Trang chủ Ngữ văn Lớp 11 Cho mình bài văn mẫu So sánh cái tôi trong...

Cho mình bài văn mẫu So sánh cái tôi trong bài thơ Vội vàng và bài thơ Tràng giang, có thể chép mạng nhưng đúng cho mình nha - câu hỏi 389703

Câu hỏi :

Cho mình bài văn mẫu So sánh cái tôi trong bài thơ Vội vàng và bài thơ Tràng giang, có thể chép mạng nhưng đúng cho mình nha

Lời giải 1 :

I, Dàn ý tham khảo

1, Mở bài

- Dẫn dắt vấn đề: So sánh cái tôi trong bài thơ "Vội vàng" và "Tràng giang"

- Nêu vấn đề

2, Thân bài

- Giới thiệu đôi nét về tác giả Xuân Diệu và Huy Cận

+ Là nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam

+ Phong cách sáng tác độc đáo, riêng biệt, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc

+ Tác phẩm tiêu biểu: Đây mùa thu tới,...

- Giải thích "cái tôi" là gì?

+ Đặc điểm riêng biệt, độc đáo của từng nhà văn, nhà thơ

+ Không bị trùng lặp với bất kì nhà văn, nhà thơ nào

=> Yếu tố quyết định làm nên sự riêng biệt của từng tác phẩm

- Chứng minh qua hai tác phẩm

+ Vội vàng: Tình yêu cuộc sống say mê, tha thiết của nhà thơ (4 câu thơ đầu), nỗi băn khoăn trước thời gian và cuộc đời (6 câu thơ tiếp theo), khát vọng sống, khát vọng yêu đương cuồng nhiệt hối hả (các câu còn lại)
=> Bài thơ thể hiện tư tưởng nhân sinh quan tích cực của tác giả, lòng yêu cuộc sống, yêu đời, yêu tuổi trẻ một cách mãnh liệt, cuồng nhiệt. Hơn thế nữa, nó còn tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Diệu: Cảm nhận thiên nhiên tinh tế cùng việc vận dụng linh hoạt các biện pháp tu từ như nhân hóa, điệp ngữ, giọng điệu, ngôn ngữ biến đổi liên tục.

+ Tràng giang: bức tranh thiên nhiên cùng tâm trạng của nhân vật trữ tình

=> Bài thơ thể hiện nỗi bâng khuâng trước thiên nhiên rộng lớn của người lữ khách và bài thơ cũng là nỗi buồn thời đại, bộc lộ tình yêu quê hương đất nước của Huy Cận.
- Bình luận: Cái tôi của hai nhà văn vừa có điểm giống nhau và khác nhau

+ Giống nhau: đều hiện tình yêu thiên nhiên, đất nước

+ Khác nhau: Vội vàng: tình yêu tuổi trẻ, Tràng giang: tâm trạng, ưu tư trước thời cuộc

- Liên hệ

3, Kết bài

- Tình cảm của em dành cho hai tác giả

- Những quan điểm của em về "cái tôi" trong văn học

II, Bài văn tham khảo

Hai nhà thơ Xuân Diệu và Huy Cận đều là những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam. Hai ông đều có những "cái tôi" riêng biệt góp phần làm nên sự thành công của tác phẩm. Điều này được thể hiện rõ qua hai bài thơ "Tràng giang" và "Vội vàng".

ràng Giang”  là một ngọn lửa rực rỡ trong tập thơ “ Lửa thiêng” – tập thơ đầu tay của Huy Cận. Bài thơ được sáng tác vào một buổi chiều tháng 9 năm 1939, một buổi chiều buồn khi ông đạp xe trên đê sông Hồng vào mùa nước lũ. Trước dòng sông hùng vĩ và hoang vắng mùa lũ, ông mở rộng lòng mình để tâm hồn trôi nổi theo dòng nước. Cái hữu hạn của con người được đặt vào không gian bao la, “Tràng Giang” hiện lên với một nỗi buồn man mác. Bài thơ thể hiện tâm trạng một  “cái tôi trữ tình” sầu đượm, cô đơn trước thiên nhiên hùng vĩ cùng những triết lí sâu xa và lòng yêu nước thầm kín.

Nhìn vào bài thơ trước hết ta thấy ngay tựa đê “Tràng Giang” vô cùng nổi bật. “Tràng Giang” nghĩa là “sông dài”. Người ta từng đi tìm hiểu về con sông trong bài thơ này của Huy Cận nhưng rồi chợt nhận ra điều này là vô nghĩa. Huy Cận không nhắc về một con sông cụ thể nào. Nó có thể là con sông Hồng mùa nước lũ khi ông đi ngang qua và viết bài thơ, nhưng cũng có thể con sông này khởi nguồn từ xa hơn, là con sông quê ông như Ngàn Sâu, Ngàn Phố, Sông Lam, Sông La hay  là cả sông Hương nữa. Những con sông luôn nằm trong tiềm thức và luôn gắn bó với ông trong nỗi nhớ quê nhà. “Tràng Giang” không phải là tên sông, nó gợi lên cho người đọc một con sông u hoài trong kỉ niệm của riêng mình. Và đối với bài thơ, nó đúc kết một cách ngắn gọn nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.

Những câu thơ đầu tiên đưa ta đến với những ấn tượng về cảnh sông nước bao la trong một không gian mênh mông, bát ngát:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song”

Sự mênh mang của không gian được gợi ra qua từng lớp từng lớp sóng. Sóng gợn nhấp nhô trên dòng sông dài khiến nỗi buồn chất chồng “điệp điệp”.  Từ “ điệp điệp” vang lên khiên lòng người trĩu nặng, tạo lên một âm điệu trầm buồn còn mãi đọng lại dư âm. Trước không gian rộng lớn của dòng sông ta bắt gặp hình ảnh một con thuyền xa xăm xuôi mái theo những dòng nước song song rong ruổi về cuối chân trời. Cái nhỏ nhoi của con thuyền đơn độc càng làm nổi bật hơn cái rộng dài tưởng như mênh mang của dòng sông. Hai câu thơ với nghệ thuật đặc tả và khả năng khơi gợi đã làm nổi bật lên cái tôi trữ tình của tác giả: một tâm hồn man mác cô đơn.

Hai câu thơ tiếp

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng”

“Thuyền về” khiền mặt sông trở lên heo hút, “nước lại sầu trăm ngả”. “Thuyền” và “nước” di chuyển trái chiều nhau như một sự chia ly xa cách. Con thuyền đơn độc, lẻ loi chỉ xuất hiện một chút trong không gian rợn ngợp rồi lại rời đi để lại nỗi buồn ngổn ngang, trăm mối tơ vò. “Nước” và “thuyền” chỉ gợi lên nỗi “sầu trăm ngả” nhưng “củi một cành khô” lại cho ta cảm giác chênh chao, heo hút đến rợn người. Hình ảnh “củi” đã gầy guộc mong manh, ở đây “củi một cành khô”  lại càng thêm nhỏ bé, như “lạc mấy dòng” vào vô vọng trong những con sóng nối tiếp đến vô cùng. Cái tôi trữ tình ở đây dường như trở lên mong manh, đơn bạc giữa những sóng gió cuộc đời. Những hi vọng xa xăm, những nỗi buồn rồi những băn khoăn về lí tưởng. Chỉ bằng những hình ảnh đơn sơ nhưng câu thơ đã khơi gợi lên thân phận cô đơn của cả một kiếp người.

Đến khổ thơ thứ hai, bức tranh tràng giang mở ra với một nỗi buồn sâu lắng:

“Lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài trời rộng bến cô liêu”

Khổ thơ có thêm cảnh, thêm người nhưng nỗi buồn dường như không vơi đi mà còn lặng lẽ hơn. Nỗi buồn được gợi lên từ mặt nước, “lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu”. “Cồn cỏ” xuất hiện nhưng lại “lơ thơ” với “đìu hiu” tạo nên khung cảnh cô liêu, tịch mịch đầy tâm trạng. Làng xóm hiện ra nhưng chỉ với âm thanh xa vời “đâu tiếng làng xa”. “Chợ chiều” thường gắn với hình ảnh hiu hắt khi con người đã ra về hết, chỉ còn lại hàng quán với mái lá vắng tanh. Cảnh vật, làng xóm dường như càng làm cái tôi trữ tình cô đơn hơn, nổi bật lên khát khao trong tâm hồn của một con người mong muốn sẻ chia. Rồi nỗi buồn như lan toả hết không gian của bến bãi, mặt nước, bầu trời. “Nắng xuống” – “trời lên” hai hình ảnh vận động trái ngược làm cho không gian thêm chiều sâu.  Cụm từ “sâu chót vót” chuyển đổi cảm giác khiến ta như rợn ngợp trước đất trời. Cảm xúc lướt dần để rồi đọng lại ở “bến cô liêu” như lột tả hết những cô đơn, hoang vắng, trống trải trong hồn người.

Tiếp theo:

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Những cánh bèo trôi dạt dường như khéo léo ẩn dụ cho thân phận nổi trôi của một kiếp người bế tắc. Những cánh bèo này không chỉ có một mà “hàng nối hàng” , cảm giác như miên man không dứt. Hai câu thơ sau càng cho ta thấy thêm sự vô vọng, “không một chuyến đò ngang”, “không cầu”, chẳng có một “niềm thân mật” nào để bám víu. Khoảnh khắc mà ánh sáng xanh của bờ bãi và nét vàng mờ nhạt xuất hiện là lúc cai tôi trữ tình chìm sâu trong nỗi buồn, những suy nghĩ mông lung.

Khép lại bài bài thơ là những nét thiên nhiên nhiên và tâm sự con người:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

“Mây cao” và “núi bạc” xuất hiện gợi lên khung cảnh thiên nhiên tráng lệ  nhưng vẫn mang đầy dáng vẻ cô đơn trong bóng chiều hiu hắt. Giữa trời đất bao la chỉ có một cánh chim nhỏ chao nghiêng. Tất cả như cô đơn, lẻ loi đến tội nghiệp và con người như chìm ngập giữa trời đất bao la. Cảm giác chênh chao của cán chim lẻ bóng lại xuất hiện để nổi bật lên trong nỗi sầu là tình cảm yêu quê hương đất nước đến da diết của cái tôi trữ tình. “Lòng quê dợn dợn vời con nước”, hai chữ “dợn dợn” thật đắt, nó thể hiện được cái dợn dợn trong tâm cảnh cũng như trong tâm hồn. Câu thơ cuối gợi nhớ tới một tứ thơ Đường: “Yên ba giang thượng sử nhân sầu”. Nhưng ở Huy Cận, ông không cần phải có “khói hoàng hôn” cũng vẫn “nhớ nhà” bởi nỗi nhớ này, nỗi buồn này dường như luôn thường trực trong tâm khảm.

“Tràng Giang” bằng âm điệu trầm buồn cùng cảm xúc tinh tế đã làm nổi bật lên “cái tôi trữ tình” với một trái tim cô đơn nhưng luôn đau đau tình yêu với quê hương đất nước. Theo “Tràng Giang” ta không chỉ cảm thông  với nỗi niềm của thi nhân mà còn quý trọng một tài hoa, một tâm hồn đáng trân trọng của Huy Cận.

Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới” đã mang một luồng gió mới đến văn học Việt Nam – một cái tôi mãnh liệt táo bạo đầy mê say. Trong đó, cái tôi của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng mang một phong cách rất khác biệt.

Cái tôi của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng trước hết là một cái tôi táo bạo, mãnh liệt. Điều ấy được thể hiện qua ước muốn táo bạo và có phần vô lý trong bốn dòng thơ ngũ ngôn.

“Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi”

Trong lúc ta phiêu bạt chốn bồng lai cùng Tản Đà, chìm đắm trong thế giới trăng đầy  mộng tưởng cùng Hàn Mặc Tử thì Xuân Diệu lại là người đã “đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”. Chính tình yêu trần thế đã níu kéo ông với cuộc đời thay vì lựa chọn thoát tục xa rời cuộc sống như những nhà thơ khác.

Phân tích cái tôi của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng, ta nhận thấy với cuộc đời, ông có một khát khao cháy bỏng mãnh liệt. Điệp ngữ “tôi muốn” kết hợp hài hòa cùng thể thơ ngũ ngôn tạo ra một tiết tấu nhanh mạnh, dứt khoát đã góp phần thể hiện khát khao thiết tha, mãnh liệt của thi sĩ. Nhịp thơ nhanh như tô đậm hơn mức độ mãnh liệt, nồng nàn của ước vọng trong tâm hồn thi sĩ.

Đó là ước muốn “tắt nắng”, “buộc gió” tưởng chừng vô lý ấy nhưng lại chứa chan một tinh thần khát khao mãnh liệt. Một ước muốn táo bạo bởi đó là ước muốn can dự vào quy luật của tạo hóa để bất tử hóa cái đẹp. Bởi cái đẹp ngàn đời vốn mỏng manh trước dòng chảy vô tình của thời gian.

Phân tích cái tôi của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng, người đọc cũng nhận ra khát khao táo bạo nhưng không phải ngông cuồng, cũng không phải một phút bồng bột mong muốn thách thức tự nhiên. Bởi ông muốn “tắt nắng”, “buộc gió” là để “màu đừng nhạt mất”, để “hương đừng bay đi”. Bởi nắng sẽ làm phai màu cuộc sống, gió sẽ làm nhạt đi hương vị cuộc đời. Vì thế, Xuân Diệu như muốn níu giữ thời gian để mọi vật vẫn mãi giữ được sự xuân sắc của mình dù đó là điều không thể. Có thể nói, đây chính là một khát khao, một tình yêu cuộc sống say đắm của nhà thơ.

Thảo luận

Lời giải 2 :

ề bài thơ Vội vàng - Xuân Diệu: Tình yêu cuộc sống say mê, tha thiết của nhà thơ.

- 4 câu mở đầu: Thể hiện cái tôi khát vọng muốn núi héo làm ngưng sự vận động của thời gian, vũ trụ để giữ mãi hương sắc của mùa xuân, tuổi trẻ.Tôi muốn “Tắt nắng” “buộc gió”--> Điệp từ, câu ngắn trùng lặp cấu trúc

=> Lấy cái tôi chủ quan để thay đổi quy luật tự nhiên. Quả là ý tưởng táo bạo, xuất phát từ một trái tim yêu cuộc sống đến tha thiết say mê.

- Nhà thơ vui sướng, ngây ngất trước hương sắc của cuộc đời đầy quyến rũ, sự phong phú và giàu có của thiên nhiên, cuộc sống, tuổi trẻ.

+ Cảnh vật hiện lên dưới con mắt của nhà thơ thật phong phú, rực rỡ, tươi đẹp và đầy nhựa sống. Tuần tháng mật Hoa đồng nội Này đây Lá cành tơ yến anh, khúc tình si ánh sáng Thần vui hằng gõ cửa

--> Điệp từ, nhân hoá

+ Cảm giác hạnh phúc được nhà thơ thể hiện qua câu thơ táo bạo, so sánh độc đáo “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”

=> Xuân Diệu đã vật chất hoá thời gian, câu thơ không chỉ gợi hình thể mà còn gợi cả hương thơm vị ngọt khiến người ta đắm say, ngất ngây.

2. Nỗi băn khoăn trước thời gian và cuộc đời

- Niềm vui sướng như khựng lại khi Xuân Diệu nhận ra giới hạn của thời gian: “Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nữa” Nhà thơ cảm thấy buồn bã, lo sợ, tiếc nối khi ý thức được sự trôi chảy xủa thời gian:

"Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

Và Xuân hết nghĩa là tôi cũng mất

Lòng tôi rộng nhưng lượng đời cứ chật...

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại"

=> Với điệp từ “Xuân” kết hợp với những cặp từ đối lập tạo thành một nỗi day dứt một niềm tiếc nối khôn nguôi.

- Xuân Diệu biết mùa xuân rồi sẽ tàn phai, tuổi trẻ rồi cũng trôi qua. Cho nên trong cái tươi đẹp mơn mớn của nó tác giả đã nhìn thấy sự tàn úa.

+ Điệp từ “Nghĩa là” vừa như muốn giải thích nhưng ẩn sau đó là một nỗi lo lắng, hốt hoảng trước sự trôi chảy của thời gian.

+ Đối lập: làm tăng sự lo lắng khi nhận thấy cái hữu hạn của đời người và cái vô hạn của thời gian.

+ Cảnh vật như lao nhanh tới sự tàn phá, héo úa và chia phôi. Tâm trạng của nhà thơ có phần nào đó rơi vào sự tuyệt vọng.“Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…”

3. Khát vọng sống, khát vọng yêu đương cuồng nhiệt hối hả.

- Đang chìm đắm trong đau buồn, tuyệt vọng nhà thơ chợt nhận ra thời gian của tuổi xuân vẫn còn nên lên tiếng giục giã:“mau đi thôi! Mùa chưa ngã chiều hôm”

- Tác giả vội vàng, gấp gáp muốn tận hưởng tất cả cuộc sống, tình yêu, tuổi trẻ, hạnh phúc.Ta muốn : ôm, riết, say, thâu, cắn vào: non nước, cỏ cây, gió mây, sự sống, xuân hồng .

+ Với nhịp thơ dồn dập, ngắt nhịp linh hoạt, câu mệnh lệnh trực tiếp biểu cảm khát vọng sôi nổi của trái tim nhà thơ.

+ Hình ảnh phong phú tượng trưng cho thanh sắc của thời gian: sự sống mơn mỡn, mây đưa gió lượng, cánh bướm tình yêu, mùi thơm ánh sáng…

+ Tình yêu nống nàn, khoẻ khoắn cao độ được biểu hiện bằng nhiều động từ liên tiếp: ôm, riết, say, thâu. Nhiều tính từ: chuếnh choáng, no nê, đã đầy…

+ Nhà thơ cảm nhận niềm hạnh phúc bằng tất cả các giác quan, trạng thái say mê, ngây ngất.

+ Từ ngữ, hình ảnh táo bạo ở câu cuối cho thấy Xuân Diệu rất say mê cuộc sống, khát khao và muốn tận hưởng tình yêu, hạnh phúc ngay trên chính cuộc đời này.

- Bài thơ thể hiện tư tưởng nhân sinh quan tích cực của tác giả, lòng yêu cuộc sống, yêu đời, yêu tuổi trẻ một cách mãnh liệt, cuồng nhiệt.

- Bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Diệu: Cảm nhận thiên nhiên tinh tế, sử dụng điệp ngữ so sánh độc đáo, hình ảnh thơ khoẻ khoắn, nồng nàng, từ ngữ gợi cảm, táo bạo.

Về bài thơ Tràng giang - Huy Cận

1. Nhan đề và lời đề từ - Nhan đề: 

+ Ban đầu có tên “chiều bên sông” gắn với bút pháp tả thực, sau đổi thành “Tràng giang”.

+ Tràng giang: âm hưởng từ hán-Việt gợi không khí cổ kính và đầy tính khái quát: không chỉ gợi sự mênh mông bát ngát của không gian mà còn gợi nỗi buồn mênh mang rợn ngợp.

- Lời đề từ: Thâu tóm khá chính xác và tinh tế cả tình (bâng khuâng, thương nhớ) và cảnh (trời rộng, sông dài) của bài thơ.

2. Bức tranh thiên nhiên

- Không gian:mênh mang, bao la, rộng lớn “Trời rộng sông dài” .

- Cảnh vật: hiu quạnh, hoang vắng, đơn lẻ, hiu hắt buồn:

+ Hình ảnh mang đậm màu sắc cổ điển: sóng, con thuyền, cồn nhỏ đìu hiu, bến cô liêu…Mây đùn núi bạc, cánh chim nghiêng Đây là những thi liệu quen thuộc trong thơ đường, tống. Những hình ảnh ấy gợi lên một sự vắng vẽ, lặng lẽ, buồn

+ Thế nhưng bức tranh "Tràng giang" vẫn gần gũi, thân thuộc với mọi tấm lòng Việt Nam bởi: “cành củi khô”, “tiếng làng xa vẫn chợ chiều”Đó là những âm thanh , hình ảnh của cuộc sống con người của miền quê Việt Nam

- Sự đối lập giữa bao la mênh mông của trời nước với vạn vật nhỏ nhoi tạo nên cảm giác lạc lỏng con người cảm thấy cô đơn, bơ vơ. Bao trùm bài thơ là một giọng điệu buồn. Dường như nỗi buồn đã thấm sâu vào cảnh vật.

3. Tâm trạng nhân vật trữ tình (nỗi lòng của nhà thơ)

- Nhà thơ cảm thấy cô đơn nhỏ bé trước mênh mông sông nước đất trời, không một niềm hi vọng của sự gần gũi, thân mật: “Đâu tiếng làng xa vẫn chợ chiều”, “Bến cô liêu”; “không cầu”;“không chuyến đò” - Những hình ảnh ấy gợi lên sự cô đơn lẽ loi của con người trước vũ trụ bao la. 

- Nhìn cảnh vật trôi trên dòng sông nhà thơ cảm thấy thấm thía sâu sắc hơn sự trôi nổi của kiếp người.

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả 

Củi một cành khô lạc mấy dòng

“Bèo giạt về đâu hàng nối hàng”

Nỗi buồn của thi nhân chính là nỗi buồn mang tính thời đại.

- Thời đại thơ mới - thời đại con người mất nước, mất tự do, cuộc sống chỉ là hư ảo, mộng mị, sống không có lí tưởng, không tương lai hạnh phúc. Đây có thể coi là “nỗi buồn đẹp”: “Tràng giang đã dọn đường cho lòng yêu giang san đất nước” (Xuân Diệu).

4. Những đặc sắc nghệ thuật

Cảnh vật vừa mang nét cổ kính thường gặp trong thơ đường, vừa gần gũi thân thuộc đối với con người Việt Nam.

+ Những hình ảnh mang nét đẹp cổ kính:. Nhan đề: 2 âm Hán - Việt. Câu thơ: “Trên sông khói sóng cho buồn…gợi nhớ câu thơ Thôi Hiệu:“Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Phương thức biểu đạt của thơ Đường: Vô hạn thiên nhiên đối lập với hữu hạn của con người, Cái nhất thời đối lập với cái vĩnh hằng

+ Thế giới bài thơ là thế giới thân thuộc của đồng quê, của non sông đất nước Việt Nam.

5. Chủ đề Bài thơ thể hiện nỗi bâng khuâng trước cảnh trời rộng sông dài của người lữ khách và bài thơ cũng là nỗi buồn thời đại, bộc lộ tình yêu quê hương đất nước của Huy Cận.

Nói tóm lại là: Rõ ràng ai cũng nhận thấy rằng bài thơ vội vàng có nội dung chủ đạo là: lời thúc giục sống nhanh, sống để tận hưởng hết những thi vị của cuộc đời vì. Đó là tấm lòng yêu cuộc sống, yêu đời tha thiết của tác giả. Trong từng câu thơ của ông, ta bắt gặp gặp được sự chuyển dời, sự trôi qua của thời gian.....dễ dàng là qua các từng ngữ chỉ thời điểm ví dụ như tháng giêng, tháng năm, mùa xuân.....v...v ..và hơn nữa là ở hình ảnh thơ....."Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?" ....v...v..

Từ đó, tác giả đã đưa ra quan niệm sống rất tích cực. Phân tích ở những đoạn nói về thời gian rõ nét ví dụ như:Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,..v...v....Tóm lại bạn hãy tìm những câu thơ có sự chuyển dời về thời gian để làm dẫn chứng cho bài luận, cả mạch thơ và đoạn thơ có một sự thống nhất sau đó đưa ra quan niệm sống đúng đắn mà tác giả muốn gửi gắm...v...v 

Còn về bài thơ tràng giang có lẽ ta thấy ngay quan điểm: "Huy Cận là nhà thơ của không gian" là rất đúng đắn. Bởi vì ngay ở tiêu đề của tác phẩm.......Tràng giang đã gợi ra một không gian mênh mông rộng lớn. " Tràng" là đọc chệch từ "trường" nhưng tại sao tác giả lại dùng từ "tràng" bởi vì dùng âm vần "ang" sẽ tạo được cảm giác ngân dài, mênh mang, vang vọng, ko gian lại càng mở ra rộng lớn hơn....Còn ở các câu thơ thì tác giả đưa ra những hình ảnh, những điểm nhìn ko gian từ bao quát đến chi tiết.......từ lớn đến nhỏ, hình ảnh vạn vật mở ra theo nhiều chiều, trên dưới, dọc, ngang. Nhờ đó mà người đọc, người nghe càng thấy không gian thêm rộng lớn.

Từ những phân tích riêng lẻ của hai tác phẩm trên, các em học sinh có thể so sánh cái tôi trong Vội vàng và Tràng giang có những điểm giống nhau nhưng lại vẫn rất khác biệt, vẫn rất riêng: Cảm nhận thiên nhiên, tình yêu quê hương, tình yêu tuổi trẻ, tính thời cuộc của mỗi tâm tư... 

Không chỉ so sánh cái tôi trong Vội vàng và Tràng giang, nhiều đề bài còn liên hệ cả 3 tác phẩm: vội vàng, tràng giang, đây thôn vĩ dạ bởi 3 tác phẩm đại diện cho 3 phong cách khác nhau trong cùng một thời kì đất nước còn đang lầm than, vất vả.



Bạn có biết?

Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.

Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

Tâm sự 11

Lớp 11 - Năm thứ hai ở cấp trung học phổ thông, gần đến năm cuối cấp nên học tập là nhiệm vụ quan trọng nhất. Nghe nhiều đến định hướng sau này rồi học đại học. Ôi nhiều lúc thật là sợ, hoang mang nhưng các em hãy tự tin và tìm dần điều mà mình muốn là trong tương lai nhé!

Nguồn : ADMIN :))

Liên hệ hợp tác hoặc quảng cáo: gmail

Điều khoản dịch vụ

Copyright © 2021 HOCTAPSGK