Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của chế độ phong kiến Việt Nam: Lê - Mạc xưng hùng, Trịnh - Nguyễn phân tranh. Trong những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế độ phong kiến, ông vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân, vừa bảo vệ trung thành cho những giá trị đạo lí tốt đẹp qua những bài thơ giàu chất triết lí về nhân tình thế thái, bằng thái độ thâm trầm của bậc đại nho. Nhàn là bài thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh cao, vượt ra cái tầm thường xấu xa của cuộc sống bon chen vì danh lợi.
Nhà thơ đã nhiều lần đứng trên lập trường đạo đức nho giáo để bộc lộ quan niệm sống của mình. Những suy ngẫm ấy gắn kết với quan niệm đạo lí của nhân dân, thể hiện một nhân sinh quan lành mạnh giữa thế cuộc đảo điên. Nhàn là cách xử thế quen thuộc của nhà nho trước thực tại, lánh đời thoát tục, tìm vui trong thiên nhiên cây cỏ, giữ mình trong sạch.
Cuộc sống nhàn tản hiện lên với bao điều thú vị.
“Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”
Ngay trước mắt người đọc sẽ hiện lên một Nguyễn Bỉnh Khiêm thật dân dã trong cái bận rộn giống như một lão nông thực thụ. Nhưng đó là cả một cách chọn lựa thú hưởng nhàn cao quý của nhà nho tìm về cuộc sống “ngư, tiều, canh, mục” như một cách đối lập dứt khoát với các loại vui thú khá, nhằm khẳng định ý nghĩa thanh cao tuyệt đối từ cuộc sống đậm chất dân quê này! Dáng vẻ thơ được phác họa trong câu thơ độc đáo, mang lại vẻ ung dung bình thản của nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản thật sự. Thực ra, sự hiện diện của mai, cuốc, cần câu chỉ là một cách tô điểm cho cái thơ thẩn khác đời của nhà thơ mà thôi. Những vật dụng lao động quen thuộc của người bình dân trở thành hiện thân của cuộc sống không vướng bận lo toan tục lụy. Đằng sau những liệt kê của nhà thơ, ta nhận ra những suy nghĩ của ông không tách rời quan điểm thân dân của một con người chọn cuộc đời ẩn sĩ làm lẽ sống của riêng mình. Trạng Trình đã nhìn thấy từ cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ đẹp cao cả, một triết lí nhân sinh vững bền.
Đó cũng là cơ sở giúp nhà thơ khẳng định một thái độ sống khác người đầy bản lĩnh.
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn người đến chốn lao xao”
Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ với những ai, những vui thú nào về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứng giữa cuộc đời. Phép đối cực chuẩn đã tạo thành hai đối cực: một bên là nhà thơ xưng ta một cách ngạo nghề, một bên là người, một bên là dại của ta, một bên là khôn của người, một nơi vắng vẻ với một chốn lao xao. Đằng sau những đối cực ấy là những ngụ ý tạo thành phản đề khẳng định cho thái độ sống cùa Nguyễn Bĩnh Khiêm. Bản thân nhà thơ nhiều lần đã định nghĩa dại - khôn bằng cách nói ngược này. Bởi vì người đời lấy lẽ dại - khôn để tính toán, tranh giành thiệt hơn, cho nên thực chất dại - khôn là thói thực dạng ích kỉ làm tầm thường con người, cuốn con người vào dục vọng thấp hèn. Mượn cách nói ấy, nhà thơ chứng tỏ được một chỗ đứng cao hơn và đối lập với bọn người mờ mắt vì bụi phù hoa giữa chốn lao xao. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chủ động trong việc tìm nơi vắng vẻ - không vướng bụi trần. Nhưng không giống lối nói ngược của Khuất Nguyên thuở xưa “Người đời tỉnh cả, một minh ta say” đầy u uất, Trạng Trình đã cười cợt vào thói đời bằng cái nhếch môi lặng lẽ mà sâu cay, phê phán vào cả một xã hội chạy theo danh lợi, bằng tư thế của một bậc chính nhân quân tử không bận tâm những trò khôn - dại. Cũng vì thế, nhà thơ mới cảm nhận được tất cả vẻ đẹp của cuộc sống nhàn tản:
"Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao"
Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất đắm mình trong vinh hoa, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thụ hưởng những ưu đãi của một thiên nhiên hào phóng bằng một tấm lòng hòa hợp với tự nhiên. Tận hưởng lộc từ thiên nhiên bốn mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông, nhà thơ cũng được hấp thụ tinh khí đất trời để gột rửa bao lo toan vướng bận riêng tư. Cuộc sống ấy mang dấu ấn lánh đời thoát nét gần gũi với triết lí “vô vi” của đạo Lão. “Thoát tục” của đạo Phật. Nhưng gạt sang một bên những triết lí siêu hình, ta nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hòa hợp với tự nhiên một cách sang trọng bằng tất cả cái hồn nhiên trong sạch của lòng mình. Không những thế, những hình ảnh măng trúc, giá, hồ sen còn mang ý nghĩa biểu tượng gắn kết với phẩm chất thanh cao của người quân tử, sống không hổ thẹn với lòng mình. Hòa hợp với thiên nhiên là một Tuyết Giang Phu Tử đang sống đúng với thiên lương của mình. Quan niệm về chữ Nhàn của nhà thơ được phát triển trọn vẹn bằng sự khẳng định:
“Rượu đến cội cây, ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao."
Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đă nói lên thái độ sống dứt khoát đoạn tuyệt với công danh phú quý. Quan niệm ấy vốn dĩ gần với đạo Lão - Trang, có phần yếm thế tiêu cực, nhưng đặt trong thời đại nhà thơ đang sống lại bộc lộ ý nghĩa tích cực. Cuộc sống của những kẻ chạy theo công danh phú quý vốn dĩ ông căm ghét và lên án trong rất nhiều bài thơ về nhân tình thế thái của mình:
“Ơ thể mới hay người bạc ác,
Giàu thì tìm đến, khó thì lui”
(Thói đời)
Phú quý đi với chức quyền đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là cuộc sống của bọn người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống. Bọn chúng là bầy chuột lớn gây hại nhân dân mà ông vô cùng căm ghét và lên án trong bài thơ ‘‘Tăng thử” (Ghét chuột) của mình. Bởi thế, có thể hiểu thái độ nhìn xem phú quý tựa chiêm bao cũng là cách nhà thơ chọn lựa con đường sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân. Cuộc sống đạm bạc mà thanh cao của người bình dân đáng quý đáng trọng vì đem lại sự thanh thản cũng như giữ cho nhàn cách không bị hoen ố vẩn đục trong xã hội chạy theo thế lực kim tiền. Cội nguồn triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống lành vững tốt đẹp của nhân dân.
Bài thơ “Nhàn” bao quát toàn bộ triết lí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với thiên nhiên, với cuộc sống của nhân dân để đối lập một cách triệt để với cả một xã hội phong kiến trên con đường suy vong thối nát. Bài thơ là kinh nghiệm sống, bản lĩnh cứng cỏi của một con người chân chính.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà thơ lớn, một nhà trí thức Nho học lỗi lạc của nước ta vào thế kỷ XVI. Nhắc đến Nguyễn Bỉnh Khiêm người ta nhớ đến phong cách thơ mang đậm chất triết lý giáo huấn, ngợi ca chí khí và thú thanh nhàn của kẻ sĩ; đồng thời phê phán những điều xấu xa trong xã hội. Một minh chứng tiêu biểu cho phong cách đó là bài thơ Nhàn. Nhàn là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Trạng Trình về thơ đạo lý, được rút ra trong tập “Bạch vân quốc ngữ thi”, có thể được viết trong thời gian tác giả cáo quan ở ẩn. Bài thơ chính là lời tuyên ngôn cho một quan niệm sống giữa thời đại xã hội phong kiến khủng hoảng. Đó là lối sống nhàn, sống thanh cao, hòa hợp với thiên nhiên và vượt lên cái tầm thường, xấu xa của cuộc sống bon chen, danh lợi.
Trong văn học trung đại nói riêng và lịch sử dân tộc nói chung, Nguyễn Bỉnh Khiêm có một vị trí rất đặc biệt. Ông sống gần như trọn vẹn trong một thế kỷ, chứng kiến những biến thiên, thăng trầm của lịch sử. Ông học hành, thi đỗ làm quan nhưng thời gian làm quan lại vô cùng ngắn ngủi so với cuộc đời của ông. Tuy vậy, tầm ảnh hưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm tới đời sống văn hóa, chính trị nước nhà vào khoảng thời gian đó lại không hề nhỏ. Cho đến tận ngày nay, vẫn có nhiều câu chuyện mang tính giai thoại, truyền thuyết về ông cho thấy sức ảnh hưởng của ông với cả triều đình lẫn nhân dân. Trạng Trình không những được nhân dân yêu mến, kính trọng mà còn được vua quan lúc bấy giờ vô cùng tín nhiệm, thường xuyên tham khảo ý kiến của ông. Thế kỷ XVI là thế kỷ bắt đầu những suy thoái của triều đình phong kiến, chính trị nước nhà có nhiều rối ren. Nguyễn Bỉnh Khiêm vì không muốn nhuốm màu danh lợi nên đã rút lui khỏi chốn quan trường, trở về với núi rừng, dựng am, lập quán để dạy học. Sự uyên thâm và thông tuệ của ông đã được truyền lại cho các thế hệ học trò, một lần nữa khẳng định vị trí của ông đối với đời sống văn hóa nước nhà lúc bấy giờ. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là một trong những tác giả tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam thế kỷ XVI với những bài thơ giàu tính triết lý, thể hiện nhân cách cao đẹp của ông. Nhàn như một lời tâm sự nhẹ nhàng mà sâu sắc về quan niệm sống của nhà Nho Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Mở đầu bài thơ là bức tranh phản ánh cuộc sống nhàn nhã, ung dung của tác giả:
“Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”.
Bằng cách sử dụng điệp từ “một” kết hợp với các hình ảnh: “mai”, “cuốc”, “cần câu” cùng với cách ngắt nhịp 2/2/3 đều, chậm vừa phải, câu thơ đầu diễn tả trạng thái ung dung, nhàn tản của kẻ sĩ khi trở về thôn quê. Hiện ra trước mắt người đọc là một lão nông tri điền với những công việc bình dị hằng ngày, làm bạn với những dụng cụ nhà nông. “Một” vẫn là số từ chỉ số ít nhưng được lặp lại kết hợp với phép liệt kê gửi ra sự đầy đủ, sẵn sàng. Những vật dụng này được bày ra gợi sự gần gũi, quen thuộc. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đưa được cái bình dị, dân dã vào thơ ca chứ không chỉ là những điển tích, điển cố đã cũ trở thành mẫu mực của thơ Đường. Cuộc sống lao động được miêu tả rõ nét là vậy nhưng lại không gợi cảm giác mệt mỏi, khổ cực mà lại gợi sự ung dung, là niềm vui của nhà thơ. Vui vì được lao động, được sống giản dị như bao người dân bình thường khác. Không chỉ có vậy, sau những giờ lao động, câu thơ còn diễn tả phút giây thư giãn thú vị của kẻ sĩ. Hình ảnh “cần câu” gợi đến một thú vui và những giây tĩnh lặng mà thảnh thơi. Cuộc sống của nhà thơ đâu chỉ là những chuỗi ngày làm việc, ngày này qua ngày khác mà ông còn được nghỉ ngơi, thư giãn với thú điền viên của mình. Câu thơ như gợi đến một lão nông tri điền chẳng để tâm cuộc sống xô bồ, tấp nập ngoài kia. Nhàn dần được gửi ra đầy đủ hơn ở câu thơ thứ hai “Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”. “Thơ thẩn” là từ láy tượng hình gợi tư thế, dáng điệu chậm rãi thảnh thơi. Trong dáng “thơ thẩn” như có cả trạng thái không tính toán, không bon chen, không nặng nề. Đó là một cuộc dạo chơi không có chủ đích song lại rất chủ động. Tác giả dùng biện pháp đảo ngữ đẩy từ “thơ thẩn” lên đầu câu như càng nhấn mạnh hơn phong thái ung dung, khác biệt của mình với thế giới xung quanh. Nhịp thơ 2/5 như tách câu thơ thành hai vế, một bên là trạng thái “thơ thẩn” của trạng Trình với một bên là “dầu ai vui thú nào” – chính là cuộc sống ngoài kia, là lựa chọn của số đông. Trong lời thơ không một chút băn khoăn, đắn đo mà là lời khẳng định chắc nịch lại nhẹ nhàng của một người đã thấu tỏ triết lý cuộc đời và thấu hiểu những mong muốn của bản thân mình. Câu thơ ẩn chủ ngữ nhưng vẫn gợi được sự đối lập của chủ thể trữ tình với “ai” kia. Nếu câu thơ đầu tiên nêu sự việc thì câu thơ thứ hai lại ngầm ẩn nhiều cảm xúc. Có thể thấy vẻ đẹp giản dị tự nhiên của bài thơ được thể hiện ngay từ cách lựa chọn từ ngữ, giọng điệu thơ. Các từ ngữ nôm na, dân dã được sử dụng kết hợp với cấu tạo câu thơ như một lời nói tự nhiên trong cuộc sống, tạo ra nét nghệ thuật độc đáo. Đúng như Phan Huy Chú từng nhận xét: “Văn chương ông tự nhiên nói ra là thành, không cần gọt giũa, giản dị mà linh hoạt, không màu mè mà có ý vị, đều có quan hệ đến việc dạy đời”. Như vậy hai câu thơ đầu trong bài thơ gợi đến cái nhàn trong công việc, trong cuộc sống và sâu hơn nữa đó chính là cái nhàn của một tâm thế.
Nếu như hai câu thơ đầu trong bài đưa đến cho người đọc tâm thế nhàn của một kẻ sĩ thì hai câu thơ sau lại dẫn người ta tới một khía cạnh khác của nhàn: đó là cái nhàn trong lựa chọn:
“Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao”.
Hai câu thơ này đã phá vỡ tính qui phạm của văn học trung đại. Hai câu thực lại thực hiện chức năng của hai câu luận, mở rộng bàn bạc về nhàn, về những lựa chọn của bản thân. Hai câu thơ đã khai thác triệt để phép đối. Một bên là “ta” với “dại” ở nơi “vắng vẻ”, một bên là “người”, là “khôn”, là “chốn lao xao”. Cặp câu thơ này không chỉ mang sự đối lập về từ loại mà còn là sự đối lập ý, về những lựa chọn, những lối sống. “Ta” muốn sống ở nơi vắng vẻ hay chính là tìm đến chốn thiên nhiên thuần khiết để sống tự do, an yên, để giữ cho tâm hồn thảnh thơi, nhân cách thanh tao. Đó không phải là lánh đời, là xuất thế mà là cách lựa chọn để làm những điều mình thích, để rũ sạch bụi trần. Còn “người”? “Người” thì tới “chốn lao xao” hay chính là nơi quan trường ồn ào, huyên náo, xô bồ, nơi danh lợi bon chen. “Chốn lao xao” phải chăng chính là nơi quan trường, là nơi con người chạy đua, tranh giành về quyền lợi, vật chất, tiền tài. Vì những danh lợi đó mà ở chỗ lao xao con người sẵn sàng làm mọi hành động trái với luân thường đạo lý để đạt được mục đích của riêng mình. “Nơi vắng vẻ” gợi đến vùng quê dân dã, gắn liền với thiên nhiên, mang lại cho con người cái “an”; còn “chốn lao xao” lại là đua chen quan trường hay chính là ẩn chứa cái “nguy”. Nguyễn Bỉnh Khiêm tự nhận mình là “dại” còn cho rằng người là “khôn” vì dại – khôn đối lập nhau mà những lựa chọn cũng trái ngược hẳn. Dại – khôn đã nhiều lần được Trạng Trình nói tới trong thơ của mình như một cách nói người đầy ẩn ý, sâu sắc lại pha chút mỉa mai. Đã có lần ông viết:
“Khôn mà hiểm độc là khôn dại
Dại mà thật thà ấy dại khôn”.
“Dại” của Nguyễn Bỉnh Khiêm là cái “dại” của một bậc đại trí, với trí tuệ lớn, nhân cách đẹp. Ông thấu tỏ lẽ thịnh suy, vong tồn của một cuộc đời để chọn lối sống thanh thản tự nhiên. Vậy nhàn chính là một lựa chọn, một lối sống thể hiện sự mẫn tiệp và minh triết trong trí tuệ của bậc đại hiền triết Nguyễn Bỉnh khiêm.
Nhàn không chỉ là những thứ trừu tượng xa xôi, nhàn còn ở ngay trong những sinh hoạt đời thường, trong những cảm nhận về cuộc sống xung quanh tươi đẹp:
” Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”.
Khác với quy định về thể loại, hai câu luận bàn luận về vấn đề như chức năng vốn có mà lại tập trung kể về cuộc sống sinh hoạt giản dị của nhà ẩn sĩ. Nguyễn Bỉnh Khiêm như muốn kể ra những sinh hoạt thường ngày mộc mạc tự nhiên. Bốn mùa Thu – Đông – Xuân – Hạ được nhắc tới không phải để chỉ bức tranh tứ bình hay tứ quý mà lại gợi thời gian quanh năm, bốn mùa với những sản vật đặc trưng. Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn một lối sống hòa hợp với thiên nhiên, với sinh hoạt bốn mùa tràn đầy hương vị và màu sắc. Bằng điệp từ “ăn”, “tắm” được lặp lại kết hợp với các hình ảnh liệt kê “măng trúc”, “giá”, “hồ sen”, “ao” cùng với các từ chỉ thời gian, câu thơ đã khắc họa được nếp sinh hoạt lặp lại tuần hoàn của tác giả. Sự giản dị ở đây là những món ăn dân dã, đạm bạc có sẵn trong tự nhiên thuần khiết, thuận theo “mùa nào thức ấy”, chẳng phải nhọc công, vất vả tìm kiếm mà luôn có sẵn, gần gũi, quen thuộc. Không chỉ là những món ăn mà “trúc” và “sen” còn gợi tới phẩm chất, khí tiết thanh cao của người quân tử. Cuộc sống đã dân dã với những sinh hoạt hằng ngày như “ăn”, “tắm” nhưng lại gợi được niềm vui thú riêng của nhà thơ. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đưa tới trước mắt người đọc một khía cạnh khác nữa của nhàn. Nhàn là sống thuận theo tự nhiên, là lôai sống hòa hợp giữa con người với thiên nhiên và cuộc sống xung quanh. Dường như triết lý sống ấy của Nguyễn Bỉnh Khiêm có nét gần gũi với triết lý “vô vi” của Đạo giáo hay sự thoát tục của Đạo Phật. Nhưng ẩn sâu trong đó chính là tinh thần sống thanh cao, khí tiết đạm bạc để giữ gìn nhân cách của bậc đại nho. Trong văn học trung đại các nhà nho thi sĩ thường sáng tác theo một mẫu, theo công thức có sẵn. Ở đây, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng tuân thủ theo những công thức ấy trong việc miêu tả bức tranh sinh hoạt theo bốn mùa. Bằng phép đối tương đồng giữa hai dòng thơ và hai vế trong một dòng, tác giả đã diễn tả khoảng thời gian trọn vẹn xuyên suốt năm. Dù bốn mùa không được sắp xếp theo trật tự quy luật của tự nhiên nhưng vẫn nằm trong vòng tuần hoàn theo thời gian khép kín. Tuy nhiên ta nhận thấy sự khác biệt vì thời gian luôn lặp lại theo vòng tuần hoàn, không mất đi mà trở lại nguyên vẹn. Chính vì quan niệm ấy mà con người trong văn học trung đại sống rất ung dung, tự do, tự tại tận hưởng cuộc sống. Họ sống một cách nhàn tản, an yên không chút vướng bận với cõi nhân gian. Còn thời gian trong văn học hiện đại được quan niệm mất đi không trở lại nên con người luôn phải sống vội vàng, gấp gáp. Mọi thứ trôi đi nhanh chóng mà chẳng chờ đợi ai, cũng chính vì thế mà con người chẳng thể nhận ra được nhiều vẻ đẹp bình dị của thiên nhiên cuộc sống. Như vậy, thời gian trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm như muốn nhấn mạnh về đẹp cuộc sống nhàn tản, giữ gìn phẩm chất, xa rời công danh tầm thường. Như vậy có thể thấy, nhàn không chỉ trong công việc, trong lựa chọn mà nhàn còn hiện hữu trong chính những sinh hoạt thường ngày. Nguyễn Bỉnh Khiêm một lần nữa đã dựa vào hình ảnh dân dã của thơ Nôm trung đại tạo nên xu hướng bình dị hóa bên cạnh khuynh hướng trang nhã.
“Kết lại bài thơ,Nguyễn Bỉnh Khiêm đưa đến căn cốt, cơ sở của thú nhàn.
Rượu đến bóng cây ta hãy uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”.
Ở đây tác giả đã sử dụng điện tích Thuần Vu Phần uống rượu say nằm ngủ dưới gốc cây hòe rồi mơ thấy mình ở nước Hoè An được công danh, phú quý rất mực vinh hiển, sau bừng tỉnh dậy thì hóa ra đó chỉ là một giấc mộng, dưới cành hòe phía Nam chỉ có một cái tổ kiến mà thôi.
Sử dụng điển tích ấy, tác giả đã nói lên thái độ coi thường công danh phú quý. Phú quý tiền bạc đối với ông chỉ là cuộc sống của những kẻ xấu xa, tầm thường. Điều đó ông vẫn căm ghét và phê phán trong bài thơ “Thói đời”:
“Ở thế mới hay người bạc ác
Giàu thì tìm đến khó tìm lui”.
Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm – một người tài hoa, trí tuệ thì phú quý chỉ là một giấc chiêm bao. Chính ông đã từng đỗ Trạng nguyên, làm quan lớn có tiếng và được trọng dụng. Tuy nhiên, tiền bạc của cải không phải là điều mà ông nghĩ đến và tham vọng. Đó không phải là mục đích, lẽ sống của ông. Với ông phú quý chỉ là chiêm bao, tỉnh dậy sẽ tan biến, không bao giờ là mãi mãi. Điều đó cho thấy một nhân cách lớn một trí tuệ lớn. Hai từ “đến”, “sẽ” được đặt nối tiếp như một sự chủ động đón nhận chứ đâu phải thẳng thốt tiếc nuối như Thuần Vu Phần khi tỉnh mộng năm xưa? Sự ung dung tự tại đó một lần nữa nâng tầm nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm. “Nhìn xem” là cái nhìn của một người đứng ngoài, đứng cao hơn mà nhìn, mà đánh giá. Vì thế trong ánh mắt “nhìn xem” có cái thanh tao, xa lánh danh lợi, có cái nhìn, cái cười mỉa mai với những kẻ tham lam đua tranh.
Nguyễn Bỉnh khiêm đã thoát khỏi cái vòng quay đó để vui với thú vui của mình. Nhưng nhà thơ tìm đến rượu liệu có phải để say, để vui? Dường như đó là một tâm sự giấu kín. Là một nhà nho nhưng lại không thể cống hiến, sự lánh đời chỉ là một điều bất đắc dĩ, ông chọn ở ẩn là để giữ gìn nhân cách, xa lánh danh lợi chứ đâu phải là để quay lưng với cuộc đời, với đất nước, với nhân dân.
Như vậy, nhàn không chỉ là một trạng thái, một lối sống mà đó chính là một lựa chọn, một nhân cách, một tấm lòng. Nhàn cũng không phải là lánh đời mà chỉ là xa lánh danh lợi, thoát khỏi vòng “hiểm độc”. Nhàn không phải là thoát tục mà là để đề cao nhân cách sống thuận theo tự nhiên dựa trên những thông tuệ về lẽ đời, về nhân thế.
Bằng những sáng tạo và những sự phá vỡ tính qui phạm, vừa trang nhã lại vừa có xu hướng bình dị, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thể hiện một lối sống thanh cao, coi thường phú quý. Ông đề cao cuộc sống bình dị hòa hợp với thiên nhiên, thuận theo lẽ tự nhiên. Đó là lối sống là lựa chọn của những con người có nhân cách thanh tao, khí chất của một nhà nho trong tâm thế của một đạo sĩ. Chính những đặc sắc đó đã khiến cho bài thơ vượt qua giới hạn của một bài thơ giáo huấn để trở nên hấp dẫn hơn. Nó không chỉ thể hiện được nhân cách của nhà thơ mà còn gửi gắm cả những xúc cảm chân thành sâu sắc. Bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm có lẽ vì thế đã vượt qua thử thách thời gian để sống mãi trong lòng bạn đọc, vượt qua khoảng cách về thời đại, về văn hóa để trở nên hấp dẫn hơn.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 10 - Năm thứ nhất ở cấp trung học phổ thông, năm đầu tiên nên có nhiều bạn bè mới đến từ những nơi xa hơn vì ngôi trường mới lại mỗi lúc lại xa nhà mình hơn. Được biết bên ngoài kia là một thế giới mới to và nhiều điều thú vị, một trang mới đang chò đợi chúng ta.
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK