàng đã được người mẹ chồng ghi nhận, điều này thể hiện qua những lời trăn trối của bà trước khi qua đời “Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức giống dòng tối tươi, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Vũ Nương chính là người phụ nữ lý tưởng trong xã hội ngày xưa: Công, dung, ngôn, hạnh.
Là người phụ nữ có bao phẩm chất tốt đẹp đáng lẽ nàng phải được hưởng cuộc sống hạnh phúc chí ít cũng như nàng mong ước đó là thú vui nghi gia, nghi thất - vợ chồng con cái sum họp bên nhau. Thế nhưng cuộc sống của Vũ Nương cũng như cuộc đời của người phụ nữ xưa là những trang buồn đầy nước mắt. Bất hạnh của nàng bắt đầu từ khi giặc tan Trương Sinh trở về, chuyện cái bóng của con thơ đã là Trương Sinh ngờ vực, rồi kết tội Vũ Nương. Chàng đinh ninh là vợ hư, nàng hết lời phân trần để bày tỏ lòng thủy chung, cố gắng hàn gắn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ những tất cả đều vô ích. Vốn có tính hay ghen lại vũ phu ít học.
Trương Sinh đã đối xử với nàng hết sức tàn nhẫn “mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi”, bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ và những lời khuyên can của hàng xóm. Thất vọng đến tột cùng Vũ Nương đành mượn dòng nước quê hương để giải tỏa nỗi lòng trong trắng của mình. Nàng “tắm gội chay sạch ra bến sông Hoàng Giang ngửa cổ lên trời là than rằng kẻ bạc mệnh này duyên hẩm hiu... phỉ nhổ”. Nói rồi nàng nhảy xuống sông tự vẫn. Vũ Nương bị người thân nhất đẩy xuống bên bờ vực thẳm dẫn đến bi kịch gia đình.
Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương (thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến) qua “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, “thà chết trong còn hơn sống đục” với tấm lòng yêu thương con người Nguyễn Dữ không để cho sự trong sáng cao đẹp của Vũ Nương phải chịu oan khuất nên phần cuối chuyện đầy ắp những chi tiết hoang đường kì ảo. Sau câu chuyện của Phan Lang, Trương Sinh lập đàn giải oan cho vợ. Nàng trở về trong thế rực rỡ uy nghi nhưng chỉ thấp thoáng trong giây lát rồi biến mất mãi mãi. Vũ Nương mãi mất đi quyền sống, quyền hạnh phúc, quyền làm vợ, làm mẹ. Bi kịch của Vũ Nương cũng chính là bi kịch của người phụ nữ xã hội xưa. Bi kịch ấy không chỉ dừng ở thế kỉ XVI, XVII, XVIII mà đến đầu thế kỷ XIX Nguyễn Du từng viết trong truyện Kiều:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Với niềm xót thương sâu sắc, Nguyễn Dữ lên án những thế lực tàn ác chà đạp lên những khát vọng chính đáng của con người - của phụ nữ. Ông tố cáo xã hội phong kiến với những hủ tục phi lý, trọng nam khinh nữ, đạo tam tòng bao bất công và hiện thân của nó là nhân vật Trương Sinh, người chồng ghen tuông mù quáng, vũ phu sống với hủ tục là thế lực đồng tiền bạc án nên Trương Sinh con nhà hào phú một lúc bỏ ra trăm lạng vàng để cưới Vũ Nương. Ngoài ra ông còn tố cáo chiến tranh phi nghĩa đã làm phá vỡ hạnh phúc gia đình của con người.
Như vậy bằng cách xây dựng truyện hết sức độc đáo là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố tự sự, trữ tình và yếu tố thực ảo. Chuyện “Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ mang đến cho chúng ta bao ấn tượng tốt đẹp. Truyện ca ngợi Vũ Nương có đầy đủ phẩm chất tốt đẹp mang tính truyền thống nhưng cuộc đời nàng lại là những trang buồn đầy nước mắt. Vẻ đẹp số phận của nàng cũng là vẻ đẹp số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũ. Ngày nay chúng ta được sống trong thế giới công bằng dân chủ, văn minh người phụ nữ là một nửa của thế giới họ được hưởng những quyền lợi mà nam giới được hưởng. Vậy chúng ta hãy phát huy những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ xưa và thương cảm trước số phận của họ
.....
Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương
Nguyễn Dữ sống ở thế kỷ 16, là một người học rộng, tài cao nhưng bất mãn với thời cuộc, chọn cách sống ẩn dật. “Chuyện người con gái Nam Xương” là thiên truyện thức 16 trích trong tập Truyền kì mạn lục, một tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Dữ.
Vũ Nương là nhân vật chính trong truyện; là người phụ nữ bình dân có truyền thống tốt đẹp về đạo đức, phẩm chất nhưng trong xã hội phong kiến phải chịu đau khổ. Đọc “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ ta thương nhân vật Vũ Nương người con gái thùy mị nết na, tư dung tốt đẹp, người vợ hiền con thảo nhưng bị hàm oan phải tự tử để bảo vệ danh tiết.
Vũ Nương là người con gái đẹp người, đẹp nết, lấy chồng là Trương Sinh, con nhà hào phú. Hạnh phúc chưa được bao lâu thì quân giặc quấy nhiễu biên cương, Trương Sinh phải đi lính. Do hoàn cảnh trớ trêu và những nghi kị của chồng, Vũ Nương đã chọn lấy một cái chết oan ức, để lại cho nhân gian biết bao thương cảm.
Vũ Nương là người phụ nữ đẹp người, đẹp nết: “vốn đã thùy mị, nết na lại thêm tư dung, tốt đẹp”. Nàng có nhiều phẩm chất tốt đẹp, mẫu mực mà một người phụ nữ cần có. Là người vợ dịu hiền, biết giữ gìn khuôn phép. Lúc chồng còn ở nhà, nàng hiểu tính chông, chưa từng để gia đình phải bất hòa. khi chồng đi xa, nàng vẫn một lòng chung thủy, thương nhớ chồng khôn nguôi, mong chồng trở về bình yên vô sự, ngày qua tháng lại một mình vò võ nuôi con.
Là người con dâu hiếu thảo. Khi Trương Sinh ra trận, người mẹ vì mong nhớ con trong lòng khổ sầu. Nàng lựa lời an ủi, giúp mẹ nguôi ngoai. Lúc bà ốm, nàng tận tình chăm sóc như mẹ đẻ của mình. Lúc bà mất, nàng lo việc ma chay, tế lễ chu toàn.
Là người mẹ yêu thương con: Một mình chăm sóc con nhỏ khi chồng đi vắng. Nàng luôn tìm cách bù đắp thiếu thốn tinh thần của con bằng cách chỉ vào bóng mình trên tường giả làm cha đứa bé.
Là người phụ nữ trọng nhân phẩm, tình nghĩa. Khi bị chồng nghi oan, nàng hết lời giải thích, phân trần nhưng không được. Tuyệt vọng, nàng chọn cái chết để minh oan cho mình. Khi ở dưới thủy cung, nàng ngày đêm mong nhớ quê hương.
Là người phụ nữ giàu lòng vị tha: Bị Trương Sinh đẩy đến đường cùng phải chết oan ức nhưng không oán trách, hận thù. Khi trương Sinh lập đàn giải oan ở bến sông vẫn hiện về nói lời “đa tạ tình chàng”.
Trương sinh đa nghi, hồ đồ, vì nghe lời con trẻ ngây thơ đã nghi oan, cho rằng nàng đã thất tiết, sỉ mắng nàng thậm tệ. Vũ Nương đau khổ, khóc lóc bày tỏ nỗi oan với chồng nhưng chồng vẫn không nghe còn mắng nhiếc, đánh và đuổi nàng đi. Không thể thanh minh được, nàng tìm đến cái chết để tỏ bày nỗi oan ức của mình. Ở thuỷ cung, nàng vẫn nhớ quê hương, có ngày tất phải tìm về. Tìm về là để giải bày nỗi oan với chồng, với mọi người. Nhưng nàng không thể trở về với nhân gian được nữa.
Chuyện người con gái Nam Xương đã thể hiện niềm thương cảm với số phận oan nghiệt của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ: hiếu thảo, son sắt, nhân hậu. Đồng thời, lên án, tố cáo chiến tranh phi nghĩa, phê phán nhiều thói xấu trong xã hội như thói gia trưởng, thô bạo, bất bình đẳng giới.. luôn chà đạp, vùi dập người phụ nữ.
Đặc biệt, với nghệ thuật xây dựng nhân vật tài tình, nhân vật được xây dựng qua lời nói và hành động. Tạo dựng tình huống để thử thách nhân vật, khắc họa nhân vật qua ngoại hình, hành động, đối thoại… kết hợp với yếu tố kì ảo có thực Các lời trần thuật và đối thoại của nhân vật sử dụng nhiều hình ảnh ước lệ nhưng vẫn khắc họa đậm nét và chân thật nội tâm nhân vật.
Thông qua cuộc đời và số phận của nhân vật Vũ Nương, tác phẩm tố cáo xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của kẻ giàu có và của người đàn ông trong gia đình, tố cáo chiến tranh phi nghĩa khiến cho con người chịu nhiều oan khuất và bế tắc, phải tìm đến cái chết để kết thúc bi kịch cuộc đời. Tác phẩm ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam thông qua nhân vật Vũ Nương: thùy mị, nết na, luôn giữ gìn khuôn phép, hết mực thủy chung với chồng. Những phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương cũng chính là nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam cần được tôn vinh trong mọi thời đại.
Cảm nhận Vũ Nương hay nhất
Hải Dương là một mảnh đất hiếu học, nơi ấy đã sản sinh ra nhiều nhân tài cho đất nước như Nguyễn Dữ, một nhà văn lớn, một học trò xuất sắc của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông có nhiều đóng góp cho nền văn học trung đại nước nhà trong đó tác phẩm Truyền kì mạn lục gồm hai mươi câu chuyện nhỏ đã gây nên một tiếng vang lớn và khiến nhiều người biết đến ông hơn. Chuyện người con gái Nam Xương chính là câu chuyện thứ 16 trong Truyền kì mạn lục để lại nhiều ấn tượng đối với bạn đọc. Tác giả đã chạm đến cảm xúc của người đọc khi mà lột tả được hết bi kịch trong cuộc đời của người con gái tên là Vũ Nương.
Người con gái ấy mang trong mình rất nhiều phẩm chất tốt đẹp. Nàng sinh ra trong một gia đình nghèo khó về vật chất nhưng lại có nhan sắc, đức hạnh. Vốn dĩ những người phụ nữ như vậy phải được hưởng một cuộc sống hạnh phúc nhưng hồng nhan thì bạc mệnh, có lẽ đó là lời nguyền chung. Như Thúy Kiều của Nguyễn Du, một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại phải sống một cuộc đời đầy khổ ải, chịu nhiều tủi nhục. Trở lại với Vũ Nương, nàng được Nguyễn Dữ miêu tả là người phụ nữ có tính tình thùy mị, nết na lại thêm tư duy tốt đẹp. Vũ Nương mang một vẻ đẹp thuần khiết của một người phụ nữ Việt Nam thời xưa mà như Hồ Xuân Hương đã từng viết trong tác phẩm của mình là “vừa trắng lại vừa tròn”. Chính nhờ những vẻ đẹp ấy của mình mà Vũ Nương lọt vào mắt xanh của Trương Sinh, con trai nhà hào phú. Nàng được gả về làm vợ Trương Sinh với mức giá trăm lạng vàng, một cuộc hôn nhân không bình đẳng, không phải vì tình yêu. Mà thời xưa, phụ nữ Việt đâu có được sống với tình yêu, với thanh xuân.
Lấy được một người chồng có gia thế, lẽ ra Vũ Nương phải được sống hạnh phúc trong nhung lụa. Nhưng nàng không vì giàu sang mà đánh đổi bản thân mình. Nàng vẫn giữ được cái đức hạnh của một người con gái chân quê. Nàng chăm chỉ làm lụng lo cho gia đình nhà chồng. Nàng chăm sóc mẹ chồng như chăm sóc mẹ đẻ của mình. Cưới nhau chưa được bao lâu thì Trương Sinh phải đi lính, nàng một mình ở nhà chăm sóc mẹ già lại thêm đứa con ở trong bụng, vất vả đủ đường. Đứa con chào đời mà người chồng vẫn chưa trở về, Vũ Nương mòn mỏi chờ đợi chẳng khác nào người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm khúc. Nàng vẫn luôn giữ gìn khuôn phép, giữ trọn đạo lý làm vợ, làm mẹ. Nàng khéo léo vun vén hạnh phúc gia đình, thu vén công việc và cho thấy mình là một người phụ nữ thông minh. Nàng khiến cho bà con làng xóm, mẹ chồng ai cũng đều yêu mến.
Với mẹ chồng, nàng chăm sóc bà tận tình và điều đó thể hiện rõ nét nhất trong những ngày cuối đời của bà. Một mình người phụ nữ bé nhỏ là Vũ Nương phải chạy đôn chạy đáo lo thuốc thang cho mẹ chồng. Bà không qua khỏi, nàng lại vất vả lo ma chay. Phải mạnh mẽ lắm, giỏi giang lắm thì Vũ Nương mới đủ sức một mình gồng gánh quá nhiều công việc như vậy. Kể mà có một người đàn ông trong nhà thì nàng đỡ khổ bao nhiêu. Mẹ chồng nàng trước khi qua đời cũng đã ghi nhận công lao của nàng với gia đình nhà chồng mà trăn trối rằng “Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức giống dòng tốt tươi, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.
Với con trai, nàng vừa là mẹ, vừa là cha. Những đứa trẻ lớn lên thiếu thốn tình cảm của người cha thường có sự mặc cảm trong lòng. Chưa kể chúng còn dễ bị người đời dè bỉu. Tất nhiên, cha Đản đi lính nên không ai dè bỉu Đản cả. Thế nhưng Vũ Nương vẫn sợ con mình cảm thấy thiếu thốn tình cha. Và để bù đắp cho sự thiếu thốn ấy, đêm đêm nàng chỉ vào cái bóng của mình ở trên tường và bảo với con đó chính là cha của con. Nàng không ngờ rằng chính vì điều này đã khiến cuộc đời nàng rơi vào bi kịch.
Trương Sinh chồng nàng là một người có tính đa nghi. Cộng thêm hoàn cảnh chiến tranh đẩy cặp vợ chồng này phải xa nhau nên Trương Sinh càng trở nên đa nghi hơn. Chuyện cái bóng thông qua lời kể của bé Đản khiến Trương Sinh nghi ngờ tình cảm và sự chung thủy của người vợ. Sự mù quáng của Trương Sinh khiến chàng không muốn nghe ai nói, không muốn nghe bất cứ một lời giải thích nào. Chàng vội kết tội Vũ Nương là người không chung thủy mặc cho nàng giải thích. Thậm chí, Vũ Nương còn bị mắng nhiếc thậm tệ và bị đuổi đi. Vũ Nương không còn cách nào khác, nàng đã mượn dòng nước quê hương để giãi bày nỗi lòng trong trắng của mình. Đáng thương thay số phận người phụ nữ bị chính người thân yêu nhất của mình đẩy vào con đường cùng.
Qua Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ chúng ta cảm nhận được Vũ Nương là một người phụ nữ có tư chất thông minh, tâm hồn trong sáng và cao đẹp. Nàng thà chết để giữ sạch sự trong sáng, giữ sạch phẩm hạnh của mình còn hơn là sống mà để cho người ta nghi ngờ. Như cảm thông cho số phận của người phụ nữ này và cũng như một cách lên tiếng bảo vệ người phụ nữ, Nguyễn Dữ đã để cho nàng được sống dưới long cung nhưng không cho nàng trở về để cảnh tỉnh những người đàn ông như Trương Sinh. Một lời nói ra có thể giết chết một con người và chúng ta sẽ không thể nào sửa chữa được sai lầm to lớn ấy. Trương Sinh sau khi nghe câu chuyện của Phan Lang đã lập đàn giải oan cho vợ nhưng cũng không đủ giúp chàng giải thoát được sự giằn vặt từ sâu trong tâm can.
Từ nỗi khổ, nỗi bất hạnh của Vũ Nương, ta cũng cảm nhận được nỗi đau của những người phụ nữ sống trong xã hội cũ. Chính chiến tranh đã gây nên tội ác lớn lao cho con người, khiến đôi lứa phải xa nhau, mẹ phải xa con, vợ phải xa chồng. Trên hết, Nguyễn Dữ thông qua hình ảnh Vũ Nương đã ca ngợi những phẩm chất tuyệt vời của người phụ nữ Việt Nam thời xưa.
Cảm nhận vẻ đẹp nhân vật Vũ Nương
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.”
(Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương)
Bà chúa thơ Nôm đã từng viết về thân phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến ngày xưa như thế. Họ xinh đẹp, tài năng, có những phẩm chất tốt nhưng lại bị cuộc đời chà đạp. Để bênh vực số phận của họ đã có rất nhiều những nhà văn, nhà thơ lên tiếng qua các sáng tác, trong đó có Nguyễn Dữ với Chuyện người con gái Nam Xương, trích trong Truyền kì mạn lục, một tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Hán của ông. Tác phẩm kể về bi kịch cuộc đời của nhân vật Vũ Nương- một người con gái tư dung tốt đẹp, tính thuỳ mị nết na nhưng lại có một số phận oan trái.
Chuyện người con gái Nam Xương là tiếng nói đồng cảm, trân trọng, ngợi ca của tác giả đối với con người, đặc biệt là người phụ nữ. Nhân vật chính là Vũ Nương, người con gái quê Nam Xương, vốn con kẻ khó nhưng có một khát khao bao trùm cả cuộc đời – đó là “thú vui nghi gia nghi thất”. Nàng vừa có nhan sắc, vừa có đức hạnh, mang đầy đủ vẻ đẹp của một người phụ nữ lý tưởng “Tính đã thuỳ mị nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp. Khi xây dựng nhân vật này, Nguyễn Dữ không mấy chú trọng đến “tư dung” – ngoại hình mà ông quan tâm nhiều đến những phẩm chất tốt đẹp của nàng. Vậy, sự thuỳ mị nết na ấy của Vũ Nương được biểu hiện như thế nào?
Trước hết, Vũ Nương là một người phụ nữ khát khao hạnh phúc gia đình, không màng công danh và thuỷ chung, yêu thương chồng hết mực.
Trong những ngày đoàn viên ngắn ngủi, dù Trương Sinh “có tính đa nghi, phòng ngừa quá sức” nhưng nàng đã “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà”. Thế rồi chiến tranh xảy ra, người chồng yêu dấu của nàng phải đi lính. Mong ước lớn nhất của nàng không phải là công danh phú quý mà nàng chỉ khát khao ngày chồng mình trở về “mang theo hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Mong ước ấy thật là bình dị. Vũ Nương đã khát khao và coi trọng hạnh phúc gia đình hơn mọi công danh phù phiếm ở trên đời.
Và rồi, người chồng yêu dấu của nàng đã ra đi. Trong xa cách, Vũ Nương luôn thương nhớ chồng khôn xiết, nỗi nhớ ấy cứ dài theo năm tháng: “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Người thiếu phụ trẻ trung xinh đẹp ấy một lòng một dạ chờ chồng, nuôi con. Thế mà khi Trường Sinh trở về, nhân vật chính của chúng ta lại bị nghi oan là thất tiết. Đây là một cái án quá lớn đối với nàng. Trước sự đối xử tệ bạc: mắng nhiếc, đánh đập, đuổi đi của người mà suốt ba năm xa cách nàng luôn đằng đẵng nhớ thương ấy, Vũ Nương vẫn cố phân trần, khẳng định sự thuỷ chung của mình và cầu xin “Mong chàng một mực đừng nghi oan cho thiếp”. Nghĩa là người con gái này vẫn hết lòng tìm cách hàn gắn cái hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ. Thế nhưng mong ước bình dị, “cái thú vui nghi gia nghi thất” ấy đã vỡ tan. Tổ ấm mà nàng đã dày công gây dựng nên đã bị Trương Sinh phá vỡ nhưng người thiếu phụ này vẫn luôn nhớ đến chồng nên khi sống dưới thuỷ cung, nghe Phan Lang nhắc đến gia đình, nàng cũng “ứa nước mắt” và muốn được trở về. Dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ, nhân vật Vũ Nương hiện lên rất đỗi dịu dàng, đằm thắm, thiết tha với hạnh phúc gia đình, không hư danh và thương chồng hết mực.
Không những thế, nhân vật này còn là một con dâu hiếu thảo, một người mẹ yêu thương con hết mực. Một mình nàng phải chịu bao gian lao, vất vả; nào là khi sinh đẻ không ai đỡ đần, nào là một thân vừa nuôi con thơ, vừa chăm sóc mẹ chồng già yếu. Thế nhưng nàng đã lo tròn chu tất lo thuốc thang cầu khẩn thần phật và lúc nào cũng dịu dàng ân cần lấy lời ngọt ngào, khôn khéo khuyên lơn. Rồi khi mẹ chồng mất, nàng lại một mình lo việc ma chay, tế lễ chôn cất như đối với cha mẹ đẻ của mình. Ngòi bút của Nguyễn Dữ thật già dặn khi để cho chính người mẹ chồng ấy nhận xét về tấm lòng hiếu thảo của nàng trước khi bà qua đời: “Sau này trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn. Xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ.”. Rõ ràng, trong mắt của bà, nàng là một “người lành”.
Còn đối với bé Đản thì sao? Nàng luôn yêu thương và chăm sóc con chu đáo. Và cũng có lẽ vì yêu thương con, vì muốn con lúc nào cũng có cha ở bên, không cảm thấy thiệt thòi về mặt tình cảm nên Vũ Nương đã chỉ bóng mình ở trên tường mà bảo là cha nó để dỗ dành con. Cuộc đời Vũ Nương tuy ngắn ngủi nhưng nàng đã làm tròn nghĩa vụ của một người phụ nữ: làm con dâu, làm vợ, làm mẹ.
Qua cách xử thế cũng như qua lời nói, thái độ, hành động, ta còn thấy hiện lên một Vũ Nương coi trọng nhân phẩm. Trước sự nghi oan của chồng, nàng đã tìm đến cái chết với lời than: “Nếu thiếp đoan trang giữ tiết trinh bạch gìn lòng thì vào nước xin làm ngọc Mị Nương, dưới đất xin làm cỏ Ngu Mĩ”. Lời than như một lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và tiết sạch giá trong của mình. Hành động tự trẫm mình của nàng là một hành động quyết liệt để bảo toàn danh dự, có nỗi tuyệt vọng đắng cay nhưng cũng có sự chỉ đạo của lý trí “tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời than” không phải là một hành động bột phát trong cơn nóng giận như truyện cổ tích miêu tả. Và khi không còn ở dương gian, sống ở cõi âm, nàng vẫn muốn trở về, muốn khát khao được phục hồi danh dự. Dường như Nguyễn Dữ đã tập trung những nét điển hình của người phụ nữ Việt Nam vào nhân vật Vũ Nương. Đó là hình ảnh người phụ nữ lý tưởng trong xã hội phong kiến ngày xưa.
Lẽ ra, với sự dịu dàng, đảm đang, tháo vát, hiểu nghĩa, tận tụy và chung tình đó, người phụ nữ này phải được đền bù xứng đáng bằng một gia đình yên ấm. Nhưng oái oăm thay, Vũ Nương lại phải nhận lấy một số phận đau thương – nàng phải chết. Đó chính là bi kịch về số phận con người. Ngày sum họp cũng là ngày nàng lìa xa tổ ấm. Và đau đớn hơn, kẻ đẩy nàng vào cái chết bi thảm không phải ai xa lạ mà chính là người chồng nàng hằng thương nhớ “cách biệt ba năm giữ gìn một tiết” và đứa con trai duy nhất của nàng. Chỉ vì tin lời con trẻ và do ghen tuông mù quáng mà Trương Sinh đã nghi ngờ và gán cho vợ là thất tiết. Chàng ta đã hành hạ, đánh đập, nhiếc móc Vũ Nương không tiếc lời, không nghe lời “biện bạch mà bênh vực cho nàng” của hàng xóm cũng như những lời phân trần, giãi bày của vợ để Vũ Nương phải lấy cái chết để bày tỏ lòng mình. Một cái chết thật đớn đau và oan uổng. Cái chết đó khác nào bị bức tử mà kẻ bức tử lại hoàn toàn vô can. Qua thân phận của nhân vật này, nhà văn muốn tố cáo xã hội phong kiến và bày tỏ niềm cảm thương của tác giả đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Vũ Nương cũng như bao người con gái khác, họ đều phải chịu một số phận đau thương như thế. Một cung nữ trong “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều mòn mỏi trong cung cấm để tuổi xuân phải trôi qua trong nỗi tiếc nuối, đợi chờ. Một Thuý Kiều tài sắc vẹn toàn mà phải mười lăm năm lưu lạc, dang dở tình duyên, hai lần vào lầu xanh, trải qua những tháng ngày nhục nhã… Những người phụ nữ đức hạnh này không được che chở, bênh vực mà còn bị đối xử một cách bất công, vô lý.
Để xây dựng thành công hình tượng nhân vật Vũ Nương, một yếu tố mà ta không thể không nhắc đến, ấy là nghệ thuật kể truyện. Truyện có rất nhiều lời thoại và lời tự bạch của nhân vật được sắp xếp rất đúng chỗ làm cho câu chuyện trở nên sinh động, góp phần không nhỏ vào việc khắc hoạ tính cách nhân vật. Qua lời nói của Vũ Nương với Trương Sinh, với mẹ chồng và những lời tự bạch của nàng trước khi chết bao giờ cũng chân thành, dịu dàng, mềm mỏng, có lý có tình ngay cả trong lúc đang tức giận nhất đã cho ta thấy được sự nết na, hiền thục trong trắng, không có gì đáng khuất tất của nhân vật này. Nguyễn Du đã đan xen những yếu tố kì ảo vào truyện: Vũ Nương không chết. Nàng ở dưới thuỷ cung, hiện lên ở bến sông với lời tạ từ ngậm ngùi: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về dân gian được nữa” đã làm cho thế giới kì ảo lung linh, mơ hồ trở nên gần gũi với cuộc đời thực, hoàn thiện thêm nét đẹp của tính cách nhân vật Vũ Nương: dù ở thế giới khác vẫn nặng tình với cuộc đời, quan tâm đến chồng con và khát khao được phục hồi danh dự. Cũng qua chi tiết ảo này, người đọc thấy rõ hơn về số phận đau thương của nhân vật chính. Nỗi oan của nàng quá lớn nên không có đàn nào giải nổi.
Trên cơ sở cốt truyện có sẵn, nhà văn đã sắp xếp lại một số tình tiết, thêm bớt hoặc tô đậm những tình tiết có ý nghĩa: lời trăn trối của bà mẹ chồng đã khẳng định một cách khách quan nhân cách và công lao của Vũ Nương đối với gia đình chồng. Những lời phân trần, giãi bày của nàng khi bị nghi oan và hành động quyết liệt, bình tĩnh của nàng khi tìm đến cái chết làm cho hành động nhân vật trở nên đẹp hơn.
Câu chuyện đã khép lại nhưng tấm bi kịch về cuộc đời của nhân vật Vũ Nương và những phẩm hạnh của nàng mãi để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Nguyễn Dữ đã vượt khỏi công thức thông thường về hình tượng người phụ nữ trong thể truyền kì để xây dựng nên hình tượng của một người phụ nữ bình thường như bao người vợ, người mẹ khác trong đời. Tuy mang yếu tố hoang đường nhưng Chuyện người con gái Nam Xương vẫn là một áng văn giàu giá trị nhân đạo, có sức hấp dẫn đối với người đọc ngày nay.
Suy nghĩ về nhân vật Vũ Nương
Từ xa xưa đến nay, người phụ nữ Việt Nam luôn được tôn vinh bởi những nét đẹp truyền thống như sự hi sinh thầm lặng, thùy mị nết na hay sự gan dạ, dũng cảm, kiên cường bất khuất. Có rất nhiều tác phẩm văn học Việt Nam lấy đề tài về những đức tính tốt đẹp của người phụ nữ. Trong đó có Nguyễn Dữ, gương mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam thế kỉ XVI, ông đã đặt niềm thương tiếc đặc biệt cho thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”.
Nguyễn Dữ là con trai cả Tiến sĩ Nguyễn Tường Phiêu, thầy học là Nguyễn Bỉnh Khiêm, và bạn học là Phùng Khắc Khoan. “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện thứ 16 trong tổng số 20 truyện của tác phẩm “Truyền kì mạn lục”. Truyện được coi là một cuốn “thiên cổ kì bút” về cuộc đời của người phụ nữ trong sự hà khắc của xã hội cũ cũng như tiếc thương cho số phận của họ, tiếc thương cho sự bất lực của họ khi không được nói lên tiếng lòng của mình. Nhân vật Vũ Nương là linh hồn của cả tác phẩm, nàng hội tụ đầy đủ những phẩm chất truyền thống tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam, đó là thủy chung với chồng, hiếu thảo với mẹ chồng và là người mẹ mẫu mực.
Thứ nhất, Vũ Nương là người phụ nữ thủy chung son sắc, một lòng chờ chồng khi chồng tòng quân đánh giặc. Khi chưa gả cho Trương Sinh, Vũ Nương vốn đã là người phụ nữ “người đã thùy mị nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp” được nhiều chàng trai thầm thương trộm nhớ. Khi vừa đôi chín, nàng được Trương Sinh đem “trăm lạng vàng cưới về”. Chỉ một chi tiết nhỏ cũng thấy được những hủ tục ngày xưa đã trói buộc người phụ nữ đến mức nào. Vũ Nương hoàn toàn không được quyết định hạnh phúc trăm năm của mình. Điểm mốc quan trọng nhất đời nàng được quyết định bằng trăm lượng vàng và sự thỏa thuận của gia đình hai bên. Chi tiết này chẳng khác nào Vũ Nương được bán đi với giá trăm lượng. Sau khi được gả cho Trương Sinh, nàng biết tính chồng hay ghen nên luôn “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”, nàng luôn là dâu hiền vợ thảo, chăm lo toàn vẹn cho gia đình nhà chồng, chưa để ai phải chê trách bất cứ điều gì.
Với tính đa nghi của Trương Sinh, cuộc sống vợ chồng của nàng không hề bất hòa là do sự gìn giữ của Vũ Nương, nàng luôn đặt chồng và mẹ chồng ở vị trí quan trọng, đem sự chân thành và thực lòng yêu thương họ. Điều này thể hiện rất rõ ràng trong lời tiễn biệt của nàng khi chồng chuẩn bị ra chiến trường, nàng không mong vinh hoa phú quý, “chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Rõ ràng, nàng không phải là người phụ nữ tham tiền tài cũng chẳng màng công danh, tất cả những gì nàng mong muốn cũng giống như bao chinh phụ khác đó là mong sự bình an trở về của người chồng. Không chỉ vậy, nàng cảm thông cho những khó khăn, vất vả mà chồng phải gánh ở nơi chiến trường, lo lắng cũng như muốn san sẻ những khó khăn ấy. Ngày xa chồng, nàng “ngước mắt trông lên đã đẫm nỗi buồn ly biệt”. Trong thời gian chờ chồng, nàng luôn “giữ gìn một tiết, tô son điểm phấn, từng đã nguội lòng, ngõ liễu đường hoa chưa hề bén gót”. Cách biệt ba năm, nỗi nhớ chồng của nàng theo năm tháng đầy vơi, “nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Dưới ngòi bút trân trọng của Nguyễn Dữ, Vũ Nương được phác họa là người phụ nữ dịu dàng nết na, nhất mực yêu thương và chờ đợi chồng cũng như khéo léo, tận tụy, luôn giữ gìn, vun vén cho hạnh phúc gia đình. Nguyễn Dữ vừa cảm thông cho nỗi nhớ chồng của người chinh phụ vừa ca ngợi tôn vinh những phẩm chất đáng quý của nàng.
Thứ hai, Vũ Nương là người phụ nữ hiếu thảo, hiếu nghĩa trong quan hệ với mẹ chồng. Khi Trương Sinh ra chiến trường, nàng thay chồng phụng dưỡng mẹ nhưng vì nhớ con mà bà mẹ sinh bệnh, nàng “hết sức thuốc thang, lễ Phật cầu thần, cúng ma gọi vía và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Khi mẹ chồng nàng qua đời, ma chay tế lễ nàng đều chu tất. Lời cuối của người mẹ chồng chính là minh chứng cho sự tận tụy, hiếu thảo của nàng “Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong ông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ.” Những lời ca ngợi đẹp đẽ nhất ấy được nói ra từ người mẹ chồng lại khiến nó trở nên đáng quý hơn bao giờ hết. Nguyễn Dữ đã khắc họa nhân vật Vũ Nương với đầy đủ những phẩm chất đáng quý nhất, hiếu thảo hiếu nghĩa, hết lòng với mẹ chồng như cha mẹ đẻ.
Thứ ba, với con Vũ Nương luôn là người mẹ mẫu mực. Khi chồng đi xa, nàng một mình vượt cạn sinh ra bé Đản. Một mình gánh vác nhà chồng nhưng nàng chưa bao giờ chểnh mảng việc chăm nuôi con khôn lớn. Chi tiết mỗi tối nàng chỉ lên bóng mình và nói rằng cha Đản về cũng cho thấy rằng nàng luôn sợ con thiếu vắng tình cha nên luôn cố gắng bù đắp cho con. Dù phải dằn vặt với nỗi nhớ chồng cũng như chăm lo cho người mẹ chồng bị ốm nhưng Vũ Nương vẫn luôn nuôi dạy bé Đản khôn lớn với tình yêu thương vô bờ của người mẹ.
Người phụ nữ vẹn toàn hiếu đức ấy đáng lẽ ra xứng đáng một cuộc sống hạnh phúc suốt đời nhưng nàng lại phải chịu sự đa nghi của chồng mà gieo mình ở bến Hoàng Giang. Những lời của nàng trước khi chết là sự quyết liệt cuối cùng để chứng minh sự trong sạch “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu chồng con rẫy bỏ,điều đâu bay buộc tiếng chịu nhuốc nhơ,thần sông có linh xin ngài chứng giám,thiếp nếu đoan trang giữ tiết,trinh bạch gìn lòng,xuống nước xin làm ngọc Mỵ Nương,vào đất xin làm cỏ Ngu Mĩ…”. Bằng lời văn thống thiết, nhịp điệu dồn dập, cái chết của Vũ Nương đã tố cáo trước hết là tư tưởng nam trưởng phong kiến cổ hủ, độc đoán đối với người phụ nữ đã biến những người chồng như Trương Sinh trở thành những tên ác quỷ của gia đình, sau đó lên án chiến tranh phi nghĩa đã làm để những người vợ trở thành chinh phụ mòn mỏi chờ chồng.
Tóm lại, bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật sắc sảo cùng với việc sử dụng các yếu tố kì ảo, Nguyễn Dữ là thành công xây dựng nhân vật Vũ Nương hội tụ đầy đủ các phẩm chất đáng quý của người phụ nữ Việt Nam. Qua bao nhiêu năm tháng cũng như bao tác phẩm văn học ra đời thì nhân vật Vũ Nương vẫn là một tấm gương sáng về sự hi sinh, tận tụy, hiếu nghĩa, chung thủy. Cũng qua nhân vật này, tác giả còn gián tiếp phê phán tư tưởng nam quyền trong xã hội phong kiến đồng thời phê phán những định kiến cổ hủ đặt nặng lên đôi vai người phụ nữ thời bấy giờ.
Trong hành trình dài của văn học Việt Nam, có rất nhiều tác phẩm mang tên gọi truyền kì hoặc có yếu tố truyền kì nhưng chỉ có “Chuyện người con gái Nam Xương” mới xứng đáng với danh “thiên cổ kỳ bút”. Nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” là biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp nhất của người phụ nữ Việt Nam để ngàn đời sau noi theo.
....
>> Tải file để tham khảo các mẫu còn lại!