Nếu như Pau Xtopxki đã từng có niềm xúc cảm mãnh liệt: “Anđécxen đã lượm nhặt hạt thơ trên luống đất của người dân cày, ấp ủ chúng nơi trái tim ông rồi gieo vào những túp lều, từ đó lớn lên và nảy nở những bó hoa thơ tuyệt đẹp, chúng an ủi trái tim những người cùng khổ”. Thì sang đến thế kỉ XIX, Belinxki đã khẳng định: “Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”.
Nhận định của V. Belinxki đã khái quát được một trong những đặc trưng cơ bản nhất của thơ ca. Có lẽ, để giải thích hết sự kì diệu của thơ ca từ khi nó ra đời và gieo vào tâm hồn của người nghệ sĩ những hạt mầm xanh tốt thì vẫn chưa tìm ra được một định nghĩa trọn vẹn, hoàn chỉnh. Chúng ta vẫn thường công nhận một bài thơ hay hoặc xuất sắc, nhưng liệu rằng, ta đã bao giờ trả lời được câu hỏi bình thường nhất: “Thơ là gì? Thơ bắt nguồn từ đâu? Theo quan niệm của Belinxki, thơ ca không phải là điều gì đó xa vời thực tế, mông lung hay trừu tượng, mà là một khái niệm vô cùng gần gũi: “Thơ trước hết là cuộc đời..”. Trong câu nói của Belinxki chữ “cuộc đời” như một vì sao được chiếc đòn bẩy “trước hết” bật vào từ “thơ”, làm sáng lên một ánh sáng lung linh rạng rỡ. Thơ ca bắt nguồn từ cuộc sống.
Nếu như giai điệu, âm thanh là chất liệu của âm nhạc, màu sắc, đường nét là chất liệu của hội họa thì “cuộc sống” chính là chất liệu tạo nên thơ ca. Hay nói cách khác tất cả những điều diễn ra trong cuộc sống hang ngày dù bình dị hay phi thường, dù hạnh phúc hay khổ đau đều được phản ánh chân thực nhất trong các tác phẩm thơ ca. Từ ngàn đời xưa, khi đã bắt đầu xuất hiện sự sống, thơ ca đã bám rễ vào cuộc đời, hút lấy nguồn nhựa sống dạt dào ngầm chảy trong long cuộc sống và đến với người đọc một cách bình dị nhất. Danh sĩ Lê Quý Đôn đã từng nói: “Trong bụng không có ba vạn quyển sách, trong mắt không có cảnh núi non kì lạ của thiên hạ thì không thể làm thơ được”. Thơ ca là sự sống. Nếu một tác phẩm thơ ca mà không bắt nguồn từ những vật liệu mưởn ở thực tại thì mãi mãi chỉ là một tác phẩm ngôn từ sáo rỗng, cằn cỗi khô khan. Và nếu thơ ca là một cây đại thụ thì gốc rễ của nó phải được nảy mầm từ hạt giống là cuộc sống muôn hình vạn trạng ngoài kia, được chăm sóc và tưới nước cẩn thận thì mới có thể phát triển và vươn những tán lá xanh rộng lên bầu trời cao vời vợi. Thơ ca gần gũi với cuộc sống của con người tới mức: “Từ bao giờ đến bây giờ, từ Hô-me-rơ đến kinh thi, đến ca dao, thơ vẫn là một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó đã ra đời giữa vui buồn của loài người và nó sẽ kết bạn vói loài người đến ngày tận thế”. Thơ ca khơi dậy trong lòng ta lớp lớp những đợt song cuộn trào và muôn vàn cung bậc tình cảm: yêu thương, căm giận xót xa, nghẹn ngào, lưu luyến, bang khuâng… bởi thơ là đời, thơ là hoa nảy nở từ mảnh đất cuộc đời dào dạt nhựa sống. Như vậy xét đến cùng, cuộc sống là nơi cung cấp chất liệu cho thơ.
Ngày còn bé nghe lời ru của bà của mẹ, và cứ thế ta lớn lên, trưởng thành. Có những câu hát thơ đầy ý vị:
“Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương”
Nhớ mùi vị canh rau muống xanh rờn, nhớ bát cà dầm tương bình dị mà sao đậm đà khó quên. Mẹ bồi đắp cho con từ đó một tình yêu quê nhà thân thiết. Và thế là một chút kí ức thân quen lại ùa về trong tâm trí ta qua những vần thơ mộc mạc, chân thành. Chỉ là một bát cơm nhà bình thường mà sao qua câu hát thơ lại trở nên nặng tình nặng nghĩa đến như vậy!
Ta lại cùng trải nghiệm cái khoảnh khắc giao mùa đầy tinh tế trong thơ của Hữu Thỉnh:
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi"
Câu thơ không chỉ đơn thuần là giọng kể mà còn là sự suy nghĩ chiêm nghiệm về đời người. Nhìn thấy cảnh vật biến chuyển khi thu đến, Hữu Thỉnh nghĩ đến cuộc đời khi đã “đứng tuổi”. Phải chăng mùa thu của đời người là sự khép lại những tháng ngày sôi nổi với những bất thường bồng bột của tuổi trẻ và mở ra một mùa mới, yên tĩnh trầm lắng hơn. Con người khi bước vào mùa thu của cuộc đời từng trải không còn bị bất ngờ, bị động trước những khó khan thử thách của cuộc sống. Thu đến rất nhẹ nhàng mà ra đi cũng rất lặng lẽ. Thu không đánh thức ta bằng những âm thanh rung động, màu sắc lộng lẫy, hương vị ngọt ngào mà gieo vào lòng ta những thoáng xao động, mơ màng, gợi cho ta nhưng suy nghĩ sâu sa về cuộc sống. Rõ ràng, chính thiên nhiên đầy tươi đẹp kia đã được Hữu Thỉnh “thi vị hóa” vào trang thơ của mình. Lại một lần nữa, thơ ông càng làm rõ quan điểm: “thơ trước hết là cuộc đời’.
Cuộc sống mênh mông và kì diệu làm sao! Thơ ca bắt nguồn từ cuộc sống, cho nên thơ bao giờ cũng chứa đựng bóng hình cuộc sống, bóng hình con người. Thơ ca không thể tách rời cuộc đời. Nhưng nếu thơ chỉ là cuộc đời thôi thì chưa đủ. Nếu như thơ ca thiếu “nghệ thuật” thì sẽ chỉ là hòn ngọc thô, không được mài giũa, không thể khơi dậy trong trái tim của con người những rung động sâu xa. Như vậy, Belinxki đã không phủ nhận vai trò của yếu tố làm nên thi ca này.
Thơ cất lên từ biển cuộc đời và bay cao từ ngọn gió nghệ thuật. Bằng tài năng của mình, nhà thơ phải biết đưa nó tới người đọc một cách trọn vẹn nhất. Bởi “nghệ thuật là những câu trả lời đầy thẩm mĩ cho con người, thay đổi, cải thiện thế giới tinh thần của con người, nâng con người lên”. Một tác phẩm chỉ thực sự thành công khi kết hợp nhuần nhuyễn giữa sự rung động của trái tim người nghệ sĩ và dấu ấn phong cách của người cầm bút. Thơ phải thực sự lay động đến trái tim người đọc, chạm đến những góc tối nhất bên trong con người, “khơi được những điều chưa ai khơi”.
Đến với “Đây thôn Vĩ Dạ” là đến với một thế giới thơ kì ảo mà vẫn làm đắm say lòng người:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Bốn câu thơ gợi ra một không gian xứ Huế trong mộng tưởng của nhà thơ. Lời thơ tha thiết mời gọi pha chút trách móc hướng tâm hồn người đọc đến một xứ Huế đẹp mộng mơ. Cảnh vật gần gũi giản dị đẹp mộc mạc đơn sơ như chính con người nơi ấy. Khu vườn xanh mướt, sắc xanh của sự sống trong khoảnh khắc hửng đông, bắt đầu một ngày mới, đón thứ nắng tinh khôi trong trẻo như hiện hữu ngay trước mắt người đọc. Vẻ đẹp của con người Huế đôn hậu, chân thành mà duyên dáng. Vẻ đẹp của con người và thiên nhiên đó trở thành một đặc trưng cho những cảm hứng của thơ ca lãng mạn đầu thế kỉ XX.
Bức tranh tứ bình trong Việt Bắc cũng mang đến vẻ đẹp của con người và thiên nhiên Tây Bắc nhưng bằng cảm nhận về cái đẹp của một nhà thơ cách mạng:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Cảnh vật núi rừng Tây Bắc dưới con mắt của một nhà thơ chiến sĩ lại hiện ra hoàn toàn khác biệt. Vẻ đẹp đặc trưng của núi rừng Tây Bắc ở những thời điểm khác nhau nhưng đều toát lên một sức sống căng tràn. Có thể nói Tố Hữu đã thể hiện cái nhìn cảm quan tinh tế khi gợi ra được vẻ đẹp hữu tình của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc cũng như con người nơi đây. Và còn rất nhiều phong cách khác nữa: Một Xuân Diệu nồng nàn tươi trẻ với những vội vàng cuống quýt vồ vập trong tình yêu; một Huy Cận mênh mang thiên cổ sầu; một Hàn Mặc Tử đau đáu tín hiệu mong chờ cứu nạn, từ thế giới sương sần, tê điếng hướng ra thế giới bên ngoài, thế giới của sự sống và sinh sôi… Vậy đó, thơ ca chính là kì diệu như vậy đó! Đến với thơ nghĩa là ta đến với cuộc đời qua lăng kính nghệ thuật của nhà thơ. “Và người nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng chủ quan của mình, tìm thấy những ấn tượng có giá trị khái quát và biết làm cho những ấn tượng đó có những hình thức riêng (M.Gorki).
“Thơ trước hết là cuộc đời sau đó mới là nghệ thuật”. Khẳng định này vô cùng đúng đắn về thi ca. Belinxki đã cho người đọc thấy được sự kì diệu của thơ ca. Thơ ca khơi dậy trong lòng ta những tình cảm mà ta không ngờ tới, cho ta có thêm nhiều cảm xúc mới mẻ. Nhà thơ phải yêu “cuộc đời” và trân trọng “nghệ thuật” mới vun đắp những vần thơ nở ra những cánh hoa thơm ngát tô điểm cho con người và cuộc đời.
Bạn tham khảo nha! :))
Những vần thơ Andersen, những vần thơ ngân vang từ thung lũng Ôđenzơ, nơi có những hẻm núi sương giăng mờ ảo và những vòm hoa thạch thảo tim tím nên thơ đã gieo vào tâm hồn nhà văn Pauxtôpxki niềm xúc cảm mãnh liệt: “Andersen đã lượm lặt hạt thơ trên luống đất của người dân cày, ấp ủ chúng nơi trái tim ông rồi gieo vào những túp lều, từ đó lớn lên và nảy nở những bó hoa thơ tuyệt đẹp, chúng an ủi trái tim những người cùng khổ”. Thơ ca, hai chữ kì diệu mà muôn đời vẫn chưa tìm ra một định nghĩa trọn vẹn, hoàn chỉnh. Thơ là gì ? Thơ bắt nguồn từ đâu ? Thơ có mãnh lực gì khiến cung đàn cảm xúc của triệu triệu con người trên trái đất này không ngừng lay động, thổ thức, xuyến xao? Phải chăng “thơ” Thơ ca ở đây như trong lời bình của nhà văn học Nga V.Bêlinxki vào thế kỉ mười chín:“Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật.”
Từ thuở thơ ca xuất hiện mang đến hơi thở ấm áp cho hành tinh xanh xanh những đại dương và điệp trùng những cánh rừng tươi thắm của chúng ta, có thể nói chưa bao giờ tổng kết được những định nghĩa về thơ. Có người cho thơ là “lơ tơ mơ”, “thơ là sự tuôn trào bột phát những tình cảm mãnh liệt”, thậm chí “thơ là một cái gì mà người ta không định nghĩa được”. Phải chăng vì thế mà thơ thuộc về cõi huyền nhiệm, mông lung, xa vời vợi? Không, theo quan niệm của Bêlinxki, thơ là một khái niệm hết sức gần gũi: “Thơ trước hết là cuộc đời”. Trong câu nói của Bêlinxki, chữ “cuộc đời” như một vì sao được chiếc đòn bẫy “trước hết” bật vào từ thơ, làm sáng lên một ánh sáng lung linh, rạng rỡ. Thơ ca bắt nguồn từ cuộc sống.
Cuộc sống bao giờ cũng là nguồn cảm hứng mênh mông bất tận của những tâm hồn nghệ sĩ. Thơ ca cũng như văn chương và các loại hình nghệ thuật khác, nếu không bám rễ vào cuộc đời, nếu không hút nguồn nhựa sống dạt dào ngầm chảy trong lòng cuộc sống thì nó sẽ mãi mãi là một cây non èo uộc, không mang trên mình những cành cây săn chắc, những phiến lá xanh tươi phơi phới dưới ánh nắng mặt trời. Là nhà thơ, ngòi bút của anh phải chấm vào nghiên mực cuộc đời thì thơ anh mới tươi màu neo chặt trong bến tâm hồn người thưởng thức. anh sĩ Lê Quí Đôn từng nói: “Trong bụng không có ba vạn quyển sách, trong mắt không có cảnh núi non kì lạ của thiên hạ thì không thể làm thơ được”. Có thể nói cuộc đời là mạch sữa ngọt ngào tuôn chảy không ngừng từ thế hệ này sang thế hệ khác để nuôi dưỡng thi ca. đến với Chế Lan Viên, một “triết gia thi sĩ”, ta không quên giây phút con người ấy rơi vào hố sâu tuyệt vọng của sự chán chường:
“Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh
Một vì sao trơ trọi giữa trời xa
Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh
Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo”
Thế mà cuộc sống mới chan hoà hơi thở nồng ấm của cách mạng đã làm tan mọi băng giá trong trái tim thi sĩ. Người sà vào lòng nhân dân, sung sướng đón nhận nguồn cảm hứng thi ca từ cuộc đời:
“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”
(Tiếng hát con tàu)
Cuộc sống mên mông và kì diệu làm sao ! Cuộc sống là nơi cung cấp chất liệu cho thơ. Thơ ca bắt nguồn từ cuộc sống, cho nên thơ bao giờ cũng chứa đựng bóng hình cuộc sống, bóng hình con người. Thơ ca là nơi con người gửi gắm tâm tình, ước mơ, khát vọng, những băn khoăn, rạo rực, ưu tư. Thơ ca không thể tách rời cuộc đời. Cuộc đời ban truyền nguồn nhựa sống mãnh liệt cho thơ và thơ nở hoa làm đẹp cuộc đời, cống hiến cho con người những phút giây tuyệt vời lắng đọng nhiều nỗi suy tư. đến với thơ, người đọc trước hết sẽ bắt gặp tâm tư, nỗi lòng của người cầm bút, sau đó sẽ gặp chính tâm tư của mình bởi thơ là “tiếng nói đồng ý, đồng tình, đồng chí”. Cùng với văn chương, thơ ca trở nên những nhịp cầu vô hình dẫn dắt những tâm hồn đến với tâm hồn., những trái tim đến với trái tim để con người cùng sẻ niềm vui, nỗi buồn, ước mơ, hi vọng.
Cuộc đời vốn bao la, vô tận kia như một bức tranh với ba chiều không gian trải dài đến vô cùng. Nhà thơ cũng như những con ong cần mẫn bay lượn trong khu vườn cuộc đời ấy:
“Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành một mật
Một mật ngọt thành, đời vạn chuyến ong bay
(Chế Lan Viên)
Thơ ca “là cuộc đời”, nhưng thơ ca không phải là những trang giấy in nguyên vẹn bóng hình của cuộc đời rộng lớn. Người nghệ sĩ phải tìm đến cuộc đời để hút lấy chất mật tinh tuý nhất, ngọt ngào nhất để tạo nên những vần thơ thật sự có giá trị. Nhà thơ phải biết chắt lọc chất liệu mà cuộc đời cung cấp, từ đó mới tạo nên những vần thơ hay, làm rung động lòng người đọc. Thi ca gắn liền với cảm xúc. Nhà thơ không thể hiện cuộc đời qua những tình huống, qua những sự kiện như các nhà văn. Nhà thơ giãi bày bằng cảm xúc, bằng ngôn ngữ thi ca, bằng cả “khoảng trắng giữa các ngôn từ”. Thơ ca có giá trị không tách rời sự thoát li, tách rời khỏi cuộc sống, cũng như sự photo coppy cuộc sống một cách cứng nhắc, khuôn mẫu. Đọc thơ mà chẳng tìm thấy nỗi lòng nhà thơ, đấy chẳng phải là thơ ca đích thực ! Nếu không có một thiên tài như Nguyễn Du uyên bác, ta không thể có “Truyện Kiều”. Nhưng nếu không có những lầm than cơ cực, đắng cay, tủi nhục cùng với những ước mơ cháy bỏng của nhân dân trong xã hội phong kiến, trong buổi suy vong đầy ngột ngạt, ta cũng không thể có những trang Kiều thấm đượm dòng lệ đầy chất nhân bản sâu xa.
"Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
...Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay"
Thơ bao giờ cũng in đậm chữ “đời” trước hết. Cuộc đời không chỉ ban cho nhà thơ nguồn cảm hứng mà cuộc đời còn là nơi khai thác “chất quặng” nguồn từ để tạo nên thơ:
“Vạt áo của nhà thơ không bọc hết bạc vàng mà cuộc đời rơi vãi
Hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang”
(Chế Lan Viên)
Thơ ca là hoa thơm của cuộc đời. Nếu chỉ được kiến tạo từ trí tưởng tượng và “cái tôi” nhỏ bé của người nghệ sĩ, thơ ca chỉ là những bông hoa làm bằng “vỏ bào”(Pauxtôpxki). Nhà thơ phải nhặt những hạt “bụi quí” trong cuộc đời mênh mông vô tận để làm nên những “bông hồng vàng” quí giá, đem lại niềm vui và cái đẹp cho tâm hồn người đọc thơ, hiểu thơ và yêu thơ, theo cách diễn đạt của Pauxtôpxki.
Trở lại câu nói của nhà phê bình Bêlinxki, ta thấy đó không phải là cái nhìn phiến diện. “Thơ trước hết là cuộc đời” nhưng cuộc đời chưa phải là tất cả. Bêlinxki rời phím nhấn “cuộc đời” ấn tay vào phím cạnh bên “nghệ thuật”. Như vậy, Bêlinxki đã không phủ nhận vai trò quan trọng của yếu tố làm nên thi ca này. Thiếu nghệ thuật, thơ chỉ còn là hòn ngọc thô không mài không giũa, không thể khơi dậy trong trái tim con người những rung động sâu xa. Thơ có thể ví như cánh diều, cuộc đời tạo cho cánh diều là hình hài sắc vóc còn nghệ thuật là làn gió nâng cánh diều bay bổng trên bầu trời cao rộng, nâng cảm xúc đến mức thăng hoa. Ta yêu “Truyện Kiều” đâu chỉ vì “đoạn trường tân thanh” xé ruột cất lên từ quãng đời mười lăm năm lưu lạc truân chuyên của cánh hoa Thuý Kiều tài sắc. Người Việt Nam yêu “Truyện Kiều” vì những “ngôn ngữ gấm hoa” giàu sức biểu cảm, vì âm hưởng ca dao dịu dàng, man mác trong lục bát thân thương:
"Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng"
Cảnh mùa thu long lanh, mĩ lệ đọng đầy chất thơ ấy có lẽ còn sống mãi trong lòng người dân đất Việt đến nhiều thế kỉ mai sau. Thơ cất lên từ biển cuộc đời và bay cao từ nguồn gió nghệ thuật. Nghệ thuật làm cho thơ trở nên đẹp đẽ, gieo vào lòng người đọc những cảm xúc thẩm mĩ tuyệt vời. Một nhà thơ tài năng phải là một người thợ lặn lành nghề lặn sâu vào đại dương cuộc sống, không phải để nhặt nhạnh mảnh san hô tầm thường mà để tìm những viên ngọc trai lấp lánh, những “khối tình con” kết từ máu huyết của loài trai nhẫn nại, cần cù (một ý của Nguyễn Tuân trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà”). Nhà thơ chỉ cần rung động trước lớp sóng của cuộc đời thôi ư ? Chưa đủ, như thế anh chỉ có cái tâm mà chưa có cái tài để xứng đáng mang danh hiệu “thi sĩ”.
Để viết nên những vần thơ có sức lay động thực sự, có khả năng vượt qua mọi định luật băng hoại của thời gian không thừa nhận cái chết (Satưkhốp Sêđrin), nhà thơ phải vừa có tài năng và tâm huyết, vừa đắm mình vào cuộc đời, vừa không ngừng tìm tòi khám phá, “khơi những nguồn chưa ai khơi”. Một nhà thơ nước ngoài đã từng thấm thía giá trị cao quí của lao động thi ca:
“Phí tổn ngàn cân quặng chữ
Để thu về một chữ mà thôi
Những chữ ấy làm cho rung động
Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài”
Nhà thơ phải “trả giá cắt cổ” cho ngôn ngữ thơ ca nếu muốn những vần thơ ấy trở nên bất tử. Lao động nghệ thuật là hình thức lao động của trí óc và trái tim. Phải có những rung động mãnh liệt trước cuộc đời và những khám phá, sáng tạo độc đáo ta mới có thơ ca chân chính.
Viết về mùa thu, thi sĩ từ cổ chí kim đã dùng bao hình ảnh tuyệt đẹp, từ “Ngô đồng nhất diệp lạc” đến “cúc vàng lưng giậu”, từ “non phơi bóng vàng đến” “trăng sáng như gương”… Thế mà cậu bé Trần Đăng Khoa lại cảm nhận mùa thu theo một cách riêng qua hình ảnh hoa cau giản dị:
“Nửa đêm nghe ếch học bài
Lưa thưa vài hạt mưa ngoài hàng cây
Nghe trời trở gió heo may
Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau”
(Hoa cau)
Những cánh hoa cau trắng muốt mỏng manh rụng đầy vại nước làng quê phải chăng là “hoa cau cuộc đời” hoá thành “hoa cau nghệ thuật” trong thế giới thơ phong phú đầy tưởng tượng bay bổng của nhà thơ tí hon dễ yêu, dễ mến ? Hoa cau thoang thoảng thơm mãi con đường thi ca trải rộng, quấn quýt êm đềm trong trái tim những người yêu thơ…
“Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”. Ý kiến của Bêlinxki thật xúc động và đầy giá trị ! đến với thơ nghĩa là ta đến với cuộc đời qua lăng kính nghệ thuật của nhà thơ. Thơ ca khơi dậy trong lòng ta lớp lớp những đợt sóng cuộn trào và muôn vàn cung bậc tình cảm: yêu thương, căm giận xót xa, nghẹn ngào, xao xuyến, bâng khuâng,… bởi thơ là đời, thơ là hoa nảy nở từ mảnh đất cuộc đời dào dạt nhựa sống. Thơ không phải là thứ tôn giáo cao siêu huyền bí, cũng không phải là những ghi chép tủn mủn, vặt vãnh vô giá trị về cuộc đời, về con người quanh ta. Thí sĩ không thể làm nên thơ nếu cửa lòng đóng khép, nếu không “mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời” (Nam Cao). Cuộc sống cuộn xoay không một giây dừng lại, thơ ca cũng không ngừng nảy nở sinh sôi, cống hiến cho đời những đoá hoa đẹp nhất.
"Thi sĩ ơi, anh hãy sáng tác bằng cả nhiệt huyết và tình yêu cháy bỏng của trái tim mình.
Cuộc sống đánh vào thơ trăm ngàn lớp sóng
Chớ ngồi trong phòng ăn bọt bể anh ơi !"
(Chế Lan Viên)
Bắt nguồn từ cuộc sống, qua lăng kính cảm nhận của thi nhân, thơ ca lại trở về với đời, tạo dòng chảy trong trái tim người thưởng thức. Thư ca mang đến cho con người những gì ? Thơ ca phải chăng chỉ để giết thời gian hoặc làm cho người ta bị mê hoặc? Thơ ca chân chính không phải là một loại hình nghệ thuật mang tính chất giải trí đơn thuần. Song hành cùng người bạn cốt văn chương, thơ ca mở ra những ngả đường hướng triệu triệu con người tới cõi chân- thiện – mĩ. Thơ ca đích thực phải là thơ ca khơi dậy những rung động sâu sắc trong tâm hồn con người, làm phong phú thế giới cảm xúc của con người, khiến con người vươn tới ước mơ sống tốt hơn, đẹp hơn. Nhà thơ Thanh Hải đến phút cuối đời trên giường bệnh vẫn khát khao cống hiến cho đời những giọt xuân trong trẻo:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến.
(Mùa xuân nho nhỏ)
Làm sao lòng ta không rạo rực trước sức sống mãnh liệt, dạt dào của một nhà thơ yêu đời, yêu người tha thiết đến nhường ấy! Nhà thơ đã vượt qua chính mình để làm một nốt trầm lặng lẽ. Mình có ích giữa muôn vàn âm thanh sôi động của cuộc đời muôn màu, muôn vẻ này chưa ?
Thơ ca khơi dậy trong con người những cảm xúc thẩm mĩ tuyệt đẹp, “thanh lọc” tâm hồn con người, chắp cánh cho con người bay tới những ước mơ, khát vọng. Trên cõi hành trình dài đằng đẵng đầy chông gai của đời người, có những lúc dừng chân ngơi nghỉ , ta không thể không nghĩ về cuộc đời, về những điều tốt đẹp. Bao giờ ta còn đồng cảm với tấm lòng thi nhân, khi ấy thơ ca vẫn còn tồn tại sức sống bất diệt, vĩnh cửu.
Thơ là cuộc đời cho nên thơ không chỉ khơi dậy những cảm xúc êm đềm, dịu dàng, êm ái; không chỉ làm lòng ta quặn đau trước những nỗi “đoạn trường”. Thơ ca đồng thời phải mang chức năng “thức tỉnh lương tri đang ngủ” (Eptusencô), phải khiến con người biết căm giận và biết ước mơ. Có những lúc thơ ca biến thành vũ khí độc đáo giúp con người đấu tranh với cái ác để bảo vệ chính nghĩa và cái đẹp của cuộc đời. đấy là giây phút Hồ Chí Minh gửi gắm niềm tin mãnh liệt vào những vần thơ mà xích xiềng không khoá nổi:
"Ví đâu có cảnh đông tàn
Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân
Nghĩ mình trong bước gian truân
Tai ươn rèn luyện tinh thần thêm hăng."
Ngược dòng thời gian, ta còn thấy đó là giây phút Lí Thường Kiệt cất tiếng sang sảng đọc tuyên ngôn Namquốc sơn hà khẳng định chủ quyền độc lập của non sông. Giá trị của thơ ca mới cao cả đến nhường nào!
Trở về với hiện tại thơ ca hôm nay, ta bắt gặp những dáng hình thi sĩ trên những ngả đường thơ trải rộng, đang từng bước khám phá, tìm tòi và sáng tạo, đem lại nguồn mới cho thi ca. Phải chăng họ đang đặt chân lên hành trình đến với “Mảnh đất nở hoa dâng tặng người muốn hái” ?
Thi sĩ ơi, dù phải theo ngả nào, có lẽ anh cũng nên tâm niệm: “Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”.
Ý kiến về thơ của nhà phê bình văn học Nga V.Biêlinxki quả thật đáng để chúng ta suy nghĩ và nghiền ngẫm. Thơ ca đâu phải là quả bóng bay xa vời vợi nằm ngoài tầm bắt. Thơ ca luôn nồng nàn, ấm áp hơi thở cuộc đời và mang dấu ấn sáng tạo nghệ thuật của người cầm bút. Thơ là dòng sông soi bóng cuộc đời, len vào tâm hồn con người những mạch nguồn cảm xúc dạt dào chảy mãi không thôi. Nhà thơ phải “yêu cuộc đời” và trân trọng “nghệ thuật” mới vun đắp những vần thơ nở ra cánh hoa thơm ngát tô điểm cho cuộc đời và con người.
Ngày xưa, tôi yêu văn thơ Anđecxen (Andersen) bởi nơi ấy bao giờ cũng rung rinh đoá hồng bạch toả hương ngào ngạt bên những nàng công chúa xinh tươi. Nay tôi lại càng say mê những dòng văn đầy nhân ái kia bởi tôi còn cảm nhận được hương vị của cuộc đời, “chất người” ủ kín bên trong.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 9 - Là năm cuối ở cấp trung học cơ sở, sắp phải bước vào một kì thi căng thẳng và sắp chia tay bạn bè, thầy cô và cả kì vọng của phụ huynh ngày càng lớn mang tên "Lên cấp 3". Thật là áp lực nhưng các em hãy cứ tự tin vào bản thân là sẻ vượt qua nhé!
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK