I, Dàn ý tham khảo
A. Mở bài
- Giới thiệu tác giả
+ Xuân Diệu
+ Huy Cận
+ Hàn Mặc Tử
=> Đều là những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam với phong cách sáng tác đặc sắc, ấn tượng.
- Giới thiệu tác phẩm:
+ Vội vàng
+ Tràng Giang
+ Đây thôn Vĩ Dạ
=> Xuất xứ, nội dung và nghệ thuật
- Giới thiệu chung về vẻ đẹp gợi cảm của thiên nhiên qua ba bài thơ.
B. Thân bài
1. Vội vàng
- Bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc.
- Khung cảnh ấy được Xuân Diệu miêu tả bằng những câu thơ bay bổng, rất sinh động.
+ Khung cảnh non nước hiện lên trong thơ đẹp lung linh như một “thiên đường trên mặt đất”.
+ Hình ảnh “ong bướm”, “hoa của đồng nội”, “lá của cành tơ”, “yến anh”,… qua con mắt của người nghệ sĩ tài hoa đã hiện lên thật đáng yêu, thật say đắm lòng người.
+ Cuộc sống như bữa tiệc đang chào đón cùng những hương vị ngọt ngào, lãng mạng của “tuần tháng mật”, hương thơm trong lành của “đồng nội xanh rì” , âm thanh lôi cuốn trầm bổng như “khúc tình si”.
2. Tràng giang
- Trước hết, chúng ta cùng Huy Cận trải lòng mình qua bức tranh thiên nhiên Tràng giang với nét đẹp cổ điển, đầy thi vị:
"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp...."
- Bức tranh tâm cảnh ẩn chứa đằng sau bức tranh ngoại cảnh, nỗi buồn của lòng người như lan tỏa sang cả thiên nhiên.
3. Đây thôn Vĩ Dạ
"Đây Thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử một bức tranh phong thủy hữu tình chứa đựng những tâm sự, nỗi mong nhớ thầm kín về một mối tình gắn liền cùng mảnh đất Vĩ Dạ thân thương.
C. Kết bài
- Khẳng định lại ý kiến trên
- Tình cảm của em dành cho bài thơ
II, Bài văn tham khảo
Nhận xét về thiên nhiên trong nhiều bài thơ mới (1932-1945), có ý kiến cho rằng nó đều mang vẻ đẹp gợi cảm. Và có lẽ, điều này được thể hiện trọn vẹn qua ba bài thơ "Vội vàng", "Tràng giang" và "Đây thôn Vĩ Dạ".
Nhắc đến Huy Cận, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử là ta nhắc đến ba hồn thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới những năm 30 của thế kỉ XX. Họ đều là những thi sĩ có cách nhìn thiên nhiên rất độc đáo, mới mẻ, khác biệt và một trái tim nhạy cảm, rung động mãnh liệt trước vẻ đẹp, vẻ gợi cảm của thiên nhiên. Nhưng ẩn chứa kín đáo sau vẻ đẹp và sự gợi cảm ấy là tâm trạng phảng phất nỗi buồn của những trí thức đương thời trước thời cuộc đầy tăm tối.
Trước hết, chúng ta cùng Huy Cận trải lòng mình qua bức tranh thiên nhiên Tràng giang với nét đẹp cổ điển, đầy thi vị:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Đọc những dòng thơ đầu, ta như mường tượng ra trước mắt khung cảnh sông nước mênh mông, êm đềm, tĩnh lặng với những "sóng gợn", "con thuyền",... - thi liệu thường thấy trong thơ văn cổ điển. Từng lớp sóng bạc cứ nối dài, nối dài, lan xa trong không gian tạo nên bức tranh đẹp hùng vĩ, phóng khoáng, vô biên. Thêm một nét chấm phá "củi một cành khô" bồng bềnh trên mặt nước và hình ảnh con thuyền gác mái trôi xuôi lại khiến cho cảnh bình dị, thân thuộc mà cũng thật thơ mộng mang linh hồn của quê hương xứ sở. Nhưng đứng trước khung cảnh như vậy, nhìn những con sóng "buồn điệp điệp", nhà thơ cũng dâng trào trong lòng nỗi buồn như từng lớp sóng cuộn, triền miên không nguôi, hình ảnh "củi một cành khô" gợi sự lạc lõng, cô độc của tác giả hay cũng chính là của lớp người trí thức đương thời tâm huyết nhưng không tìm thấy con đường đi của mình, bơ vơ, lạc lõng trước cuộc đời. Bức tranh tâm cảnh ẩn chứa đằng sau bức tranh ngoại cảnh, nỗi buồn của lòng người như lan tỏa sang cả thiên nhiên.
Nỗi buồn côn đơn cứ thế thấm sâu hơn vào cảnh vật: Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiềuNắng xuống, trời lên sâu chót vótSông dài, trời rộng, bến cố liêu Dường như dòng tràng giang mở rộng hơn về không gian, hình ảnh: Có thêm lơ thơ vài cồn cát nhỏ, có thêm âm thanh của tiếng chợ chiều là âm thanh quen thuộc, gần gũi của quê hương, bầu trời với những vạt nắng chiều buông xuống và một bến sông nhỏ nằm im lìm trong nắng sớm. Đây đều là những hình ảnh bình dị mang linh hồn của làng mạc, những nét phác họa đó đã tạo nên bức tranh đẹp tĩnh lặng, yên bình. Và không gian ấy còn được mở rộng thành không gian ba chiều mênh mông, rợn ngợp với "nắng xuống, trời lên, sông dài", hình ảnh vũ trụ không có đáy, mở rộng không cùng, tạo cảm giác "sâu chót vót". Chẳng ai có thể có cách kết hợp từ độc đáo, táo bạo như Huy Cận khi sử dụng một từ chỉ chiều cao với từ gợi chiều sâu càng khiến vũ trụ vô biên, rợn ngợp. Nhưng ẩn sâu trong bức tranh thiên nhiên đầy gợi cảm đó lại là nỗi buồn cô liêu của người thi sĩ với kiếp người bé nhỏ trước sự rộng lớn, rợn ngợp của cuộc đời. Qua đến khổ 3 bài thơ, vẫn là dòng tràng giang mênh mông sóng nước: Bèo dạt về đâu hàng nối hàngMênh mông không một chuyến đò ngangKhông cầu gợi chút niềm thân mậtLặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng nhưng cảnh vật được tô điểm thêm đó là những cánh bèo hàng nối hàng trôi trên sông, những bờ xanh, bãi vàng hai bên bờ - những hình ảnh hết sức bình dị, thân thuộc. Trước cảnh mênh mông sóng nước, thi nhân nhìn bèo dạt mây trôi mà lòng tự vấn "về đâu", nhìn cầu, nhìn chuyến đò ngang mà không khỏi khắc khoải, cô quạnh. Bút pháp tả cảnh ngụ tình đã khắc họa rõ nét hơn nỗi buồn cô đơn của một người hay cũng chính là của cả lớp người lúc bấy giờ. Thiên nhiên trong tràng giang tiếp tục được khắc họa rõ nét hơn qua những câu thơ cuối: Lớp lớp mây cao đùn núi bạcChim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều saLòng quê dờn dợn vời con nướcKhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà Bốn câu thơ cuối vẽ nên những nét vẽ tuyệt đẹp của buổi hoàng hôn trên quê hương xứ sở bằng vài nét chấm phá với những hình ảnh ước lệ quen thuộc "cánh chim chiều, chòm mây chiều".
Không giống như những nhà thơ cổ điển khác, mây chiều trong thơ Huy Cận đẹp rực rỡ, sống động, đầy sinh khí, mang vẻ đẹp linh hồn quê hương xứ sở. Từng lớp mây chất chồng lên nhau, "đùn" cao, tỏa rộng chiếm lĩnh cả không gian, vũ trụ. Vũ trụ như mở rộng hơn, hùng vĩ, vô biên. Mặt trời khuất sau những đám mây, chiếu những tia nắng lên khiến mây như những "núi bạc" sáng lấp lánh. Hoàng hôn trên quê hương đẹp như một miền cổ tích. Trên nền cảnh hoàng hôn ấy điểm thêm một vài hình ảnh độc đáo: "chim nghiêng cánh nhỏ", tác giả đã dùng điểm vẽ diện để tô đậm hơn cái hùng vĩ của bầu trời, tạo nên những nét vẽ đầy thơ mộng cho buổi hoàng hôn.. Bầu trời hoàng hôn đẹp hùng vĩ, thơ mộng, rực rỡ đầy sinh khí với những dáng hình thân quen, mang linh hồn quê hương xứ sở là vậy nhưng vẫn ẩn trong đó là nỗi xót xa, cô đơn, quạnh vắng của cái Tôi trong kiếp người nhỏ bé. Và thông qua những nét vẽ đẹp đẽ, đầy gợi cảm của thiên nhiên, tác giả cũng thể hiện tình yêu quê hương, đất nước thầm kín của mình.
Đồng điệu với Huy Cận, nhà thơ Xuân Diệu cũng gửi gắm nỗi lòng mình qua bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc. Khung cảnh ấy được Xuân Diệu miêu tả bằng những câu thơ bay bổng, rất sinh động. Khung cảnh non nước hiện lên trong thơ đẹp lung linh như một “thiên đường trên mặt đất”. Hình ảnh “ong bướm”, “hoa của đồng nội”, “lá của cành tơ”, “yến anh”,… qua con mắt của người nghệ sĩ tài hoa đã hiện lên thật đáng yêu, thật say đắm lòng người. Cuộc sống như bữa tiệc đang chào đón cùng những hương vị ngọt ngào, lãng mạng của “tuần tháng mật”, hương thơm trong lành của “đồng nội xanh rì” , âm thanh lôi cuốn trầm bổng như “khúc tình si”. Tình yêu lứa đôi hiện hữu khiến cho cuộc sống lại càng ấm áp, yêu đời và hạnh phúc ngập tràn khắp mọi nơi. Điệp cấu trúc “này đây” của Xuân Diệu được sử dụng thật tài tình và đầy khéo léo như lời mời gọi, phô bày hết những tinh hoa,tuyệt mỹ của cuộc sống. Những khi sáng sớm, “thần Vui hằng gõ cửa” ta lại chào đón một ngày mới trong niềm hân hoan, rạng rỡ. Hình ảnh so sánh đầy sáng tạo và rất gợi cảm “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”, tháng giêng tháng của mùa xuân tràn đầy sức sống được so sánh như “một cặp môi gần”, đó là bờ môi căng mọng tuyệt đẹp của người con gái đang độ xuân thì. Có thể nói cái nhìn của Xuân Diệu rất mới mẻ và độc đáo, ông đã lấy chuẩn mực cái đẹp của con người để miêu tả cảnh sắc của thiên nhiên. Đây quả là một câu thơ đặc sắc và có giá trị nghệ thuật vô cùng to lớn. Qúa sung sướng với niềm khát khao của mình, tác giả đã vội vàng chạy theo nhịp sống hối hả, ông chẳng thể chờ “nắng hạ” bởi vì tâm hồn ông lúc nào cũng như đang là mùa xuân chói sáng.
Cũng giống như Huy Cận, Xuân Diệu cũng gửi vào bức tranh thiên nhiên trời thu những cảm xúc của cái Tôi cá nhân buồn lãng mạn, nhớ thương da diết, nỗi cô đơn lan tỏa sang cả cảnh vật. Khác với vẻ lãng mạn, thơ mộng nhưng buồn bã, đìu hiu trong những trang thơ Tràng giang của Huy Cận, Đây mùa thu tới Vội vàng của Xuân Diệu, thiên nhiên trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của thi sĩ họ Hàn (Hàn Mặc Tử) hiện lên thật sống động, tươi xinh, đẹp đẽ: Sao anh không về chơi thôn VĩNhìn nắng hàng cau, nắng mới lênVườn ai mướt quá xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ điền Bài thơ mở ra bằng câu hỏi với âm điệu tha thiết, triền miên. "Sao anh không về chơi thôn Vĩ" nghe như một lời trách cứ, dỗi hờn hay cũng chính là lời mời gọi của người thôn Vĩ với thi sĩ, nhưng thực chất đó chính là lời tác giả tự mời gọi chính mình trong nỗi khát khao được về chơi thôn Vĩ. Vậy có gì độc đáo thú vị ở thôn Vĩ mà nhà thơ lại khao khát đến vậy?. Bức tranh thiên nhiên mở ra bằng hình ảnh cái "nắng hàng cau, nắng mới lên", ánh nắng chan hòa rực rỡ tỏa sáng, bừng dậy cả không gian. Khu vườn Vĩ Dạ vừa rực rỡ tinh khôi vừa mát lành, dịu nhẹ đối lập với sự tĩnh lặng, trầm tư của Huế. Cảnh vườn được tác giả vẽ bằng những nét bút từ xa đến gần, từ cao đến thấp, tuy là "vườn ai" phiếm định nhưng gợi lên khung cảnh sống động, tươi mới, lung linh với những khu vườn "mướt", sum suê, mơn mởn, mỡ màng, mềm mượt, một vẻ đẹp đầy sức sống. Màu xanh của cây cối là màu "xanh như ngọc" vừa gợi vẻ trù phú, vừa gợi sự lộng lẫy, quý phái. Câu thơ không chỉ tả cảnh mà còn là lời trầm trồ khen ngợi cảnh sắc đẹp đẽ, gợi cảm, quyến rũ của tác giả trước khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp của Vĩ Dạ. Không chỉ vậy, cảnh thôn Vĩ còn hiện lên đầy thơ mộng, ấm áp bởi có sự xuất hiện của con người xứ Huế với lối sống kín đáo, hay ngại ngùng, e thẹn. Chỉ qua mấy dòng thơ đầu, tác giả Hàn Mặc Tử đã vẽ lên trước mắt người đọc cảnh vườn đặc trưng của xứ Huế ấm áp, tươi trẻ, tràn đầy nhựa sống, cảnh và người cùng hòa quyện hài hòa. Bức trangh ngoại cảnh xứ Huế được mở rộng hơn về không gian với cảnh sông nước mây trời mang nét rất riêng chỉ nơi đây mới có: Gió theo lối gió mây đường mâyDòng nước buồn thiu hoa bắp layThuyền ai đậu bến sông trăng đóCó chở trăng về kịp tối nay! Trên cao gió thổi nhẹ, mây chầm chậm trôi, phía dưới sông Hương uốn mình lững lờ chảy, những bông hoa bắp lay động trong gió. Nhịp thơ chậm, dàn trải gợi sự mênh mang của sóng nước mây trời và không khí yên bình, nhịp sống khoan thai trầm tư đặc trưng nét tính cách riêng biệt của người dân Huế mộng mơ. Cùng với đó là bức tranh đêm trăng trên sông Hương thơ mộng, huyền ảo, cả dòng sông như tràn ngập ánh trăng lóng lánh, lung linh, hư ảo: Dòng sông trăng, bến sông trăng, thuyền chở đầy trăng. Có thêm trăng, bức tranh thiên nhiên sống động, tươi trẻ ban sáng đã chuyển thành bức tranh kì bí, huyền ảo, lung linh, gợi cảm biết nhường nào. Phải có một tình yêu thiên nhiên, gắn bó với mảnh đất xứ Huế thiết tha sâu nặng và con mắt tinh tế, nhạy cảm thì thi sĩ Hàn mới có thể vẽ nên bức tranh thiên nhiên tuyệt diệu đến như vậy. Nhưng "Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ", ẩn sau bức tranh ngoại cảnh đó là bức tranh tâm cảnh của nhà thơ, vui vì cảnh đấy nhưng cũng thật buồn thương, cô đơn lan tỏa cả vào cảnh vật, thấm cả vào gió mây đất trời.
Như vậy, có thể thấy rằng, bức tranh thiên nhiên trong ba tác phẩm Tràng giang (Huy Cận), Vội vàng (Xuân Diệu), Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử) đều mang những nét đẹp, gợi cảm riêng biệt, mỗi bức tranh đều có những nét xinh xắn, quyến rũ riêng và đặc trưng cho từng phong cách nghệ thuật của mỗi nhà thơ. Tuy nhiên, điểm gặp gỡ giữa ba nhà thơ tiêu biểu cho phong trào Thơ mới này là sự hòa quyện của tinh hoa thơ ca truyền thống và thơ Đường kết hợp với thơ ca lãng mạn, chủ nghĩa trưng của Pháp. Bởi vậy, ẩn sau mỗi bức tranh ngoại cảnh là bức tranh tâm cảnh, ẩn chứa tâm trạng cô đơn, bế tắc, bất lực của cái Tôi cá nhân hay của tầng lớp trí thức bấy giờ trước thời cuộc.
Nhà phê bình nổi tiếng Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam đã dùng những lời trang trọng, tốt đẹp nhất: “Một thời đại trong thơ ca” để nói về phong trào Thơ mới (1932-1945). Với các gương mặt tiêu biểu nhất là Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử. Đó là những thi nhân chủ yếu đã đem lại cho thơ ca Việt Nam nhiều tác phẩm đặc sắc. Đặc biệt là hình ảnh thiên nhiên trong các tác phẩm này thật đẹp và gợi cảm. Có điều là do hoàn cảnh đất nước ta mất chủ quyền, nhân dân ta phải sống trong vòng áp bức của bọn thực dân phong kiến, nên hình ảnh thiên nhiên trong “Thơ mới” ở đây tuy đẹp mà buồn. Cứ thử đọc lại những bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, Đây mùa thu tới của Xuân Diệu và Tràng giang của Huy Cận, chúng ta sẽ nhận ra rất rõ điều này.
Thơ Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu và Huy Cận, ba khuôn mặt lớn của Thơ mới, đều có chung một đặc điểm là thể hiện tình yêu thiên nhiên thật nồng nàn và say đắm. Bằng cảm hứng lãng mạn, các nhà thơ tài tình này đã xây dựng lên trong thơ mình những bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc hữu tình và gợi cảm. Thiên nhiên ở đây rất đẹp mà cũng rất buồn, vì bao giờ cũng là hình ảnh một thiên nhiên khúc xạ qua tâm hồn của nhà thơ. Nỗi buồn của các thi nhân ở đây cũng là nỗi buồn của cả một thế hệ đương thời, nỗi buồn của cả một dân tộc phải sống lầm than trong những năm tháng tối tăm u buồn dưới thời Pháp thuộc.
Trước hết là bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, bài thơ thật xinh xắn với những bức tranh thiên nhiên xứ Huế đầy cảnh sắc hữu tình, duyên dáng. Qua cái nhìn trong sáng, giàu chất thơ của thi nhân, cảnh vật xứ Huế như sáng bừng lên trong làn nắng ban mai “nắng mới lên”. Nổi bật lên từ bức tranh là một màu xanh óng ả mướt quá của cây cối vườn tược nhà ai, một màu xanh ngọc bích trẻ trung đầy sức sống. Thấp thoáng giữa vẻ đẹp tươi tắn, mượt mà “xanh như ngọc” ấy là một bóng hình gợi cảm:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Từ vẻ đẹp hư ảo như có như không, như ẩn như hiện này, bài thơ dẫn tới một bức tranh thiên nhiên khác, thể hiện cái đẹp huyền ảo của trăng gió mây trời và sông nước xứ Huế:
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay!
Đây là cảnh sông nước mây trời đầy huyền ảo của xứ Huế trong một đêm trăng tĩnh lặng. Lúc bấy giờ có gió, nhưng gió chỉ nhẹ, không đủ để làm cho mây bay, nhưng vừa đủ để hoa bắp lay khe khẽ. Trong cái không gian tĩnh lặng ấy, có một con thuyền đậu nơi bến vắng, khiến cảnh vật càng huyền ảo hơn. Đặc biệt là bến sông lúc này đã trở thành bến trăng và con thuyền cũng chở khẳm ánh trăng. Đó là một không gian mênh mông hư ảo với “sương khói mờ nhân ảnh”.
Đúng là thiên nhiên ở đây thật đẹp, thật quyến rũ nhưng cũng gợi buồn, một nỗi buồn bâng khuâng dịu vợi, man mác tỏa lan. Phải chăng đó cũng chính là tâm trạng của nhà thơ, một chút lòng chơi vơi, hụt hẫng trước một linh cảm tản mạn chia lìa: “Gió theo lối gió mây đường mây” và một nỗi hoài nghi mờ mịt: Ai biết tình ai có đậm đà?...
Tiếp đó, thiên nhiên trong bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu cũng buồn lặng “đìu hiu”, phai tàn, héo úa. Nhà thơ bắt đầu tác phẩm của mình bằng những hàng liễu rũ:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng.
Lá liễu từng sợi dài rũ xuống, dưới mắt thi nhân đã trở thành làn tóc của người thiếu nữ tóc buồn buông xuống. Nước mắt không rơi thành giọt mà rơi thành sợi, sợi buồn “buông xuống lệ ngàn hàng”.
Nhà thơ nhìn lá vàng từng chiếc rơi từng chiếc lại thấy đó là một sắc áo đẹp của mùa thu, nên đã reo lên chào đón:
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Cái đẹp của mùa thu ở đây là cái đẹp của vẻ tàn phai, héo úa, khô gầy:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá...
Đôi nhánh khô gây xương mỏng manh.
Nỗi buồn mùa thu từ hoa rụng lá úa ở hai câu đầu của khổ thơ đã lan ra, thấm sâu vào các nhánh cây trơ trụi Khô gầy xương mỏng manh ở hai câu sau khiến cái rét thấu xương của từng luồng gió lạnh đã làm run rẩy rung rinh cả những chiếc lá thu còn sót lại.
Nỗi buồn ấy, cái rét ấy càng dễ nhận ra ở nơi trống vắng, ở những bến đò. Tuy đây là chỗ bốn bề lộng gió lại hội tụ đông người, nhưng chính cái rét thấu xương kia cũng khiến người ta e ngại, ít muốn sang sông.
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò
Nỗi buồn mùa thu còn thắm đẫm đến cả mây trời, làm nên một không khí u uất hận chia li với những cánh chim bay về phương xa tránh rét:
Mây vẩn từng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia li
Tất cả chi tiết của bức tranh thiên nhiên trong bài thơ này đều gợi nên một cảm giác xa xăm, nhớ thương buồn lặng. Cuối cùng, trên bức tranh thơ thấy hiện lên bóng dáng con người:
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?
Đúng là hình ảnh của các cô với nét mặt buồn, với đôi mắt nhìn mãi ra xa, không chú mục vào một cái gì cụ thể mà như đang chìm đắm trong nỗi buồn và cô đơn, ngơ ngẩn.
Sau hết, là bài thơ Tràng giang của Huy Cận, bức tranh thiên nhiên ở đây là hình ảnh sông nước thấm đượm một nỗi niềm “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Mở đầu bài thơ là một khung cảnh thiên nhiên êm đềm bình lặng:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Bên cạnh hình ảnh những “làn sóng”, “con thuyền” quen thuộc, những thi liệu từ lâu đã trở thành cổ điển, khổ thơ trên còn có thêm một nét sáng tạo hết sức bất ngờ: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Một cành củi khô trôi dạt vô định trên dòng sông chính là hình ảnh gợi người đọc nghĩ đến một thân phận lạc loài. Lối đảo ngữ “Củi một cành khô” càng làm nổi bật thêm sự cô độc, lạc loài và héo hon ấy.
Sang khổ thơ tiếp theo, nỗi buồn như càng thấm sâu hơn vào cảnh vật:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bức tranh thiên nhiên vụt lớn hơn gió đìu hiu thổi qua vài dải đất lơ thơ giữa sông dài quạnh vắng, lặng buồn. Ngay cả tiếng chợ chiều đã tàn từ một làng nào đó cũng không có nữa. Không gian tiếp đó lại được mở rộng và đẩy cao thêm trong hai câu cuối của khổ thơ, vì “nắng xuống trời lên”. Nhưng tuyệt vời hơn cả là ở đây nhà thơ đã tả chiều sâu trong chiều cao. “Nắng xuống trời lên sâu chót vót”.
Cảnh vật lại được mở ra thêm trong khổ thơ thứ ba với cả “bờ xanh tiếp bãi vàng” và những đám bèo trôi dạt “hàng nối hàng” chẳng biết sẽ về đâu. Toàn cảnh tràng giang trời rộng sông dài ấy lại tuyệt nhiên quạnh vắng, thiếu hẳn bóng người. Ở đây không có lấy một chuyến đò ngang hay một chiếc cầu để “gợi chút niềm thân mật” Dưới mắt thi nhân, thiên nhiên dù hoang vắng nhưng vẫn lung linh và có hồn. Chính cảnh tình ấy đã lắng đọng thành làng quê dợn dợn ở khổ kết bài thơ:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Đến đây, con người mới hiện ra cái cả tâm tình sâu nặng của mình giữa một thiên nhiên đẹp đến độ kì vĩ lạ lùng. “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc. Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa". Cả một nỗi niềm “Sông dài trời rộng bến cô liêu” đã dàn trải suốt bài thơ, đến đây, bỗng hiện ra với một nội dung cụ thể: Đó là nỗi nhớ quê hương da diết. Ngày trước, Thôi Hiệu đứng trên Hoàng Hạc lâu, trông vời khói sóng chiều hôm mà buồn nhớ quê hương. Còn đây, Huy Cận: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Chua xót hơn nữa thi nhân đứng trên quê hương mình mà da diết nhớ quê hương mình, nói một cách khác là cảm thấy mình lạc loài ngay chính trên quê hương của mình. Đúng như chính Huy Cận đã tâm sự là "lúc đó tôi buồn hơn Thôi Hiệu đời nhà Đường”.
Tóm lại, ba bài thơ: Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, Đây mùa thu tới của Xuân Diệu và Tràng giang của Huy Cận đều là những bức tranh thiên nhiên tuy tuyệt đẹp. Nhưng cũng đều ẩn chứa một nỗi buồn riêng. Cái buồn ở những bài thơ này cũng như của nhiều cái buồn của các nhà Thơ Mới chính là cái buồn của cả một thế hệ, của dân tộc ta, trong những năm phải sống tủi nhục và đen tối dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến đương thời. Đây cũng chính là một trong những giá trị tư tưởng chủ yếu của Thơ mới trong thời kì 1930.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 11 - Năm thứ hai ở cấp trung học phổ thông, gần đến năm cuối cấp nên học tập là nhiệm vụ quan trọng nhất. Nghe nhiều đến định hướng sau này rồi học đại học. Ôi nhiều lúc thật là sợ, hoang mang nhưng các em hãy tự tin và tìm dần điều mà mình muốn là trong tương lai nhé!
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK