Trang chủ Ngữ văn Lớp 10 Phân tích bài thơ "nhàm" để làm rõ vẻ đẹp...

Phân tích bài thơ "nhàm" để làm rõ vẻ đẹp cuộc sống và nhân cách trí tuệ của Nguyễn Bình Khiêm. Làm ơn mình cần gấp. câu hỏi 3467577 - hoctapsgk.com

Câu hỏi :

Phân tích bài thơ "nhàm" để làm rõ vẻ đẹp cuộc sống và nhân cách trí tuệ của Nguyễn Bình Khiêm. Làm ơn mình cần gấp.

Lời giải 1 :

Phân tích bài thơ Nhàn - Nguyễn Bỉnh Khiêm Dàn ý tham khảo nhé Mở bài: Nguyễn Binh Khiêm là nhà thơ lớn nhất Việt Nam thế kỉ XVI với những sáng tác ghi dấu mốc lớn trên con đường phát triển lịch sử văn học. + Bach vân quốc ngữ thi tậplà tập thơ Nôm nổi tiếng của ông. - Giới thiệu bài thơNhàn(xuất xú, hoàn cảnh sáng tác, nội dung): là bài thd Nôm số 73 trong tậpBgch vân quốc ngữ thi tập, làm khi tác giả cáo quan về ở ẩn, nói về cuộc sống thanh nhàn nơi thôn dã và triết lí sống của tác giả. * Thân bài : - Hai câu đề:Hoàn cảnh sống của Nguyễn Binh Khiêm. + Mở đầu bài thơ với nhịp thơ 2/2/3 tạo nên thong thả đều đặn + Mai, cuốc, cần câu: Là những dụng cụ lao động cần thiết và rất quen thuộc của người nông dân. + Phép liệt kê kết hợp với số từ "một": Gợi hình ảnh người nông dân đang điểm lại công cụ làm việc của mình và mọi thứ đã sắn sàng. → Cuộc sống ở quê nhà của Nguyễn Binh Khiêm gắn bó với công việc nặng nhọc, vất vả của một lão canh điền. Nhưng tác giả rất yêu và tự hào về thú vui điền viên ây. - Trạng thái "thơ thẩn": chăm chủ vào công việc, tỉ mẩn -> Tâm trạng hài lòng, vui vẻ cùng trạng thái ung dung, tự tại của nhà thơ. Cụm từ phủ định "dầu ai vui thú nào": Phủ nhận những thú vui mà người đời thường hay theo đuổi. > Hai câu thơ khái quát hoàn cảnh sống của Nguyễn Binh Khiêm ở quê nhà vất vả, lam lũ, mệt nhọc nhưng tâm hồn lúc nào cũng thư thái, thanh thẳn. > Tâm thế ung dung, tự tại, triết lí sống nhàn của ẩn sĩ "nhàn tâm". * Hai câu thực:Quan niệm sống của Nguyến Bỉnh Khiêm - Nghệ thuật đối: ta - người, dại - khôn: Nhấn mạnh quan niệm sống mang tính triết Ií, thâm trầm của nhà thơ. - Nghệ thuật ẩn dụ: +"Nơi vắng vẻ": Tượng trưng cho chốn yên tĩnh, thưa người, nhịp sống yên bình, êm ả. Ở đây ngụ ý chi chốn quê nhà + "Chốn lao xao": Tượng trưng cho chốn ồn ào, đông đúc huyên náo, tấp nập, cuộc Sống xô bồ, bon chen, giành giật, đố kị.Ở đây chỉ chốn quan trường. - Cách nói ngược: Ta dại - người khôn: + Ban đầu có vẻ hợp lí vì ở chốn quan trường mới đem lại cho con người tiền tài danh vọng, còn ở thôn dã cuộc sống vất vả, cực khổ. + Tuy nhiên, dại thực chất là khôn bởi ở nơi quể mùa con người mới được sống an nhiên, thanh thản. Khôn thực chất là dại bởi chốn quan trường con người không được sống là chính mình. → Thể hiện quan niệm sống "lánh đục về trong" của Nguyễn Binh Khiêm → Thái độ tự tin vào sự lựa chọn của bản thân và hóm hinh mia mai quan niệm sống bon chen của thiên hạ. * Hai câu luận:Cuộc sống của Nguyễn Binh Khiêm ở chốn quê nhà. - Sự xuất hiện của bồn mùa: Xuân, hạ, thu, đông. Cuộc sống gån bó, hài hòa với tự nhiên của Nguyễn Binh Khiêm - Cuộc sống gắn bó, hài hòa với tự nhiên của Nguyễn Binh Khiêm -Việc ăn uống: Thu ăn mẫng trúc, đông ăn giá. - Là những món ăn thôn quê dân giā, giản dị thanh đạnm và có nguồn gốc tự nhiên, tự cung tự cấp - Chuyện sinh hoạat: Xuân tằm h sen, hạ tằm ao Thói quen sinh hoạt tự nhiên, thoải mái, có sự giao hòa, quấn quýt giữa con người với thiên nhiên. - Cách ngắt nhịp 4/3 nhịp nhàng, kết hợp với cách điệp cấu trúc câu. → Hai câu thơ miêu tả bức tranh bốn mùa có cả cảnh đẹp, cả cảnh sinh hoạt của con người + Sự hài lòng về cuộc Sống đạm bạc, giản dị, hòa hợp với tự thiên mà vẫn thanh cao, tự do thoải mái của Nguyễn Binh Kiênm. * Hai câu kết:Triết lí sống nhàn - Sử dụng điển tích giấc mộng đêm hòe: Coi phú quý tựa như một giác chiêm bao > Thể hiện sự tự thức tỉnh, tự cảnh tỉnh mình và đời, khuyên mọi người nên xem nhę vinh hoa phù phiểm. - Động từ "nhìn xem": Tô đậm thế đứng cao hơn người đầy tự tin của Nguyễn Binh Khiêm → Triết lí sống Nhàn: Biết từ bỏ những thứ vinh hoa phù phiểm vì đó chỉ là một giấc mộng, khi con người nhẳm mắt xuôi tay mọi thứ trở nên vô nghĩa, ch có tâm hồn, nhân cách mới tồn tại mäi mãi. → Thể hiện vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Binh Khiêm: Coi khinh danh lợi, cốt cách thanh cao, tâm hòn trong sáng. - Ngôn ngữ trong sáng, dễ hiều, dễ cảm -Cách kể, tả tự nhiên, gần gũi Các biện pháp tu từ: Liệt kê, đối lập, điển tích điển cổ. - Nhip thơ chậm, nhẹ nhàng, hóm hinh c) Kết bài Thể hiện những cảm nhận của mình về bài thơ: Là bài thơ hay, giàu ý nghĩa. - Việc ăn uống: Thu ăn măng trúc, đông ăn giá.

Thảo luận

Lời giải 2 :

Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có học vấn uyên thâm, từng làm quan nhưng vì cảnh quan trường nhiều bất công nên ông đã cáo quan về ở ẩn; sống cuộc sống an nhàn, thanh thơi. Ông còn được biết đến là nhà thơ nổi tiếng với hai tập thơ tiếng Hán "Bạch Vân am thi tập" và tập thơ tiếng Nôm "Bạch Vân quốc ngữ thi". Bài thơ "Nhàn "được rút trong tập thơ "Bạch Vân quốc ngữ thi". Bài thơ được viết bằng thể thất ngôn bát cú đường luật, là tiếng lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm về một cuộc sống nhiều niềm vui, an nhàn và thanh thản nơi đồng quê.

Xuyên suốt bài thơ "Nhàn" là tâm hồn tràn ngập niềm vui và sự thanh tịnh trong tâm hồn tác giả. Có thể xem đây là điểm nhấn, là tinh thần chủ đạo của bài thơ. Chỉ với 8 câu thơ đường luật nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã mang đến cho người đọc một cuộc sống an nhàn nơi đồng quê êm ả.

Mở đầu bài thơ là hai câu thơ đề rất mộc mạc:

Một mai một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Với phép lặp "một"-"một" đã vẽ lên trước mắt người đọc một khung cảnh bình dị, đơn sơ nơi quê nghèo, dù một mình nhưng không hề đơn độc. Hai câu thơ toát lên sự thanh tịnh của tâm hồn và êm đềm của thiên nhiên ở vùng quê Bắc Bộ. "Một cuốc", "một cần câu" gợi lên sự bình dị, mộc mạc của một người nông dân chất phác. Hình ảnh Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên là một lão nông an nhàn, thảnh thơi với thú vui tao nhã là câu cá và làm vườn. Đây có thể nói là cuộc sống đáng mơ ước của rất nhiều người ở thời kỳ phòng kiến ngày xưa nhưng không phải ai cũng có thể dứt bỏ được chốn quan trường về với đồng quê như thế này. Động từ "thơ thẩn" ở câu thơ thứ hai đã tạo nên nhịp điệu khoan thai, êm ái cho người đọc. Dù ngoài kia người ta vui vẻ nơi chốn đông người thì Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn mặc kệ, vẫn bỏ mặc để "an phận" với cuộc sống của mình hiện tại. Cuộc sống của ông khiến nhiều người ngưỡng mộ.

Đến hai câu thơ thực tiếp theo càng khắc họa rõ nét hơn chân dung của "lão nông Nguyễn Bỉnh Khiêm".

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao

Đây có thể xem là tuyên ngôn sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm những năm tháng sau khi cáo quan về ở ẩn. Ông tự nhận mình "dại" khi tìm nơi vắng vẻ đến sống, nhưng đây là cái "dại" khiến nhiều người ghen tỵ và ngưỡng mộ. Ông rất khéo léo trong việc dùng từ ngữ độc đáo, lột tả được hết phong thái của ông. Ông bảo rằng những người chọn chốn quan trường là những người "khôn". Một cách khen rất tinh tế, khen mà chê, cũng có thể là khen mình và chê người. Tứ thơ ở hai câu này hoàn toàn đối lập nhau từ ngôn ngữ đến dụng ý "dại" –"khôn", "vắng vẻ" – "lao xao". Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm về nơi vắng vẻ để ở có phải là trốn tránh trách nhiệm với nước hay không? Với thời thế như vậy giờ và với cốt cách của ông thì "nơi vắng vẻ" mới thực sự là nơi để ông sống đến suốt cuộc đời. Một cốt cách thanh cao, một tâm hồn đáng ngưỡng mộ.

Hai câu thơ luận đã gợi mở cho người đọc về cuộc sống bình dị, giản đơn và thanh cao của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

Một cặp câu đã lột tả hết tất cả cuộc sống sinh hoạt và thức ăn hằng ngày của "lão nông nghèo". Mùa nào đều tương ứng với thức ăn đấy, tuy không có sơn hào hải vị nhưng những thức ăn có sẵn này lại đậm đà hương vị quê nhà, khiến tác giả an phận và hài lòng. Mùa thu có măng trúc ở trên rừng, mùa đông ăn giá. Chỉ với vài nét chấm phá Nguyễn Bỉnh Khiêm đã "khéo" khen thiên nhiên đất Bắc rất hào phòng, đầy đủ thức ăn. Đặc biệt câu thơ "Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao" phác họa vài đường nét nhẹ nhàng, đơn giản nhưng toát lên sự thanh tao không ai sánh được. Một cuộc sống dường như chỉ có tác giả và thiên nhiên, mối quan hệ tâm giao hòa hợp nhau.

Đến hai câu thơ kết dường như đúc kết được tinh thần, cốt cách cũng như suy nghĩ của Nguyễn Bình Khiêm:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao

Hai câu thơ này là triết lý và sự đúc rút Nguyễn Bỉnh Khiêm trong thời gian ở ẩn. Đối với một con người tài hoa, có trí tuệ lớn như thế này thì thực sự phú quý không hề là giấc chiêm bao. Ông từng đỗ Trạng nguyên thì tiền bạc, của cải đối với ông thực ra mà nói không hề thiếu nhưng đó lại không phải là điều ông nghĩ đến và tham vọng. Với ông phú quý chỉ "tựa chiêm bao", như một giấc mơ, khi tỉnh dậy thì sẽ tan, sẽ hết mà thôi. Có thể xem đây chính là cách nhìn nhận sâu sắc, đầy triết lý nhất. Với một con người thanh tao và ưa sống an nhàn thì phú quý chỉ như hư vô mà thôi, ông yêu nước nhưng yêu theo một cách thầm lặng nhất. Cách so sánh độc đáo đã mang đến cho hai câu kết một tứ thơ hoàn hảo nhất.

Như vậy với 8 câu thơ, bài thơ "Nhàn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khiến người đọc ngưỡng mộ và khâm phục cốt cách, tinh thần và phong thái của ông. Là một người yêu nước, thích sự thanh bình và coi trọng cốt cách xứng đáng là tấm gương đáng học hỏi. Bài thơ đường luật kết cấu chặt chẽ, tứ thơ đơn giản nhưng hàm ý sâu xa đã làm toát lên tâm hồn và cốt cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cho đến bây giờ, ông vẫn được rất nhiều người ngưỡng mộ.

Bạn có biết?

Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.

Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

Tâm sự 10

Lớp 10 - Năm thứ nhất ở cấp trung học phổ thông, năm đầu tiên nên có nhiều bạn bè mới đến từ những nơi xa hơn vì ngôi trường mới lại mỗi lúc lại xa nhà mình hơn. Được biết bên ngoài kia là một thế giới mới to và nhiều điều thú vị, một trang mới đang chò đợi chúng ta.

Nguồn : ADMIN :))

Liên hệ hợp tác hoặc quảng cáo: gmail

Điều khoản dịch vụ

Copyright © 2021 HOCTAPSGK