Trang chủ Ngữ văn Lớp 10 Giúp t vs ạ. ⚠️ CÓ THỂ MƯỢN Ý NHƯNG...

Giúp t vs ạ. ⚠️ CÓ THỂ MƯỢN Ý NHƯNG KHÔNG SAO CHÉP/ ĐẠO VĂN, ƯU TIÊN TỰ LÀM cảm ơn ❤️. Hứa vote 5 sao ❤️❤️"Thuật Hoài là lời tự nói với mình về ý thic, trách

Câu hỏi :

Giúp t vs ạ. ⚠️ CÓ THỂ MƯỢN Ý NHƯNG KHÔNG SAO CHÉP/ ĐẠO VĂN, ƯU TIÊN TỰ LÀM cảm ơn ❤️. Hứa vote 5 sao ❤️❤️

image

Lời giải 1 :

                     Tư liệu riêng HSG, chỉ mang tính chất tham khảo     

                             Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững

                             Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa

                             Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng

                             Sống hiên ngang mà nhân ái, chan hòa  (Huy Cận)

          Lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc đã có biết bao người anh hùng được lưu danh sử sách. Một trong những người anh hùng ấy là Phạm Ngũ Lão. Ông là một danh tướng của nhà Trần, sinh ra trong thời kì loạn lạc bởi giặc Nguyên Mông kéo sang giày xéo đất nước. Tên tuổi của ông gắn liền với giai thoại về một chàng trai nghèo đan sọt, mải nghĩ kế giúp vua đánh giặc đến nỗi bị giáo đâm vào đùi mà không biết. Ông được người đời ca tụng là người văn võ toàn tài, là một vị tướng hễ đánh là thắng và là tác giả hai tác phẩm xuất sắc là "Thuật hoài" và "Viếng Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương". Trong đó “Thuật hoài” là bài thơ nổi tiếng, thể hiện được tài chí, khí phách của một trang nam nhi trong cảnh đất nước lâm nguy. Bài thơ là một khúc tráng ca hào hùng thể hiện rõ Hào khí Đông A của thời đại.

  1. Giới thiệu khái quát:
    - Nhan đề+ trích câu: "Thuật hoài” (thuật: kể lại, bày tỏ; hoài: nỗi lòng) được hiểu là sự thổ lộ khát khao, mong muốn, bày tỏ hoài bão lớn lao và quan điểm riêng của tác giả – một dũng tướng tuổi trẻ tài cao. Một lời thổ lộ, khát vọng chiến công của người anh hùng. Qua đó thấy được vẻ đẹp của con người và sức mạnh thời đại của một trang lịch sử của dân tộc.
    Và có câu nhận định về tác phẩm: ''Trích câu nói từ đề, viết hết''

          - Khái niệm: Hào khí Đông A là hào khí đời Trần vì trong chữ Hán, chữ Trần được ghép thành từ hai bộ chữ là bộ chữ Đông và bộ chữ A. Cụ thể hơn, hào khí Đông A được hiểu là khí thế yêu nước sôi sục, hào sảng từ vua đến dân, từ tướng đến quân, trên dưới một lòng đánh giặc ngoại xâm ở thời nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. 

          - Hoàn cảnh ra đời: Văn học là tấm gương phản chiếu đời sống, hào khí Đông A từ lịch sử đã đi vào thơ văn trở thành một nội dung lớn trong văn học Việt Nam thời Trung đại. “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão ra đời vào cuối nằm 1284 trong không khí yêu nước, quyết chiến quyết thắng với giặc Nguyên Mông khi chúng sang xâm lược nước ta lần thứ hai. Bài thơ chỉ có bốn câu với hai mươi tám chữ mà thấm đậm tinh thần của cả thời đại.

          - Nhan đề: Thuật hoài hay Cảm hoài là kiểu loại thơ được chia theo đề tài, thơ để bày tỏ rất phổ biến trong thơ văn Trung đại. Trong đó, Thuật có nghĩa là bày tỏ, hoài là nỗi lòng.Thuật hoài nghĩa là bày tỏ nỗi lòng. Người bày tỏ nỗi lòng trong bài thơ chính là tác giả, một vị tướng trong quân đội nhà Trần.

          - Bố cục: Bài thơ thuộc thể thất ngôn tứ tuyệt, có thể chia bốn câu thơ thành hai phần chính. Hai câu đầu là hình ảnh người tráng sĩ cứu nước được lồng trong hình ảnh ba quân, thể hiện khung cảnh chung của cả thời đại nhà Trần. Hai câu sau là nỗi lòng của nhà thơ, thể hiện cái chí và cái tâm của kẻ làm trai trong thời loạn.

  1. Hai câu thơ đầu

                                      Múa giáo non sông trải mấy thu

                                      Ba quân hùng khí nuốt trôi trâu

- Câu khai đề của bài thơ miêu tả hình ảnh người tráng sĩ cứu nước mang tầm vóc vũ trụ, hiên ngang, kỳ vĩ. “Hoành sóc” có nghĩa là cầm ngang ngọn giáo. Bản dịch thơ dịch thành “Múa giáo” là chưa thể hiện đúng tinh thần của nguyên tác. Múa giáo là tư thế động, nghiêng về sự phô trương, biểu diễn, trong khi đó thế “hoành” của ngọn giáo là thể hiện một tư thế tĩnh, sự hiên ngang, vững chãi, sẵn sàng chiến đấu. Hình ảnh người tráng sĩ vệ quốc oai phong lẫm liệt cầm ngang ngọn giáo sẵn sàng chiến đấu, hi sinh vì đất nước được đặt trong không gian rộng lớn, kì vĩ là “non sông”, chiều dài của ngọn giáo bằng với chiều dài của non sông đất nước, trong thời gian dài lâu là “trải mấy thâu”. Người tráng sĩ ấy đã thực hiện sứ mệnh trấn giữ giang sơn, giữ yên bờ cõi ròng rã mấy năm rồi mà vẫn bền bỉ, vẫn tràn đầy nhiệt huyết và không hề mệt mỏi. Ngọn lửa quyết tâm chống giặc ngoại xâm rực cháy sáng là để khẳng định đanh thép một lần nữa nền độc lâp tự chủ, tự cường của dân tộc:

                             Sông núi nước Nam vua Nam ở

                             Rành rành định phận ở sách trời

                             Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm

                             Chúng bay sẽ bị đánh cho tơi bời

          - Nếu câu thơ đầu thể hiện vẻ đẹp của người tráng sĩ cứu nước hiên ngang, kì vĩ, mang tầm vóc vũ trụ thì câu thơ thứ hai miêu tả sức mạnh và khí thế của quân đội nhà Trần. Trong đó, tam quân là ba loại quân trong quân đội thời Trần gồm tiền quân, trung quân, hậu quân. Tam quân là để chỉ quân đội nhà Trần. Biện pháp so sánh, ẩn dụ "tì hổ" làm hiện lên sự dũng mãnh, sức mạnh vô địch, bất khả chiến bại của quân đội nhà Trần. Cụm từ "khí thôn ngưu" là cách nói cường điệu và có hai cách hiểu. Cách hiểu thứ nhất chỉ sức mạnh, khí thế của quân đội nhà Trần như hổ báo có thể nuốt trôi trâu. Cách hiểu thứ hai là chí khí của quân đội nhà Trần có thể lấn át và làm lu mờ cả sao Ngưu, át cả trời đất vũ trụ. Tuy bản dịch chỉ theo một trong hai nghĩa, nhưng dù thế nào câu thơ vẫn thể hiện sức mạnh và khí thế ngất trời của ba quân. Nhìn chung, nghệ thuật so sánh, ẩn dụ và cường điệu đã tạo nên một hình tượng thơ rất hoành tráng, có tính sử thi, nhấn mạnh sức mạnh và khí thế quyết chiến quyết thắng của đội quân "Sát thát". Chính sức mạnh ấy đã tạo nên những chiến thắng Hàm Tử, Chương Dương, Vân Đồn, Tấy Kết, Vạn Kiếp... trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Sau chiến thắng giặc Nguyên Mông, hình ảnh quân đội nhà Trần trở thành một điển tích, tư liệu văn học sáng giá cho nền văn học dân tộc. Sau này Trương Hán Siêu cũng tái hiện lại chiến thắng lịch sử ấy trong "Bạch Đằng giang phú":

                               Khác nào:

                              Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,
                                 Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
                                  Đến nay sông nước tuy chảy hoài,
                                  Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.

          Hình ảnh người tráng sĩ  và ba quân được đặt gần nhau, lồng vào nhau và làm tôn thêm vẻ đẹp của nhau. Hình ảnh vị tướng bên ba quân hùng dũng càng trở nên oai phong lẫm liệt, hình ảnh ba quân bên vị tướng mang tầm vóc vũ trụ càng tăng khí thế và sức mạnh. Hai hình tượng ấy trong mối quan hệ mật thiết tạo nên bức tranh toàn cảnh về thời đại nhà Trần với “Hào khí Đông A” của thời đại.

  1. Hai câu sau

         Giọng điệu hào sảng ở hai câu thơ đầu đến hai câu thơ sau chuyển thành suy tư, đầy tâm trạng. Trong bài thơ thì đây mới thực sự là hai câu thơ để bày tỏ:

                                      Công dang nam tử còn vương nợ

                                      Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.

    Tác giả đã bày tỏ nỗi lòng, tâm tư của kẻ làm trai trong thời buổi đất nước lâm nguy. Thời phong kiến, kẻ làm trai phải có chí, phải biết đem tài năng, trí tuệ để thi thố với đời, để giúp nước giúp đời. Bởi vậy một trong những quy phạm của thơ trung đại là "Thi dĩ ngôn chí", nghĩa là thơ phải nói chí. Chí làm trai ấy đã từng được thể hiện trong thơ Nguyễn Công Trứ:

                                      Chí làm trai nam, bắc, tây, đông

                                      Cho phỉ sức vẫy vùng bốn biển

Hoặc:

                                       Đã mang tiếng làm trai trong trời đất

                                       Phải có danh gì với núi sông

         Còn Phan Bội Châu, làm trai phải làm nên việc lớn kinh thiên động địa, phải xoay chuyển được trời đất chứ không phải để trời đất tự chuyển xoay:

                                      Làm trai phải lạ ở trên đời

                                      Há để càn khôn tự chuyển rời

          Trong "Chinh phụ ngâm" thì chí làm trai coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, chiến đấu, hi sinh để lập công danh:

                                      Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
                                      Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao

                                      Giã nhà một bức chiến bào

                                      Thét roi cầu vị ào ào gió thu

         Phạm Ngũ Lão tự nhận là một trang “nam nhi” và  ý thức sâu sắc được vai trò, trọng trách và nghĩa vụ của kẻ làm trai. Theo ông chí làm trai là phải lập nên hai chữ công danh, tức là phải lập lên nghiệp lớn và để lại tiếng thơm cho đời. Chưa lập được công danh là còn mắc nợ. Mặc dù đã vào sinh ra tử, có công lớn trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông nhưng chưa đánh tan quân xâm lược ông vẫn thấy mình còn mang nợ. Cái nợ ấy thể hiện ý thức trách nhiệm của người làm trai, thể hiện rõ lí tưởng sống cao đẹp của Phạm Ngũ Lão, đó là chí làm trai gắn liền với lí tưởng trung quân ái quốc, đánh đuổi giặc ngoại xâm. Không chỉ riêng Phạm Ngũ Lão mà thời đại nhà Trần còn sản sinh ra những người trai đầy trách nhiệm với đất nước. Đó là Trần Hưng Đạo với câu nói "Bệ hạ chém đầu thần rồi hãy hàng", là Thái sư Trần Thủ Độ với thái độ quyết chiến với giặc "Đầu thần chưa rơi xuống đất, bệ hạ đừng lo gì khác", là người anh hùng trẻ tuổi Trần Quốc Toản với lá cờ thêu sáu chữ vàng "Phá cường địch, báo hoàng ân"...

         Từ ý thức về chí làm trai, tự thấy làm trai mà chưa trả được nợ công danh nên tác giả “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”. Thẹn ở đây là cảm thấy xấu hổ, cụ thể là xấu hổ vì chưa được bằng như Vũ hầu. Vũ hầu là Gia Cát Lượng Khổng Minh, là quân sư của Lưu Bị, đã giúp Lưu Bị khôi phục nhà Hán. Khổng Minh trở thành tấm gương về tinh thần tận tâm tận lực báo đáp chủ tướng, hết lòng trả món nợ công danh để lại sự nghiệp vẻ vang và tiếng thơm cho hậu thế. So mình với Vũ hầu, Phạm Ngũ Lão thấy mình kém cỏi vì chưa trả xong nợ nước. Xưa nay, những người có nhân cách vẫn thường hay thấy thẹn. Nguyễn Khuyến trong bài thơ "Thu vịnh" cũng từng bày tỏ nỗi thẹn khi nghĩ tới Đào Tiềm – một danh sĩ cao khiết đời Tấn:

                                      "Nhân hứng cũng vừa toan cất bút

                                      Nghĩ ra lại thẹn vơi ông Đào"

         Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão là nỗi thẹn của một con người luôn dành trọn cái tâm cho đất nước, cho cộng đồng. Ẩn sau cái thẹn cao cả, khiêm tốn và ấy là cả một nỗi niềm khao khát được cống hiến hơn nữa cho Tổ quốc, cho dân tộc. Ông nguyện học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu để Tổ quốc Đại Việt được trường tồn bền vững:  "Non sông nghìn thuở vững âu vàng".

 

  1. Đánh giá chung

          “Thuật hoài” là một bài thơ Đường luật ngắn gọn nhưng hàm súc với thủ pháp gợi, thiên về ấn tượng, khái quát kết hợp với bút pháp hoành tráng mang âm hưởng sử thi đã khắc họa vẻ đẹp của người anh hùng hiên ngang, hùng dũng với sức mạnh lý tưởng lớn lao cao cả, tâm hồn sáng ngời nhận cách cùng khí thế hào hùng, quyết chiến quyết thắng của "hào khí Đông A"- hào khí thời Trần. Bài thơ có tác dụng giáo dục rất sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực cho thanh niên mọi thời đại. Ngày nay, mỗi thanh niên chúng ta cần học tập thật tốt, rèn luyện nhân cách đạo đức, xác định cho mình lí tưởng sống đúng đắn và quan trọng hơn là phải biết ước mơ và hành động vì sự nghiệp đất nước, đưa Việt Nam sánh ngang tầm với các cường quốc khắp năm châu.

 

Thảo luận

Bạn có biết?

Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.

Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

Tâm sự 10

Lớp 10 - Năm thứ nhất ở cấp trung học phổ thông, năm đầu tiên nên có nhiều bạn bè mới đến từ những nơi xa hơn vì ngôi trường mới lại mỗi lúc lại xa nhà mình hơn. Được biết bên ngoài kia là một thế giới mới to và nhiều điều thú vị, một trang mới đang chò đợi chúng ta.

Nguồn : ADMIN :))

Liên hệ hợp tác hoặc quảng cáo: gmail

Điều khoản dịch vụ

Copyright © 2021 HOCTAPSGK