Trang chủ Ngữ văn Lớp 9 phân tích bài thơ bếp lửa của bằng viêt câu...

phân tích bài thơ bếp lửa của bằng viêt câu hỏi 289004 - hoctapsgk.com

Câu hỏi :

phân tích bài thơ bếp lửa của bằng viêt

Lời giải 1 :

                                    “Quê hương là chùm khế ngọt

                                    Cho con trèo hái mỗi ngày

                                    Quê hương là đường đi học

                                    Con về rợp bướm vàng bay.”

                                                (Quê Hương – Đỗ Trung Quân)

            Đối với mỗi con người, quê hương chính là nơi mà ta trở về sau một chặng đường dài, nơi ta có thể dựa vào mỗi khi ta vấp ngã. Nơi ấy còn là chốn lưu giữ những thứ đáng nhớ nhất, trong đó có lẽ là tuổi thơ chứa biết bao kỉ niệm nơi ta khởi đầu một đời người. Tuổi thơ của chúng ta có thể là bên những trò chơi dân gian, có thể là bên tiếng bom rơi, đạn lạc, nhưng một tuổi thơ bên bếp lửa có lẽ là ấm áp và đáng trân trọng nhất. Nhà văn Bằng Kiều là kể lại tuổi thơ của mình qua bài thơ “Bếp lửa” một cách tình cảm và chân thật.

            Bằng Việt tên thật là Nguyễn Việt Bằng, sinh năm 1941, quê ở Thạch Thất – Hà Tây. Ông đã từng là Chủ tịch Hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt Nam và Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội. Ông bắt đầu làm thơ từ đầu những năm sáu mươi và thuộc lớp nha thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Đa số tác phẩm của ông về kỷ niệm, ước mơ của tuổi trẻ, gần gũi với người đọc trẻ tuổi, bạn đọc trong nhà trường. Tác phẩm “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963, khi còn là sinh viên học luật ở Liên Xô. Bài thơ được đưa vào tập “Hương cây – Bếp lửa” năm 1968, tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ.

                                    “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

                                    Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

                                    Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!”

            Bếp lửa gợi lại tuổi thơ được sống và chăm sóc bởi bà của tác giả qua khổ thơ đầu. Hình ảnh ban đầu của cái bếp lửa hiện lên thấp thoáng mờ ảo, như tác giả đã nhớ về nó một cách mơ hồ. Những tính từ “chờn vờn”, “ấp iu” thể hiện một buổi sáng sớm lạnh lẽo nhưng nhờ có bếp lửa và bà, tác giả đã được sưởi ấm. Những buổi sáng có sương thường đem đến cho chúng ta cảm giác huyền ảo, mang đầy tính kì bí, có thể là một sự mãnh liệt được ẩn giấu sau lớp sương mờ ảo, có thể là cái gì đó mang chất buồn bã, như một khoảng khắc khiến ta phải dừng lại. Đối với tác giả đó chỉ là một buổi sương sớm nhưng có thể nghĩ rằng, những làn sương đã được ẩn dụ như khói của những quả bom, viên đạn nơi tiền tuyến, phản ảnh sự thật khốc nghiệt của chiến tranh. Một chiếc bếp lửa tuy nhỏ, chập chờn, nhưng đối với tác giả qua các hiểu ẩn dụ, nó được thắp lên từ sự khiên nhẫn, khéo léo và chắt chiu của bà. Có lẽ vì vậy, bếp lửa ấy mới khiến cho tác giả mới có thể có nỗi nhớ dai dẳng sâu sắc bắt đầu cội nguồn của tuổi thơ. Câu cuối của khổ thơ là một lời yêu thương của người cháu muốn gửi gắm đến bà, cụm từ “biết mấy nắng mưa” cho ta biết tình cảm của cháu dành cho bà đã hình thành dần qua những ngày khó khăn. Câu chuyện về cái bếp lửa được mở ra với nhịp đều đặn, giúp cho độc giả thấm dần hoàn cảnh của tác giả. Đọc qua những dòng thơ đầu, tôi cũng như được trở về tuổi thơ của bản thân, những ngày chơi đùa và quây quần gia đình bên bếp lửa.

                                    “Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

                                    Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,

                                    Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,

                                    Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

                                    Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

                                    ***

                                    Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa

                                    Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

                                    Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?

                                    Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.

                                    Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

                                    Mẹ cùng cha công tác bận không về,

                                    Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,

                                    Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,

                                    Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,

                                    Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,

                                    Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

                                    ***

                                    Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

                                    Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

                                    Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

                                    Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:

                                    “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

                                    Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,

                                    Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

                                    ***

                                    Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,

                                    Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,

                                    Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...”

            Bếp lửa nói lên suy nghĩ và thấu hiểu về cuộc đời bà của tác giả qua ba khổ thơ tiếp theo. Câu chuyện của tác giả lại tiếp tục, vào khi ông lên bốn tuổi, gia đình ông lâm vào cảnh khó khăn, cụm từ “đói mòn đói mỏi”. Việc tách từ mòn mỏi ra để nhấn mạnh cái đói khốc nghiệt cũng như tạo ra vần điệu đau khổ vì để có miếng ăn, người cha đã phải đi “đánh xe”, dù vậy miếng ăn vẫn không đủ khiến bố ông “khô rạc”, ngựa cũng “gầy”. Những gì tác giả kĩ nhất chỉ là “khói hun nhèm mắt”, có lẽ vì vậy khi nhớ lại “sống mũi còn cay”. Khổ thơ tiếp theo kể về cuộc sống của ông với người bà, tiếng tu hú kêu đã được ông miêu tả lặp lại nhiều lần để nhấn mạnh sự thiếu thốn qua tính từ “tha thiết”. Ở những câu thơ tiếp theo, tác giả đã miêu tả sự chăm sóc kĩ lưỡng của bà đối với người cháu, nhìn vào chiếc bếp lửa, cháu thương bà biết bao nhiêu! Hai câu cuối tác giả than rằng: “Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,”, tiếng tu hú cứ kêu hoài kêu mãi, tạo nên một bản nhạc buồn, chỉ có bà và cháu lắng nghe. Tiếng gọi của tác giả bộc lộ cảm xúc cảm thương đối với người bà của tác giả. Trong khổ thơ tiếp theo, hình ảnh của sự tàn khốc chiến tranh đã hiện rõ, “giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi”, tại câu thơ này, tác giả đã ẩn dụ so sánh ngọn lửa của chiếc bếp giữa ngọn lửa mà địch dung để đốt cháy làng, một bên ấm áp, thân thuộc; một bên hủy diệt, tàn ác. Lúc này, có lẽ người bà đã già yếu, khiến cho người cháu phải “đỡ đần” để xây một “túp lều tranh”, khi nhắc đến những túp lều tranh, người ta thường nghĩ đến tình yêu nam nữ, thế nhưng tác giả đã xử dụng nó với ý nghĩa của sự vun đắp tình cảm. Nhờ có mái lều ấy, bà vẫn “vũng lòng”, nói với cháu đừng kể chuyện đấy với bố để bố được yên lòng. Khổ thơ tiếp theo, tác giả lại đưa chúng ta về những buổi nhóm bếp cùng bà với điệp ngữ “Một ngọn lửa” tác giả đã thể hiện được tình yêu mà cháu dành cho bà là nhiều như thế nào. Đọc qua đoạn thư ấy, cảm xúc tôi như được dâng trào trong tình thương – trọn vẹn mà trong sáng.

                                    “Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

                                    Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

                                    Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

                                    Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,

                                    Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,

                                    Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,

                                    Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ...

                                    Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!

                                    ***

                                    Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,

                                    Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,

                                    Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

                                    - Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa? ...”

            Bếp lửa gắm gửi những thông điệp muốn nói với bà của tác giả qua khổ thơ cuối. Tác giả đã kể lại những lối sống không bao giờ thay đổi của bà, rất đơn sơ và giản dị bằng những tính từ như “lận đận”, “ấp iu nồng đượm”, “yêu thương”, “ngọt bùi”, “kỳ diệu”. Tác giả sử dụng điệp ngữ “nhóm”, tượng trưng cho sự vun đắp. Thế nên, cả bài thơ ông luôn sử dụng cụm từ “nhóm lửa’ thay cho “đốt lửa” vì nó thể hiện được sự bền bỉ, kiên trì và có tiếng tha thiết quê hương. Những biện pháp mà tác giả dung đã làm nổi bật lên sự bình dị và tinh tế của bà, ở câu thơ đầu tác giả sử dụng lại cụm từ “biết mấy nắng mưa” đã xuất hiện ở khổ thơ một nhưng ở đây là bà. Cho nên, sự yêu thương đùm bọc lẫn nhau của hai bà cháu là không thể nào tả nổi. Tác giả đã kết lại khổ thơ bằng câu cảm thán tôn vinh bếp lửa: “kỳ lạ và thiêng liêng”. Khổ tiếp theo, kể lại khi cháu đã trưởng thành, những điệp ngữ “trăm”, nói rằng khi người cháu lớn lên sẽ có rất nhiều nơi để đi, để làm, để học hỏi. Nhưng người cháu ấy sẽ không bao giờ quên thầm nhớ về bà: “- Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa? ...”. Qua khổ thơ ấy, tôi nhận ra rằng, nếu tình cảm đã đủ mạnh mẽ thì dù có qua bao nhiêu thời gian, sóng gió thì nó cũng không bao giờ mờ nhạt.

            Qua bài thơ “Bếp lửa”, ta có thể cảm nhận thế nào là tình yêu mãnh liệt đối với con người, đối với đất nước. Còn có bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận, cũng thể hiện niềm yêu thương mãnh liệt nhưng lại đối với biển cả. Tuy vậy, hình tượng chính của hai bài thơ đều là một hình ảnh tự nhiên bếp lửa và biển. Do đó, ta có thể thấy những điều đơn giản nhưng lại rất chân thành của tính người chỉ thể hiện qua những câu từ đơn giản nhưng mang lại những điều lớn lao. Hiện nay, có lẽ tình cảm mà những người trong gia đình dành cho nhau đã phai nhạt dần, dường như chúng ta ít khi thể hiện những hành động dù nhỏ nhưng có để vun đắp tình thương rất nhiều. Bản thân tồi đều cố gắng mỗi ngày tạo mối quan hệ vững chắc, thân mật đối với tất cả mọi người, sau khi đọc bài thơ, tôi đã tự nhủ mình phải yêu thương những người luôn ở bên mình nhiều hơn nữa.

            Quả thật, bài thơ “Bếp lửa” mang trong nó rất nhiều ký ức tuổi thơ về nơi quê hương của tác giả. Nó cũng cho ta thấy được tình yêu thương đong đầy bằng những hình ảnh thơ thực, mà mang tính biểu tượng. Qua bài thơ ấy, ta có thể trở về tuổi thơ mà chính bản thân đã đã không còn nhớ kĩ đã từ rất lâu bởi vì: “Nếu bạn mang theo tuổi thơ bên mình, bạn sẽ chẳng bao giờ già đi.” (Astrid Lindgren).

Thảo luận

Lời giải 2 :

Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cam nhận điều đó qua bài thơ Bếp lửa của ông.

Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ Bếp lửa được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang di du học ở Liên Xô. Bài thơ đã gợi lại những kì niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước. Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. ở nơi đất khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà:

                                      Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

                                      Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

                                      Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Hình ảnh chờn vờn gợi lên những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một cách chập chờn như khói bếp. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật và tỏa sáng tâm hồn đứa cháu thơ ngây. Bếp lửa được thắp lên đó cũng là bếp lửa của cuộc đời bà đã trải qua biết mấy nắng mưa. Từ đó, hình ảnh người bà hiện lên. Dù đã cách xa nửa vòng trái đất nhưng dường như Bằng Việt vẫn cảm nhận được sự vỗ về, yêu thương, chăm chút từ đôi tay kiên nhẫn và khéo léo của bà. Trong cái khoảnh khắc ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như một dòng sông với con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm mà suốt cuộc đời này chắc người cháu không bao giờ quên được và cũng chính từ đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan tỏa toàn bài thơ.

Khổ thơ tiếp theo là dòng hồi tưởng của tác giả về những kỉ niệm của những năm tháng sống bên cạnh bà. Lời thơ giản dị như lời kể, như những câu văn xuôi, như thủ thỉ, tâm tình, tác giả như đang kể lại cho người đọc nghe về câu chuyện cổ tích tuổi thơ mình. Nếu như trong câu chuyện cổ tích của những bạn cùng lứa khác có bà tiên, có phép màu thì trong câu chuyện của Bằng Việt có bà và bếp lửa. Trong những năm đói khổ, người bà đã gắn bó bên tác giả, chính bà là người xua tan bớt đi cái không khí ghê rợn của nạn đói 1945 trong tâm trí đứa cháu. Cháu lúc nào cũng được bà chở che, bà dẫu có đói cũng để cháu không thiếu bữa ăn nào, bà đi mót từng củ khoai, đào từng củ sắn để cháu ăn cho khỏi đói:

                                     Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

                                     Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

                                     Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

                                     Chỉ nhớ khói, hun nhèm mắt cháu

                                     Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

Chính mùi khói đã xua đi cái mùi tử khí trên khắp các ngõ ngách. Cũng chính cái mùi khói ấy đã quện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Dù cho tháng năm có trôi qua, những kí ức ấy cũng sẽ để lại ít nhiều ấn tượng trong lòng đứa cháu để rồi khi nghĩ lại lại thấy sống mũi còn cay. Là mùi khói làm cay mắt người người cháu hay chính là tấm lòng của người bà làm đứa cháu không cầm được nước mắt?

                             Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm bếp

                             Tu hú kêu trên những cách đồng xa

                             Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà

                             Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

                             Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

Cháu cùng bà nhóm lửa, nhóm lên ngọn lửa của sự sống và tình yêu bà cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy. Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lứa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu như giục giã lúa mau chín, người nông dân mau thoát khỏi cái đói, và dường như đó cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để nhắc bà rằng: Bà ơi, đến giờ bà kể chuyện cho cháu nghe rồi đấy! Từ “tu hú” được điệp lại ba lần làm cho âm điệu câu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả. Tiếng tu hú lúc mơ hồ, lúc văng vẳng từ những cánh đồng xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ. Tiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơn, rộng hơn trong cái không gian xa thẳm của nỗi nhớ thương.

Nếu như trong những năm đói kém của nạn đói 1945, bà là người gắn bó với tác giả nhất, yêu thương tác giả nhất thì trong tám năm ròng của cuộc kháng chiến chống Mĩ, tình cảm bà cháu ấy lại càng sâu đậm:

                                       Mẹ cùng cha bận công tác không về

                                       Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe (...)

Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư, bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối với đứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ. Ngày nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu truyện cổ huyền ảo của cháu. Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ của con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo thì đối với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cánh chim, là một cành hoa của riêng ông. Cho nên, tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng va quý giá đối với ông. Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Không chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người. Những bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu. Ngựời bà và tình cảm mà bà dành cho cháu đã thật sự là một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu bé bỏng. Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế... Thi sĩ bỗng tự hỏi lòng mình: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?” Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ người. Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ bà, cháu đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gắn bó, quấn quýt không rời.

Chiến tranh, một danh từ bình thường nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt vô cùng, nó đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài thơ cũng trở thành một nạn nhân của chiến tranh: gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi...

                                      Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

                                      Hàng xóm bốn bên trở về lầm lũi

                                      Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

                                      Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:

                                      Bố ở chiến khu bố còn việc bố

                                      Mày viết thư chớ kể này kể nọ

                                      Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!

Cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt nghèo, nghị lực của bà càng bền vững, tấm lòng của bà càng mênh mông. Qua đó, ta thấy hiện lên một người bà cần cù, nhẫn nại và giàu đức hi sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu đã bị đốt nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã không còn, bà dù có đau khổ thế nào cũng không dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé bỏng của mình lo buồn. Bà cứng rắn, dắt cháu vượt qua mọi khó khăn. Bà không muốn đứa con đang bận việc nước phải lo lắng chuyện nhà. Điều đó ta có thế thấy rõ qua lời dặn của bà: “Mày có viết thư chớ kể này kể nọ / Cứ báo nhà vẫn được bình yên!”. Lời dặn của bà nôm na giản dị nhưng chất chứa biết bao tình. Gian khổ, thiếu thốn, bao nỗi nhớ thương con bà đều phải nén vào trong lòng đế yên lòng người nơi tiền tuyến. Hình ảnh người bà không chỉ còn là người bà của riêng cháu mà còn là một biểu tượng rõ nét cho những người phụ nữ Việt Nam giàu đức hi sinh, thương con quý cháu.

Kết thúc khổ thơ, Bằng Việt đã nâng hình ảnh bếp lửa trở thành hình ảnh ngọn lửa, một ngọn lửa:

                                         Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

                                         Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.

Hình ảnh ngọn lửa tỏa sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngọn lửa của tình yêu thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa đỏ hồng soi sáng con đường cho đứa cháu. Bà luôn nhắc cháu rằng: nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ luôn ở cạnh cháu.

Những dòng thơ cuối bài cũng chính là những suy ngẫm về bà và bếp lửa mà nhà thơ muốn gởi tới bạn đọc, qua đó cùng là những bài học sâu sắc từ công việc nhóm lửa tưởng chừng đơn giản:

                                       Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm

Một lần nữa, hình ảnh bếp lửa ấp iu, nồng đượm đã được nhắc lại ở cuối bài thơ như một lần nữa khẳng định lại cái tình cảm sâu sắc của hai bà cháu.

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi. Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương những người ruột thịt và nhắc cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã sống với nhau, những năm tháng mà hai bà cháu mình cùng chia nhau từng củ sắn, củ mì. Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui. Nồi xôi gạo mới sẻ chung vui của bà hay là lời răn dạy cháu luôn phải mở lòng ra với mọi người xung quanh, phải gắn bó với xóm làng, đừng bao giờ có một lối sống ích kỉ.

                                      Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ.

Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đầy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp thêm huyền ảo như trong truyện. Người bà có trái tim nhân hậu, người bà kì diệu đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn đứa cháu để mai này cháu khôn lớn thành người. Người bà kì diệu như vậy ấy, rất giản dị nhưng có một sức mạnh kì diệu từ trái tim, ta có thể bắt gặp người bà như vậy trong Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh:

                                            Tiếng gà trưa

                                            Mang bao nhiêu hạnh phúc

                                            Đêm cháu về nằm mơ

                                            Giấc ngủ hồng sắc trứng.

Suốt dọc bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà. Âm điệu những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm đang trào lớp lớp sóng vỗ vào bãi biên xanh thẳm lòng bà. Người bà đã là, đang là và sẽ mãi mãi là người quan trọng nhất đối với cháu dù ờ bất kì phương trời nào. Bà đã trở thành một người không thể thiếu trong trái tim cháu. Giờ đây, khi đang ở xa bà nửa vòng trái đất, Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về bà:

                                           Giờ cháu đã đi xa.

                                           Có ngọn khói trăm tàu

                                           Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

                                           Nhưng vẫn chẵng lúc nào quên nhắc nhở

                                           Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

Xa vòng tay chăm chút của bà để đến với chân trời mới, chính tình cảm giữa hai bà cháu đã sưởi ấm lòng tác giả trong cái mùa đông lạnh giá của nước Nga. Đứa cháu nhỏ của bà ngày xưa giờ đã trưởng thành nhưng trong lòng vẫn luôn đinh ninh nhớ về góc bếp, nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau. Đứa cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ của đứa cháu đã được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó.

Đọc xong bài thơ, nhắm mắt lại tưởng tượng, bạn sẽ hình dung thấy ngay hình ảnh bếp lửa hồng và dáng người bà lặng lẽ ngồi bên. hình ảnh có tính sóng đôi này hiện lên thật sống động, rõ ràng như thể nét khắc, nét chạm vậy... (Văn Giá). Bài thơ Bếp lửa sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc nhờ sức truyền cảm sâu sắc của nó. Bài thơ đã khơi dậy trong lòng chúng ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, với những người đã tô màu lên tuổi thơ trong sáng của ta.

 

Bạn có biết?

Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.

Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

Tâm sự 9

Lớp 9 - Là năm cuối ở cấp trung học cơ sở, sắp phải bước vào một kì thi căng thẳng và sắp chia tay bạn bè, thầy cô và cả kì vọng của phụ huynh ngày càng lớn mang tên "Lên cấp 3". Thật là áp lực nhưng các em hãy cứ tự tin vào bản thân là sẻ vượt qua nhé!

Nguồn : ADMIN :))

Liên hệ hợp tác hoặc quảng cáo: gmail

Điều khoản dịch vụ

Copyright © 2021 HOCTAPSGK