I. MB: Giới thiệu tác giả, tácphẩm
II. TB
1, Giới thiệu chung
- vị trí: là bài thơ thứ 31/134 của tập tho "Nhật kí trong tù"
- Hcst: vào cuối mùa thu năm 1942 trên con đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo,
2. Cảm nhận
a. Bức tranh thiên nhiên
– Trên đường chuyển lao, Bác đã ghi lại khung cảnh thiên nhiên chiều tối rộng lớn nhưng tịch mịch của vùng sơn cước
– Cánh chim mỏi mệt, đám mây cô đơn là những hình ảnh quen thuộc trong thơ ca cổ điển.
–> sự xuất hiện của những hình ảnh quen thuộc này góp phần làm cho không gian vũ trụ trở nên rộng lớn, gia tăng nỗi buồn, sự cô đơn của người tù nơi đất khách quê người.
+ Cánh chim mỏi mệt trong thơ Bác vừa gợi ra cái rộng lớn, tịch mịch của không gian vừa gợi ấn tượng về chiều thời chiều tà, khi bóng tối bắt đầu bao trùm không gian.
+ Đám mây cô đơn lại gợi ra trạng thái ung dung, tự tại nhưng lại đơn độc, cô đơn của người tù khi lưu lạc nơi đất khách.
– Bức tranh thơ vẫn không ngừng chuyển động, từ không gian rộng lớn của thiên nhiên, Bác đã hướng sự chú ý đến sự sống của con người.
– Hình ảnh thơ giản dị mang những nét đời thường, tuy nhiên chính cái đời thường ấy lại gợi ra bao cảm xúc nồng nhiệt trong tâm hồn của người thi sĩ.
b, Cuộc sống con người
– Hình ảnh cô gái xay ngô tối thể hiện sức sống mạnh mẽ, dáng vẻ trẻ trung sống động đã xua đi ấn tượng về không gian tịch mịch, về nỗi cô đơn, nỗi buồn triền miên trước đó.
– Sự xuất hiện của con người như dấu hiệu của sự sống, nó mang đến hơi ấm của sự sống, mang đến niềm vui và niềm tin trong tâm hồn của người chiến sĩ.
– Bếp lửa rực hồng được coi là ánh sáng hi vọng, là nhãn tự của cả bài thơ, sự xuất hiện của ánh hồng bếp lửa báo hiệu cho độc giả biết về thời gian chiều tà đã bị bóng tối của màn đêm bao phủ, một dấu hiệu về thời gian độc đáo.
3. Đánh giá chung
-ND;NT
III. Kết bài: Khẳng định lại vấn đề
Bài thơ Chiều tối viết về không gian chiều tà nhưng không mang đến cảm nhận về sự cô đơn, lạc lõng mà thắp sáng trong lòng mỗi độc giả bằng sự ấm áp của ngọn lửa hồng đầy yêu thương, cùng niềm tin mạnh mẽ vào cuộc đời của tâm hồn lạc quan của Bác.
* BÀI LÀM THAM KHẢO
Chiều cũng tựa như mùa thu, từ xưa đến nay vẫn là nguồn cảm hứng vô tận đối với các thi nhân. Hồ Chí Minh là một nhà thơ lớn nên chẳng đáng ngạc nhiên khi hồn thơ ấy đã ngập tràn rung động trước cảnh chiều hôm. Ngay trong tập "NKTT" ta cũng bắt gặp nhiều bài thơ viết về cảnh chiều hôm: Hoàng hôn, Cảnh chiều hôm nhưng quen thuộc hơn cả là " Chiều tối" ( Mộ). Qua bài thơ, ta thấy được vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên và cuộc sống con người cũng như tâm hồn cao đẹp của Bác.
Nhật kí trong tù (1942 - 1943) tỏa sáng tâm hồn cao đẹp của người chiến sĩ cộng sản vĩ đại Hồ Chí Minh. Tâm hồn tha thiết yêu con người, đất nước bao nhiêu thì cũng thiết tha yêu thiên nhiên cuộc sống bấy nhiêu. Tâm hồn ấy trong những tháng ngày tù đày tăm tối luôn hướng về tự do, ánh sáng, sự sống và tương lai. Trên đường bị giải đi trong chiều buồn ở tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc lòng nhà thơ - người tù bỗng ấm lên và phấn chấn vui vẻ trước thiên nhiên đẹp và hình ảnh cuộc sống bình dị ấm cúng. Cảm xúc nhà thơ viết bài thơ Mộ. Bài thơ được sáng tác cuối thu 1942.
Bài thơ có hai bức tranh rõ nét: hai câu đầu là cảnh hoàng hôn, hai câu sau là cảnh sinh hoạt.
Cảnh hoàng hôn
Trên con đường thanh vắng, thiên nhiên như một hồng thơ đang đón đợi:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.
Bức tranh hoàng hôn đã được xác định thời gian lúc chiều đang trôi chậm và không gian là bầu trời bao la lúc ánh nắng chỉ còn le lói rồi nhường chỗ cho bóng tối lan dần. Phía xa là cánh chim bay mải miết về tổ, trên cao là chòm mây trắng lẻ loi trôi lơ lửng. Thiên nhiên được miêu tả với vài nét chấm phá nhưng đã gợi ra khung cảnh bát ngát, trong sáng êm đềm của hoàng hôn vùng rừng núi. Thiên nhiên có vẻ đẹp trong trẻo, thơ mộng nhưng quạnh quẽ đượm buồn. Vẻ đẹp ấy rung cảm bởi tâm hồn xao xuyến yêu thương của Bác.
Hai câu thơ sử dụng bút pháp chấm phá miêu tả, nhất là cách sử dụng thi liệu mang đậm sắc cổ điển: lấy cánh chim biểu tượng cho hoàng hôn, còn hoàng hôn thì biểu tượng cho nỗi buồn, nhất là đối với người tha hương càng gợi thêm nỗi buồn xa xứ, lòng thương nhớ cố hương, Thôi Hiệu viết:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
(Hoàng Hạc lâu)
Và người đi trên đường xa trong cảnh hoàng hôn ấy dễ cảm thấy cô đơn và chạnh lòng.
Bài thơ có cách cảm thụ thế giới quen thuộc của thơ xưa, thiên nhiên như đồng cảm với tâm sự của con người. Hình ảnh con chim sau một ngày kiếm ăn vất vả như ẩn dụ hình ảnh người tù mỏi mệt sau một ngày đường bị áp giải. Chòm mây buồn như ẩn dụ tâm trạng cô đơn buồn bã của tù nhân. Tứ thơ cổ điển mà vẫn hiện đại, vì thiên nhiên với con người có sự đồng cảm chứ không đồng nhất. Thiên nhiên mệt mỏi còn có chốn nghỉ, cô đơn mà được tự do, còn người tù không biết đi về đâu và mất tự do không biết đến bao giờ. Nên nhà thơ đang khao khát tự do và một mái ấm gia đình. Tả cảnh mà chứa tình, hàm ý sâu xa, đó là vẻ đẹp hàm súc dư ba của thơ cổ điển.
Tóm lại, hai câu thơ gợi tả cảnh thiên nhiên đẹp mà buồn, vì ‘‘người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Buồn vì xa Tổ quốc, buồn vì bị bắt tù oan, buồn vì mất tự do không biết đến bao giờ. Nhưng trước vẻ đẹp của cảnh ấy lòng người ít nhiều cũng tìm được niềm vui thư thái.
Điểm đặc sắc nghệ thuật của bài thơ là chỉ miêu tả không gian với hai hình ảnh đang vận động: cánh chim bay và chòm mây trôi nhưng diễn tả được sự luân chuyển của thời gian: chiều đang trôi chầm chậm về đêm.
Không gian thay đổi, khung cảnh sinh hoạt của một bản làng miền núi được mở ra một cách tự nhiên:
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng
Hai câu thơ sử dụng bút pháp điểm nhãn của thơ cổ điển, nhưng hình ảnh thơ bình dị, chân thực lại được ghi bởi bút pháp hiện thực. Hình ảnh cô gái mải miết xay ngô và xay xong bên lò lửa rực hồng gợi bức tranh đời sống có vẻ đẹp bình dị, ấm cúng, yên vui. Riêng đối với người tù mệt mỏi, mất tự do thì cảnh ấy trở nên vô cùng hấp dẫn, quý giá, thiêng liêng, vì nó lệ thuộc về thế giới tự do. Chỉ có ai đã từng trải qua những cánh đời đau khổ đầy giông bão mới thấy hết giá trị của từng phút giây cảnh đời bình yên. Do đó bức tranh đời sống trở thành nguồn thơ dạt dào, thể hiện niềm xao xuyến, sự rung động mãnh liệt hồn thơ.
Lò lửa hồng là hình ảnh nổi bật trung tâm của bức tranh thơ, làm nổi rõ hình ảnh của cô gái. Nó sưởi ấm bức tranh thiên nhiên hiu hắt. lạnh lẽo và sưởi ấm tâm hồn nhà thơ. Vậy là, hình ảnh cuộc sống con người là điểm hội tụ vẻ đẹp bài thơ, tỏa sáng ánh và hơi ấm xung quanh. Hình ảnh lò lửa hừng hực đặt bên cạnh cô gái tạo ra vẻ đẹp trẻ trung, đầy sức sống của cảnh thơ. Hoàng Trung Thông cho rằng chữ hồng là nhãn tự của bài thơ là vì vậy. Ý thơ cuối khỏe, đẹp bộc lộ niềm vui, lòng yêu đời, yêu cuộc sống. tinh thần lạc quan của Bác.
Như vậy hai câu thơ là sự quan sát của người đi đường nhưng là cái nhìn của người đang khao khát tìm về cuộc sống bình yên giản dị. Thế nên khi bắt gặp hình ảnh cuộc sống con người giữa miền sơn cước, tình yêu và niềm vui đã tràn ngập cõi lòng. Không phải ngoại cảnh tác động đến con người mà chính cảm xúc của con người trùm lên ngoại cảnh. Thiên nhiên đẹp nhưng chưa đủ mang đến niềm vui. Cuộc sống đẹp đã mang đến niềm vui chan chứa. Điều ấy đã thể hiện phẩm chất nhân văn cao đẹp của nhà thơ.
Nguyên tác chữ Hán không có từ tối, bản dịch thơ thừa từ. Không miêu tả đêm tối mà vẫn cảm nhận được là nhờ ánh lửa lò than. Lấy ánh sáng để làm nổi bóng tối, nghệ thuật là ở đó.
Hình tượng thơ vận động rất tự nhiên, bất ngờ, khỏe khoắn: từ lạnh lẽo, hắt hiu đến ấm nóng, sum vầy, từ tối đến sáng, từ buồn sang vui... đó là điểm đặc sắc trong phong cách thơ của Bác, thể hiện niềm tin yêu cuộc đời dù đang ở trong những tháng ngày đau khổ nhất.
Bài thơ Chiều tối có sự hài hòa giữa phong cách cổ điển với hiện đại, giữa thiên nhiên với tâm hồn. Bài thơ đã cho người đọc thưởng thức bức tranh thiên nhiên đẹp và cảm nhận được vẻ đẹp của tâm hồn lớn. Một tâm hồn phong phú, giàu cảm xúc, một tình cảm hồn hậu, thiết tha với thiên nhiên, cuộc sống con người; luôn hướng về sự sống và ánh sáng, một tinh thần lạc quan trong gian khổ.
I. Dàn Ý: Phân Tích Bức Tranh Thiên Nhiên Và Con Người Trong Bài Thơ Chiều Tối
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm, khái quát nội dung tác phẩm
2. Thân bài
- Bức tranh thiên nhiên vùng núi lúc chiều tối:
- Bức tranh đời sống con người khi chiều tối:
3. Kết bài
Giá trị của tác phẩm: Bài thơ “Chiều tối” thực sự là một bức tranh tuyệt đẹp, hài hòa giữa những mảng sáng và tối, thiên nhiên và con người.
II. Bài Mẫu: Phân Tích Bức Tranh Thiên Nhiên Và Con Người Trong Bài Thơ Chiều Tối
Bài thơ “Chiều tối” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất nằm trong tập “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh. Bài thơ được ra đời trong hoàn cảnh Người đang trên đường bị áp giải chuyển lao từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Có thể nói bài thơ như một bức tranh hài hòa, giao quyện giữa bức tranh thiên nhiên và cuộc sống của con người, hay chính là sự kết hợp giữa bức tranh hiện thực đời sống và tinh thần thép của người tù cộng sản Hồ Chí Minh.
Có người nào được như Bác, có tinh thần nào lạc quan và yêu đời hơn tinh thần của Bác? Dù trong hoàn cảnh bị chuyển lao cực khổ nhưng trên đường đi Bác vẫn dùng tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của mình để ghi lại những khung cảnh thiên nhiên và con người để rồi qua đó gửi gắm những nỗi niềm, tâm sự và cảm xúc thầm kín của mình. Mở đầu bài thơ là cảm xúc của người thi sĩ trước cảnh thiên nhiên vùng rừng núi khi chiều tà sẩm tối:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
Cảnh chiều tối vùng sơn cước hiện lên rộng lớn, mênh mông nhưng hoang vắng, tĩnh mịch, người thi sĩ đã sử dụng bút pháp chấm phá của thơ cổ điển để tạo nên vẻ đẹp của bức tranh. Bằng những hình ảnh như cánh chim, chòm mây vốn đã quen thuộc trong thơ ca cổ, tác giả đã gợi lên không gian cuối ngày, một ngày đang dần tan trôi từ từ vào đêm tối, thời khắc cuối cùng của mọi hoạt động ban ngày. Trong không gian mênh mông, bóng đêm đang dần bao trùm xuống vạn vật ấy, những hình ảnh này tuy nhỏ bé, mờ nhạt nhưng lại làm tăng thêm sự trống trải, hoang vắng của cảnh núi rừng, đồng thời khắc họa rõ sự cô đơn của người tù cách mạng đang một thân một mình nơi đất khách quê người. Cánh chim mệt mỏi bởi chính không gian rộng lớn làm nó bay mải miết, về rừng tìm chốn ngủ đã nhấn mạnh đến thời điểm kết thúc ngày, cánh chim đã mỏi sau một ngày hoạt động, phải tìm nơi dừng chân, chỗ trú ngụ. Còn người chiến sĩ cách mạng dù cũng đã mệt mỏi nhưng biết bao giờ mới được dùng chân và cũng không biết sẽ dừng chân tại đâu. Hình ảnh “Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không” gợi ra sự lững lờ, ung dung tự tại nhưng lại có phần đơn độc, lẻ loi của người tù cách mạng đang lưu lạc. Mây trôi nhẹ giữa không gian rộng lớn còn gợi sự chậm chạp, khắc khoải trong mơ hồ, cũng giống như Người, trên đường chuyển lao Người băn khoăn trăn trở không biết được tương lai sẽ đi đến đâu, còn cả sự nghiệp cách mạng phía trước sẽ ra sao.
Bỗng trong không gian thiên nhiên ấy hiện lên bóng dáng của con người, sự sống của con người đã làm sống dậy bức tranh, trở thành tâm điểm của cả bức tranh. Sự xuất hiện của cuộc sống con người đã xua tan đi nỗi cô đơn, lẻ loi của người tù cách mạng:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
(Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết lò than đã rực hồng)
Nơi thôn quê miền sơn cước có bóng dáng của một thiếu nữ đang xay ngô chuẩn bị cho bữa tối, quả thực đây là một hình ảnh - cảnh tượng hết sức đời thường, bình dị và dân dã. Thế nhưng chính cái đời thường ấy lại là chất xúc tác mạnh mẽ mang đến những cảm xúc phi thường trong tâm hồn người thi sĩ. Nơi miền sơn cước khi chiều tối vắng vẻ lại hiện lên hình ảnh cô gái thôn nữ đang mải miết xay ngô, một hình ảnh tuyệt đẹp về con người trong lao động. Chính vẻ trẻ trung, hăng say lao động ở cô thôn nữ đã xua tan đi cái âm u, tĩnh mịch và hoang vắng của núi rừng khi vào đêm. Những hoạt động sinh hoạt đời thường gợi lên trong lòng tác giả cảm giác ấm cúng hạnh phúc và no đủ, hơn thế hoạt động của con người chính là hơi ấm của sự sống, không chỉ xua tan đi nỗi cô đơn mà còn mang đến niềm vui trong lòng người tù trên miền đất xa lạ. Hình ảnh “lô dĩ hồng” - lò than rực hồng kết thúc bài thơ và cũng chính là nhãn tự của bài thơ, từ điểm nhìn này bức tranh đời sống con người trở nên ấm áp hơn, màu hồng của lò than là ánh sáng của hy vọng, của niềm tin và sức sống. Điểm nhìn này cũng quay ngược trở lại khắc họa rõ thời khắc chuyển giao từ ngày sang tối của thời gian, không gian. Màn đêm đã bao phủ toàn bộ cảnh vật, đến nỗi chỉ một lò than có thể rực hồng nổi bật trong đêm tối của rừng núi sơn cước.
Bài thơ “Chiều tối” thực sự là một bức tranh tuyệt đẹp, hài hòa giữa những mảng sáng và tối, thiên nhiên và con người. Người tù cộng sản Hồ Chí Minh đã bằng những nét tinh tế, trong trẻo nhất của tâm hồn yêu thiên nhiên, cuộc sống để có thể vẽ nên một bức tranh kỳ diệu trong hoàn cảnh đặc biệt - trên đường đi chuyển lao tù.
https://thuthuat.taimienphi.vn/phan-tich-buc-tranh-thien-nhien-va-con-nguoi-trong-bai-tho-chieu-toi-44840n.aspx
Chiều tối là tác phẩm nổi bật trong chương trình ngữ văn lớp 11, ngoài bài làm văn Phân tích bức tranh thiên nhiên và con người trong bài thơ Chiều tối, học sinh và thầy cô tham khảo thêm các bài làm văn mẫu khác như Phân tích bức tranh đời sống con người trong tác phẩm Chiều tối, Chỉ ra nét cổ điển và hiện đại trong bài thơ Chiều tối, Cảm nhận về bài thơ Chiều tối, Phân tích bài thơ Chiều tối hay cả phần tài liệu Soạn văn bài Chiều tối.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 11 - Năm thứ hai ở cấp trung học phổ thông, gần đến năm cuối cấp nên học tập là nhiệm vụ quan trọng nhất. Nghe nhiều đến định hướng sau này rồi học đại học. Ôi nhiều lúc thật là sợ, hoang mang nhưng các em hãy tự tin và tìm dần điều mà mình muốn là trong tương lai nhé!
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK