Bài làm
Với mỗi người, quê hương đều có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng. Với em, quê hương Hưng Yên cũng có vị trí vô cùng đặc biệt. Trong tâm trí em, danh lam thắng cảnh ở quê hương mà em ấn tượng hơn cả là đền Chử Đồng Tử- một danh lam liên quan đến tín ngưỡng, tâm linh.
Đền Chử Đồng Tử được xem là “Tứ bất tử” của tín ngưỡng dân tộc. Nó nằm ở địa phận thôn Đa Hòa, xã Bình Minh và xã Dạ Trạch, huyện Khoái Châu. Nói tới hai vị trí địa lí như vậy bởi đền gồm hai ngôi đền là đền Đa Hòa và đền Dạ Trạch nằm ở vị trí tương ứng với hai địa danh trên.
Đền Chử Đồng Tử là không gian thiêng liêng của tín ngưỡng, văn hóa. Không khí nơi đây là không khí mảnh đất Hưng Yên, không khí của làng quê Bắc Bộ thanh bình. Đến thăm đền Chử Đồng Tử, ta không thể không ấn tượng với những cánh cò bay, những rặng tre xanh rì rào trong gió.
Cái mộc mạc của làng quê, hương vị xóm làng vô cùng thân thuộc với mỗi người. Đến gần các đền hơn, ta sẽ bắt gặp tượng thờ. Tượng được tạc bằng đồng, cao lớn, uy nghi. Hương khói phả ra ngày đêm tạo nên không khí thanh tịnh của một vùng tâm linh. Mọi thứ đều rất cổ kính, mộc mạc. Những nội thất từ gỗ làm ta dễ dàng chìm đắm trong cảnh quê, tình quê. Tượng thơ có Chử Đồng Tử, cũng có một vài tượng thờ khác trong mỗi gian thờ. Tượng tạc uy nghi và khiến ta không thể không nghiêng cẩn cúi mình tôn trọng, ngưỡng vọng.
Hằng năm, tại hai ngôi đền đều diễn ra những lễ hội độc đáo. Các lễ hội ở đây chính là sự tổ chức của bản sắc văn hóa. Du khách muôn nơi đổ về với sự ngưỡng mộ dành cho Chử Đồng Tử cũng như muốn tham quan văn hóa làng quê độc đáo, ấn tượng. Ý nghĩa mà ngôi đền mang đến không chỉ là sự thờ phụng, không chỉ là sự trân trọng, ngợi ca mà còn hơn cả là sự bảo tồn nét đẹp văn hóa cổ truyền của dân tộc trong từng nghi thức dâng hương, trong cái nghiêng mình kính cẩn.
Có lẽ không chỉ quê hương Hưng Yên với đền thờ Chử Đồng Tử. Trên đất nước Việt Nam, ta cũng bắt gặp muôn vàn cảnh đẹp, muôn ngàn cái hay, cái ý nghĩa ở đời. Mỗi danh lam thắng cảnh thì đều rất cần bảo tồn, lưu giữ. Và mỗi người thì đều có sứ mệnh vì quê hương, phát triển, làm giàu, làm đẹp giá trị văn hóa quê hương mình.
#Bạn tham khảo nha
Dù ai buôn bắc bán đông,
Đố ai quên được nhãn lồng Hưng Yên.
Quê tôi, Hưng yên, quê hương của nhãn lồng, với Phố Hiến nằm ở ngã ba sông. Có bờ cát dài chạy theo con đê, với cánh đồng xanh thẳm, thẳng cánh cò bay. Quê tôi không có đồi núi, không có biển, chỉ thuần đồng bằng. Nơi đây là cột mốc đánh dấu tâm của đồng bằng sông Hồng. Vậy nên nó chứa trong mình tất cả những đặc trưng văn hoá, lịch sử, địa lý của đồng bằng Bắc Bộ. Xin giới thiệu với các bạn, Hưng Yên- quê tôi: Thứ nhất Kinh Kì, Thứ nhì phố Hiến.
Phố Hiến là niềm tự hào của tất cả người con xứ nhãn quê tôi, tuy rằng thời gian đã qua, Phố Hiến giờ đây chỉ còn là vang bóng một thời. Theo sử sách ghi lại : Phố Hiến từng là thương cảng quốc tế lớn nhất, nhì Việt Nam, thậm chí cả khu vực. Nhiều thương thuyền lớn từ phương Tây, Nhật Bản, Trung Quốc đã thả neo ở đây. Nhiều công ty hàng hải nổi danh của Hà Lan, Anh, cũng từng mở thương điếm bên bến sông Hồng này…
Phố Hiến xưaThuở đó, Phố Hiến trải dài bờ tả ngạn sông Xích Đằng (tên địa phương của sông Hồng), có vị trí giao thương đường thủy thuận lợi. Từ vịnh Bắc Bộ, tàu bè có thể theo các sông Hồng, Thái Bình, Đáy để vào sâu trong đất liền, nhưng đều phải qua Phố Hiến mới đến được Hà Nội. Vì vậy, ngoài bán buôn, Phố Hiến còn là trạm hải quan.
Nhiều nhà hàng hải phương Tây đã vào Việt Nam theo ngã sông này, trong đó ông William Dampier kể cụ thể là đã quan sát Phố Hiến có khoảng 2.000 nóc nhà vào năm 1688. Còn Samuel Baron, con lai của một phụ nữ Việt và Giám đốc thương điếm Hà Lan Hendrik Baron ở Phố Hiến cũng đã khắc lên bia đá dòng chữ tưởng niệm “Baron 1680”. Về sau, Samuel Baron làm việc cho Công ty Đông Ấn (Compagnie des Indes Orientales) và ở Phố Hiến.
Phố Hiến là vùng đất trải nhiều biến động lịch sử. Thời các sứ quân, vùng này là lãnh địa của sứ quân Phạm Bạch Hổ. Thời tiền Lê, nó là thực ấp của Lý Công Uẩn. Khi nhà Minh diệt Tống, nhiều Hoa kiều chạy sang Việt Nam. Một số người tị nạn ở dải đất bên bờ sông Hồng này và lập làng Hoa Dương. Năng khiếu buôn bán của họ đã góp phần biến nơi này thành phố buôn sầm uất.
Hiện nhiều học giả cho rằng tên Phố Hiến có thể xuất hiện vào cuối thế kỷ XV, khi vua Lê Thánh Tông (1460-1497) phân chia đất nước thành 12 đạo thừa tuyên. Mỗi thừa tuyên có ty hiến sát để giám sát, kể cả kiểm soát đường thủy. Có lẽ, vì ty hiến sát trên dải đất bờ sông này mà phố buôn được quen gọi là Phố Hiến.
Đến thế kỷ thứ XVII, thương cảng Phố Hiến ngày càng tấp nập tàu hàng. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí miêu tả: “Cung cũ Hiến Nam ở địa phận xã Nhân Dục, huyện Kim Động là lỵ sở trấn Sơn Nam đời Lê. Phàm người nước ngoài đến buôn bán thì tụ tập ở đây gọi là Vạn Lai triều, phong vật phồn thịnh, nhà ngói như bát úp”.
Các thuyền mành bằng gỗ của Trung Quốc, Xiêm La và các nước châu Á khác có thể neo đậu sát bờ sông Hồng, còn thuyền châu Âu lớn thường neo ở vùng nước sâu giữa sông. Các thương điếm phương Tây đã được dựng lên ở Phố Hiến như Thương điếm Anh (1672-1683), Thương điếm Hà Lan (1637-1700).
Nhật trình của Công ty Đông Ấn ghi lại rằng trong hơn 10 năm từ 1672-1683, có khoảng 30 chuyến tàu viễn dương phương Tây đến thương cảng Phố Hiến. Cụ thể, vào năm 1637, thương gia Hà Lan Karel Hartsinck giong thuyền tới Phố Hiến đã gặp nhiều tàu Bồ Đào Nha chở đầy tơ sống vào tận Thăng Long.
Thời hưng thịnh, Phố Hiến đã có những chợ rất lớn như chợ Vạn ở bến Xích Đằng, chợ Hiến, chợ Bảo Châu ở bến Nễ Châu. Phố phường sinh sống của người dân và thương buôn quây quanh các ngôi chợ này như Cựu đê thị (phường đê cũ), Ngoại đê thị (phường ngoài đê), Hà khẩu thị (phường cửa sông)… Ngoài ra, một số phường còn được đặt tên theo hàng buôn như Thuộc bì thị (phường thuộc da), Hàng chén thị (phường Hàng chén), Hoa lạp thị (phường nón hoa)…
Thời vàng son ở Phố Hiến, nơi bán buôn trù phú nhất là các phố phường của Hoa kiều. Thương khách Nhật cũng đến ở thương cảng này từ đầu thế kỷ XVII, chủ yếu để đổi bạc, đồng lấy tơ lụa. Sau khi Mạc phủ Tokugawa ban lệnh tỏa quốc, nhiều người quyết định ở lại Phố Hiến. Ngoài buôn bán, họ làm thêm nhiều nghề như hoa tiêu, phiên dịch, môi giới… Người Hà Lan, Bồ Đào Nha cũng đến Phố Hiến rất sớm…
Tiếng Việt, cũng gọi là tiếng Việt Nam Việt ngữ là ngôn ngữ của người Việt và là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam. Đây là tiếng mẹ đẻ của khoảng 85% dân cư Việt Nam cùng với hơn 4 triệu Việt kiều. Tiếng Việt còn là ngôn ngữ thứ hai của các dân tộc thiểu số tại Việt Nam và là ngôn ngữ dân tộc thiểu số tại Cộng hòa Séc.
Nguồn : Wikipedia - Bách khoa toàn thưLớp 5 - Là năm cuối cấp tiểu học, áp lực thi cử nhiều mà sắp phải xa trường lớp, thầy cô, ban bè thân quen. Đây là năm mà các em sẽ gặp nhiều khó khăn nhưng các em đừng lo nhé mọi chuyện sẽ tốt lên thôi !
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK