Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, một bài thơ chỉ có bốn câu thơ thì tác giả đã làm thế nào để thể hiện hết quan điểm, tình yêu đất nước, trung quân được. Thế nhưng Phạm Ngũ Lão đã rất tài năng khi chỉ qua bốn câu thơ ấy mà truyền đạt tới mọi người những quan điểm tư tưởng của một con người của trời đất của vũ trụ, của một đấng nam nhi đầu đội trời chân đạp đất. Đồng thời tác giả còn thể hiện chủ nghĩa anh hùng yêu nước của bản thân qua những quan niệm của đại đa số những danh tướng yêu nước trung thành hồi bấy giờ.
Hai câu thơ đầu tác giả tập trung thể hiện vẻ đẹp hiên ngang trong tranh đấu cũng như vẻ đẹp đoàn kết tinh thần vượt mọi khó khăn gian khổ của những binh lính nhà Trần:
“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
(Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)
Hình ảnh con người nhà Trần hiện lên hiên ngang với ngọn giáo trong tay họ có thể đi bất cứ nơi nào có giặc, hành hiệp trượng nghĩa cứu giúp người nghèo kẻ yếu cũng như đánh đuổi quân xâm lược Mông Nguyên. Xét về vẻ đẹp hiên ngang ấy trong bản dịch chữ “hoành sóc” thành “múa giáo” không lột tả hết được sự hiên ngang ấy. Múa giáo thể hiện sự yếu ớt đồng nghĩa với việc không lột tả được sự hùng mạnh anh dũng của quân đội, con người nhà Trần.
Hai chữ “hoành sóc” như khắc tạc lên những con người anh dũng lẫm liệt với ngọn giáo ngang trong tay đi khắp giang sơn để bảo vệ đất nước. Tưởng chừng quân giặc cả thế giới phải công nhận là sức mạnh kia chỉ là một ngọn gió nhẹ trước khí thế ngút ngàn của họ. Chúng mạnh về số lượng cũng như chất lượng, đầy đủ về vật chất nhưng chúng lại thiếu đi sự đánh giá và ý chí vượt qua gian khổ nên chúng phải chuốc lấy thất bại vì đã đánh giá thấp con người nhà Trần.
Những con người ấy tuy có nhỏ bé về mặt thể chất hay không đông đảo như số lượng quân của nhà Mông nhưng ý chí của họ thì vượt qua hữu hạn về mặt thể chất và số lượng ấy. Và cứ thế với ngọn giáo ngang trong tay họ đã trải qua biết bao nhiêu mùa thu như thế để bảo vệ đất nước tổ quốc này. Họ góp phần tạo nên một đất nước tươi đẹp như xã hội ngày nay. Hình ảnh ngọn giáo trở nên thật đẹp khi được hiện lên trong cái rộng lớn của không gian và chiều dài của thời gian lịch sử.
Hình ảnh ấy cũng như thể hiện được vẻ đẹp của chính tác giả trong những trận chiến nảy lửa, cam go vẫn ngang ngọn giáo để bảo vệ đất nước. Không chỉ đẹp về mặt ngoại hình con người nhà Trần còn hiện lên với vẻ đẹp của khí chất cao ngất, mạnh mẽ lấn át hết cả sao Ngưu trên trời. Sức mạnh của quân đội Sát Thát giống như hổ như báo có thể nuốt trôi cả một con trâu mộng.
Hay cũng chính là vẻ đẹp đoàn kết ba quân một lòng khơi dậy trong nhau một tinh thần thép để có thể vượt qua những khó khăn chông gai của cuộc chiến và đi đến một cái kết đẹp và có hậu cho cuộc chiến tranh chính nghĩa bảo vệ tổ quốc. Tiếp đến hai câu thơ cuối tác giả thể hiện quan niệm về chí làm trai của mình trong thời buổi ấy:
“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”
(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe thuyết Vũ Hầu)
Đã sống ở trên trời đất thì phải có công danh với núi sông, đó cũng là một tuyên ngôn khẳng định chí làm trai của Nguyễn Công Trứ, theo đó ta thấy quan niệm này không chỉ của riêng Phạm Ngũ Lão mà còn có cả tất cả những bậc nam nhi có chí thời bấy giờ. Đó là xu hướng chung, quan niệm chung của họ và cũng chính vì thế mà Phạm Ngũ Lão cũng không nằm ngoài quan niệm đó. Tuy nhiên ở đây tác giả nhấn mạnh thêm quan niệm ấy và mở nó ra với ý nghĩa của cá nhân tác giả mà thôi.
Dù là một vị tướng trung thành giống như cánh tay phải của Trần Hưng Đạo, trải qua biết bao nhiêu trận đánh vào sinh ra tử nhưng đối với ông đó vẫn chưa được liệt kê vào những công danh của đất nước. Đối với Phạm Ngũ Lão thì công danh vẫn là một thứ mà còn vương nợ với ông. Và chính vì vương nợ nên ông thấy hổ thẹn khi nghe chuyện về Vũ Hầu. So sánh mình với Vũ Hầu để thấy những cái chưa được của mình, đây không phải là sự ngộ nhận thân phận của mình giống như Vũ Hầu mà đó là cả một tinh thần học hỏi của nhà thơ đối với người tài giỏi.
Có một điểm chung là cả ông và Vũ Hầu đều giúp sức cho một người lớn hơn nhưng tác giả muốn nói ở đây là khi Vũ Hầu giúp được cho vị tướng của mình thì Phạm Ngũ Lão lại khiêm tốn nhận mình chưa giúp được gì cho Hưng đạo đại vương nên thấy hổ thẹn khi nghe chuyện Vũ Hầu. Đồng thời qua đó ta thấy được sự trung thành và cống hiến hết sức mình của tác giả với Hưng Đạo đại vương. Tuy xuất thân từ một người nông dân nhưng Phạm Ngũ Lão đã thể hiện được sức mạnh ý chí và trí tuệ của mình khiến cho người ta không thể vịn vào hoàn cảnh xuất thân ấy để mà chê trách được ông.
Qua đây ta thêm yêu hơn những con người nhà Trần nói chung và Phạm Ngũ Lão nói riêng. Ông không những là một vị danh tướng với vẻ đẹp hiên ngang trừ gian diệt bạo, bảo vệ đất nước hòa bình yên ổn mà còn là một nhà thơ giỏi nữa. Đối với ông mà nói những gì ông làm được vẫn chưa thỏa cái công danh đối với đất nước. Những chiến công mà ông đạt được vẫn chưa thấm vào đâu so với Vũ Hầu, nên khi nghe chuyện ông không khỏi thẹn thùng.
Tham khảo:
Đất nước của chúng ta trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử với các cuộc chiến tranh chống xâm lược và bảo vệ đất nước không ít những vị tướng, ông vua đã dùng văn chương để nói lên những tâm tư tình cảm của mình trước thời cuộc. Tiêu biểu trong số ấy phải kể đến nhà thơ vị tướng Phạm Ngũ Lão với bài thơ thuật hoài, có thể nói bài thơ không chỉ làm cảm xúc nỗi lòng của nhà thơ với hào khí Đông A mà còn nổi bật lên cảm hứng yêu nước anh hùng bất khuất.
Trước tiên ta nên tìm hiểu về hào khí Đông A là gì?. Hào khí Đông A là Hào khí Đông A là hào khí đời Trần (chữ Đông và chữ A trong tiếng Hán ghép lại thành chữ Trần). Cụm thuật ngữ này từ lâu đã được dùng để chỉ cái không khí oai hùng, hào sảng của thời Trần (thời kì mà chúng ta có những chiến công lừng lẫy khi cả ba lần đều đánh tan sự xâm lược của giặc Nguyên- Mông). Hào khí Đông A là chỉ cái khí thế hừng hực của niềm vui chiến thắng, chỉ cái khát khao mang tính thời đại mà ở đó ai ai cũng muốn góp sức dựng xây hay dang tay bảo vệ cho sự vững bền mãi mãi của non sông đất nước mình.Hào khí Đông A từ xã hội đi vào thơ văn trở thành sự kết tinh cho những biểu hiện cao đẹp của lòng yêu nước. Có không ít tác phẩm nổi tiếng mang hơi thở của Hào khí Đông A : Tụng giá hoàn kinh sư (Phò giá về kinh) của Trần Quang; hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn thì thuật hoài của Phạm Ngũ Lão cũng thể hiện rất rõ hào khí này. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt chỉ có bốn câu thơ thôi nhưng nói lên được cả một chí lớn yêu nước anh hùng bất khuất.
Câu thơ mở đầu thể hiện rõ một tư thế hiên ngang dũng mạnh và không sợ bất cứ một khó khăn nào:
“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”
(Múa giáo non sông trải mấy thu)
Câu thơ như gợi tả hết cái hào khí Đông A của thời bấy giờ, hình ảnh cầm ngang ngọn giáo thể hiện rõ vẻ đẹp hiên ngang của con người nhà Trần. Nếu như so sánh thì ta thấy hai chữ “ Múa giáo” như trong bản dịch không lột tả hết những vẻ của hai chữ “ hành sóc”. Múa giáo thể hiện mờ nhạt và có phần yếu ớt hơn so với hành sóc. Nghĩa thật sự của hai chữ hành sóc đó là cầm ngang ngọn giáo trên tay. Ngọn giáo ấy không chỉ là vũ khí chiến đấu của những người anh hùng như Phạm Ngũ Lão mà nó còn là thứ để họ thể hiện tài năng, bản lĩnh cũng như ý chí hiên ngang bất khuất của bản thân mình. Với ngọn giáo ấy và tư thế ấy họ đã mang đến những chiến công lẫy lừng trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ giang sơn của cha ông. Thêm nữa là cụm từ “ kháp kỉ thu” gợi tả một thời gian của lịch sử. có thể nói tầm vóc của chiếc giáo kia được đo bằng không gian rộng lớn của giang sơn và thời gian của chiều dài lịch sử. Nó giống như một chiếc gậy chấn quốc của những tướng quân tài tình vậy. đặc biệt là những người có ý chí bất khuất hiên ngang trước những sóng gió và không thôi yêu nước như Phạm Ngũ Lão.
Nếu như câu thơ thứ nhất lột tả được vẻ đẹp của những vị tướng quân thời Trần thì sang câu thứ hai tác giả tiếp tục miêu tả sức mạnh cũng như vẻ đẹp của quân đội:
“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
(Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)
Đội quân ấy mang sức mạnh về cả sức quân cũng như tinh thần, sức mạnh ấy có thể nuốt trôi tất cả những gì cản bước tiến của họ. Chính chiến thắng quân Nguyên Mông đã chứng minh cho sức mạnh ấy , một quân đội đông đảo như chúng mà cũng bị bại trước khí thế oai hùng hiên ngang của ta. Đội quân Sát Thát ra đi với khí thế như hổ báo át đi, mờ đi cả sao Ngưu trên trời. cuộc hành trình cứu nước gian nan khó khăn và đầy những nguy hiểm nhưng không thể nào làm vơi đi sức mạnh ý chí trong lòng quân ta được. câu thơ là phép so sánh độc đáo của Phạm Ngũ Lão, qua đó hào khí Đông A được thể hiện một cách rõ ràng nhất. đồng thời qua đó thể hiện được chủ nghĩa yêu nước anh hùng.
Tiếp đến câu thơ thứ ba tác giả thể hiện tâm tư tình cảm của mình qua
Nam nhi vị liễu công danh trái
“Công danh nam tử còn vương nợ”
Tác giả nêu lên trách nhiệm bổn phận của một bậc nam nhi sống ở trên đời. Nếu như Nguyễn Công Trứ thể hiện chí làm trai của mình qua những câu thơ:
“Chí làm trai nam bắc đông tây
Cho thỏa sức vẫy vùng trong bốn bể”
Thì Phạm Ngũ Lão lại thể hiện quan niệm cũng như chí làm trai – một bậc trượng phu thật sự thì phải có công danh trong thiên hạ. nếu như không có công danh thì không đáng là một vị anh hùng, một đấng nam nhi sống ở trên đời. Nguyễn Công Trứ làm trai vẫy vùng trong bốn bể khắp giang sơn đâu cũng đặt chân đến và không có sóng gió nào có thể cản được bước chân của ông thì Phạm Ngũ Lão có chí làm trai là phải có công danh với đất nước. Đã sinh ra trên đời thì phải có công với đất nước của mình. Điều đó phải chăng chính là chủ nghĩa anh hùng yêu nước trong nhà thơ?
Đến câu thơ cuối cùng tác giả thể hiện sự khiêm tốn của mình, cho rằng những việc mình làm cho đất nước chưa có gì cả nên luống thẹn :
“ Luống thẹn tai nghe thuyết Vũ Hầu”
(Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu)
Phạm Ngũ Lão “thẹn” chưa có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu Gia Cát Lượng đời Hán để trừ giặc, cứu nước. Thẹn bởi vì so với cha ông mình chưa có gì đáng nói. Gia Cát Lượng là quân sư của Lưu Bị, mưu trí tuyệt vời, song điểm làm cho Gia Cát Lượng nổi tiếng là lòng tuyệt đối trung thành với chủ. Vì thế “luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu” thực chất là một lời thề suốt đời tận tụy với chủ tướng Trần Hưng Đạo, “thẹn” còn được hiểu là cách nói thể hiện khát vọng, hoài bão muốn sánh với Vũ hầu. Xưa nay, những người có nhân cách vẫn thường mang trong mình nỗi thẹn. có thể thấy trong nhà thơ có một tư tưởng anh hùng yêu nước lớn mà lại còn có cả sự trung quân nữa. Bấy nhiêu điều mà ông làm được khi đi đánh giặc, ông đều cho là chưa làm được gì với núi sông của mình.
Bài thơ chỉ có bốn câu thơ thôi nhưng đã lột tả hết được những tâm tư tình cảm của nhà thơ Phạm Ngũ Lão hay cũng chính là nổi bật lên chủ nghĩa anh hùng yêu nước của ông nói riêng của quân dân nhà Trần nói chung. Tác giả quan niệm thật đúng với thời cuộc lúc bấy giờ là đã làm trai sống ở trên đời thì phải có công danh với đất nước của mình. Bài thơ như một lời tuyên ngôn khẳng định ý chí quyết tâm của
Chúc bạn học tốt!
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 10 - Năm thứ nhất ở cấp trung học phổ thông, năm đầu tiên nên có nhiều bạn bè mới đến từ những nơi xa hơn vì ngôi trường mới lại mỗi lúc lại xa nhà mình hơn. Được biết bên ngoài kia là một thế giới mới to và nhiều điều thú vị, một trang mới đang chò đợi chúng ta.
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK