Nói đến Nam Cao là phải nói đến Lão Hạc. Tác phẩm này được coi là truyện ngắn hiện thực xuất sắc trong trào lưu hiện thực phê phán thời kì 1930 – 1945. Truyện không những nêu được nỗi khổ của người nông dân trước tai trời ách đất, trước xã hội suy tàn mà đáng chú ý hơn là cả là đã nêu bật được hình ảnh một lão nông dân đáng kính với phẩm chất của một con người đôn hậu, giàu lòng tự trọng và rất mực yêu thương con, để lại trong lòng người đọc niềm xót xa, cảm thương và mến phục.
Điều đầu tiên phải nói đến là tấm lòng đôn hậu, rất mực yêu thương con của lão Hạc… Vợ chết sớm, sống một mình trong cảnh gà trống nuôi con, lão yêu con hết mực. Khi con đến tuổi trưởng thành, vì nhà nghèo nên làm lỡ duyên con, lão vô cùng ân hận và cảm thấy mình có lỗi. Trách nhiệm làm cha luôn luôn thôi thúc giày vò lão, lão tìm mọi cách để làm yên lòng con. Nhưng người con vì phẫn uất đã bỏ nhà đi đồn điền cao su để mình lão thui thủi ở nhà. Tình yêu con của lão được biểu hiện vừa trực tiếp vừa gián tiếp. Trực tiếp qua tình cảm của lão với anh con trai, gián tiếp qua tình cảm với con Vàng – kỉ vật duy nhất của con. Lão cho nó ăn vào bát như chó nhà giàu, mình ăn gì nó ăn nấy. Lão nâng niu bế bồng nó như bà mẹ hiếm hoi chiều đứa con cầu tự. Những lúc vui buồn lão đều trò chuyện, tâm tình với nó, coi nó như người bạn tâm giao. Bao nhiêu tình cảm nhớ thương xa cách, lão đều dành cho nó. Không phải bất cứ người nào cũng có thể nhớ thương súc vật như vậy. Vậy lão không đôn hậu, yêu con đó sao? Nhưng mưa bão liên miên, hoa màu trong vườn đều bị phá sạch, việc làm chẳng còn, nếu cứ tiếp tục như vậy sẽ ăn vào số tiền lão chắt chiu dành dụm cho con. Nếu đặt lên bàn cân mà tính số suất ăn của con chó cũng bằng lão, vậy tốn quá. Giữa số tiền dành dụm cho con và con chó, người bạn tâm tình, lão chọn ai đây! Để đi đến quyết định, lão đã phải dằn vặt, đau khổ, lão đã suy nghĩ nhiều, nhiều lắm mới dũng cảm bán chó. Cuộc lựa chọn tàn khốc diễn ra trong nước mắt. Nhưng nếu không bán lão sẽ chết, và số tiền dành dụm cho con cũng chẳng còn. Lão bán chó đâu phải để ăn mà để lo tương lai cho cho đứa con. Nét cao đẹp của lão Hạc chính là ở chỗ đó. Sau khi bán chó, lão cảm thấy hụt hẫng, thiếu vắng. Lão lại tự dằn vặt lương tâm mình, tự oán trách mình vì đã trót lừa một con chó: “các nếp nhăn xô lại ép cho nước mắt chảy ra, lão hu hu khóc”. Vậy là, trong cuộc đổi chác này, cái được chẳng là bao mà cái mất thật là to lớn. Lão Hạc được vài đồng để sống qua ngày nhưng lại mất đi một người bạn, mất đi mối dây liên hệ giữa lão và đứa con. Xót xa thay, cay đắng thay cho một số phận của con người đôn hậu, hiền lành này. Lão lương thiện đến mức chỉ vì bán con chó mà tự cán trách mình đau khổ đến thế. Liệu Binh Tư, vợ ông giáo và bao người khác nữa, họ có hiểu không, hay họ chỉ thấy lão Hạc gàn dở và ngốc nghếch. Ta cảm thương cho số phận lão, ta cảm phục trước đức hi sinh và lòng nhân hậu của lão, một con người cao đẹp.
Đẹp hơn nữa trong tâm hồn lão Hạc là lòng tự trọng cao quý, lão tự trọng với mọi người, với đứa con và với chính bản thân mình. Trận ốm kéo dài đã khiến lão suy sụp, lão không còn đủ sức để làm ,và cũng không còn gì để ăn. Nhưng lòng tự trọng không cho phép lão xâm phạm vào số tiền của con. Và như đã nói, lão bán chó, quyết định cay đắng để giữ trọn chữ tín với con. Khi mọi thứ đều đã hết, lão vẫn tiếp tục sống, một cuộc sống tạm bợ và vất vưởng. Vì tương lai của con, vì lòng tự trọng của mình, lão đã quyết định chết, cái giá đấy phải chăng là quá đắt. Không, với lão Hạc nó không hề đắt và có lẽ cũng vì vậy mà chúng ta thấy khâm phục trước nghị lực của lão. Có thể tưởng tượng, cuộc sống của lão Hạc như một bó đuốc lớn. Nó vẫn cháy và vẫn có thể cháy nhưng lão dập tắt để thắp thêm vào ngọn đuốc của con. Cái đáng chú ý ở đây là mặc dầu không biết số phận đứa con ra sao; còn sống hay đã chết, nhưng với niềm tin cháy bỏng, lão vẫn quyết định hi sinh. Với quyết tâm cao như vậy, lão chuẩn bị, sắp xếp cho cái chết một cách tỉ mỉ và cẩn thận; nhờ ông giáo trông hộ mảnh vườn cho con và gửi tiền làm ma để đỡ phiền hàng xóm. Lòng tự trọng ấy cao đẹp biết bao. Từ đó, lão tồn tại gần như vất vưởng, vớ được thứ gì ăn thứ nấy, hôm thì quả sung, củ ráy, hôm thì củ chuối, con ốc… Lão đã chịu đựng một cách kiên gan và cao ngạo để giữ tròn phẩm giá. Lão đã từ chối gần như hách dịch tất cả mọi sự giúp đỡ của mọi người. Và cái chết của lão đâu phải là của con người. Phải chăng lão đã chết như một con vật để được sống như một con người? Ở con người này, quy luật “đói ăn vụng, túng làm liều” không thể xảy ra. Kết cục ấy là một diễn biết tất yếu của một cuộc đời trong sạch ngay thẳng như lão. Ta không những khâm phục mà còn nên lấy đó làm tấm gương noi theo.
Khi xây dựng nhân vật này, Nam Cao hẳn đã hướng nhân vật vào cái thiện, qua đó bộc lộ những phẩm chất cao đẹp của lão nói riêng và của những người nông dân ở nông thôn Việt Nam nói chung. Ở điểm này, Ngô Tất Tố cũng giống như Nam Cao với nhân vật chị Dậu. Nhưng tác phẩm của Nam Cao xuất sắc hơn bởi nó đảm bảo được tính hiện thực của tác phẩm. Chị Dậu cũng bị dồn vào những mâu thuẫn sâu sắc cần phải giải quyết nhưng lần nào, với trí thông minh và sắc sảo hiếm có của mình, chị cũng thoát ra được. Điều đó phần nào đã làm mất đi tính chân thực của truyện. Ở đây lão Hạc cũng đã đến bước đường cùng, và cái chết ấy là kết cục tất yếu của hiện thực cuộc sống. Bởi vậy, có thể nói rằng nhân vật lão Hạc là một nhân vật xuất sắc trên mọi phương diện.
Cái cao tay của Nam Cao là để cho nhân vật lão Hạc hiện lên trong con mắt của rất nhiều người, đủ loại người: vợ ông giáo, ông giáo, Binh Tư. Tất cả đều hiểu lầm lão Hạc, coi lão thật ngớ ngẩn, dở hơi. Duy chỉ có ông giáo vì cảm thông, chịu tìm hiểu nên đã phát hiện được vẻ đẹp ẩn chứa trong tâm hồn lão Hạc. Còn riêng em, trong con mắt em, lão Hạc hiện lên là một người cha mẫu mực, một con người Việt Nam cao quý.
Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc với những truyện ngắn, truyện dài chân thực viết về hai mảng đề tài chính: người nông dân nghèo đói bị vùi dập và người trí thức nghèo, sống mòn mỏi bế tắc trong xã hội xưa cũ. Trong đó, “Lão Hạc” được coi là truyện ngắn tiêu biểu nhất viết về người nông dân khi đã xây dựng được hình tượng nhân vật lão Hạc - nhân vật chính của tác phẩm.
Lão Hạc là một người nông dân nghèo khổ. Vợ mất sớm, một mình nuôi con khôn lớn. Tài sản trong nhà không có gì ngoài ba sào vườn, một túp lều nhỏ và một con chó. Lão không có đủ tiền cho con trai cưới vợ. Chán nản, anh con trai bỏ đi đồn điền cao su, bỏ lại lão sống một mình. Sau một trận ốm, trong nhà không còn gì để ăn, lão quyết định bán cậu Vàng - kỉ vật mà con trai để lại, không chỉ là một con vật mà còn giống như một người bạn.
Cuộc sống khốn khó là vậy, nhưng lão vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp. Nổi bật lên là một con người hiền lành, nhân hậu và giàu tình yêu thương. Lão vô cùng thương yêu con của mình. Khi không lo được cho con cưới vợ, lão đã vô cùng đau khổ. Vì thương con, lão chấp nhận sống cô đơn một mình lúc tuổi già ốm yếu để con ra đi cho thỏa chí. Con đi rồi, lão lại dồn hết tình cảm vào con chó Vàng - là kỉ vật duy nhất mà con để lại: “Con chó là của cháu nó mua đấy chứ!... Nó mua về nuôi, định để đến lúc cưới vợ thì giết thịt”. Nhìn thấy nó, lão tưởng như được thấy chính con trai mình. Không chỉ vậy, tình yêu thương con của lão còn khiến lão chịu đựng cái đói mà kiên quyết không chịu bán đi mảnh vườn - của hồi môn của con. Thậm chí lão Hạc quyết định lựa chọn cái chết để không động đến số tiền dành cho con. Lão bán đi căn nhà, đem hết số tiền sang nhà ông giáo gửi và nhờ trông coi mảnh vườn. Khi con trai lão về sẽ giao lại cho anh. Không chỉ đối với con trai, lão Hạc còn dành tấm lòng yêu thương dành cho con Vàng. Lão đối xử với nó như với một con người. Cho ăn bằng một cái bát lớn như của nhà giàu, có gì ăn cũng gắp cho nó cùng ăn. Mỗi khi rảnh rỗi còn đem nó ra tẳm rửa, bắt giận. Mỗi khi lão uống rượu có đồ nhắm ngon lại gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn cho con cháu trong nhà. Thường xuyên tâm sự với nó, vỗ về ôm ấp. Lão coi con Vàng giống như một người bạn hơn là một con chó. Để rồi đến khi phải bán nó, lão đã vô cùng đau đớn, day dứt. Cái quyết định bán cậu Vàng vô cùng khó khăn, trăn trở giống như phải quyết định một việc trọng đại trong đời. Khi kể lại việc bán cậu Vàng cho ông giáo nghe, lão Hạc vô cùng đau đớn, tự trách bản thân mình nỡ đi lừa một con chó.
Lão Hạc cùng là một con người sống trong sạch, giàu lòng tự trọng. Dù sống trong hoàn cảnh túng quẫn, chỉ ăn củ chuối, sung luộc… nhưng lại từ chối “một cách gần như hách dịch” những gì ông giáo ngầm cho lão. Lão chỉ đến nhờ ông giáo hai việc. Một là, nhờ ông giáo trông nom hộ mảnh vườn, khi thằng con trai về sẽ giao lại cho nó. Hai là, nhờ ông ông giáo giữ hộ để khi mình chết thì nhờ ông giáo và bà con lo liệu ma chay cho mình. Sau đó, lão đến xin Binh Tư một ý bả chó và nói dối rằng dạo này có con chó hay đến vườn nhà lão nên muốn đánh bả nó. Nếu được lão sẽ mời hắn uống rượu. Nhưng thực ra lão Hạc dùng số bả chó ấy để tự tử. Nhà văn đã khắc họa hình ảnh lão Hạc khi chết đầy ám ảnh: “Lão Hạc đang vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra, khắp người lão chốc chốc lại bị giật mạnh một cái. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ mới chết”. Cái chết dữ dội, đau đớn và thê thảm của một con người lương thiện.
Nhà văn Nam Cao đã sử dụng nghệ thuật miêu tả nhân vật vô cùng thành công. Cùng với đó là ngôn ngữ kể chuyện giàu tính tạo hình và sức gợi cảm kết hợp với tài năng miêu tả nội tâm nhân vật để khắc họa thành công nhân vật lão Hạc.
Như vậy, qua nhân vật Lão Hạc, Nam Cao đã đã khắc họa chân thực cuộc đời của người nông dân Việt Nam trước cách mạng cùng với đó là phẩm chất cao quý của họ
xin hay nhất ạ
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 8 - Năm thứ ba ở cấp trung học cơ sở, học tập bắt đầu nặng dần, sang năm lại là năm cuối cấp áp lực lớn dần nhưng các em vẫn phải chú ý sức khỏe nhé!
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK