Huyện Thanh Trì nằm ở phía nam thủ đô Hà Nội, cách trung tâm thành phố 10 km về phía Nam. Huyện có vị trí địa lý:
Huyện Thanh Trì nằm ở hữu ngạn sông Hồng, địa thế thấp dần về phía Đông Nam theo hướng dòng chảy của sông Hồng, trên địa bàn huyện có đoạn cuối của sông Tô Lịch chảy qua nối với sông Nhuệ ở phía Tây Nam.
Địa hình của huyện Thanh Trì thấp với nhiều điểm trũng nhất là khu Đồng Trì. Sông Hồng nhiều lần chuyển dòng để lại vết tích những điểm trũng này là các ao, hồ, đầm. Tên huyện Thanh Trì (chữ Hán: 青池) và tên cổ Thanh Đàm (青潭) có nghĩa "ao xanh" và "đầm xanh" chính là dựa vào đặc điểm địa hình của huyện. Do kỵ húy vua Lê Thế Tông nên đổi thành Thanh Trì.
Là một vùng đất cổ nằm ở phía nam kinh đô, Thanh Trì có bề dày phát triển và truyền thống văn hóa đặc sắc. Bên cạnh hệ thống văn vật phong phú còn lưu giữ được với 56 cụm di tích và di tích, 2 tượng đài, đài tưởng niệm được xếp hạng di tích lịch sử cách mạng, văn hoá nghệ thuật, nơi đây còn là quê hương của rất nhiều danh nhân văn hóa đất nước và cũng là nơi nổi tiếng với nhiều sản vật nức tiếng xưa nay.
Theo dấu lịch sử, từ xa xưa, vùng đất này có tên là Long Đàm (đầm Rồng). Thế kỷ X, sứ quân Nguyễn Siêu chiếm đóng Tây Phù Liệt, khai khẩn đất hoang tạo nên một thế lực quân sự mạnh và phát triển thành một trong 12 sứ quân. Đến thời thuộc Minh, không muốn dân chúng nhớ lại tên Thăng Long, chính quyền phong kiến phương Bắc đã đổi tên kinh đô nước Việt thành Đông Quan và Long Đàm cũng bị đổi theo thành Thanh Đàm (đầm nước trong) thuộc châu Phúc Yên. Sang thời Lê Thế Tông (1573 - 1591), để kiêng húy tên vua, vùng đất này được đổi tên lần nữa thành Thanh Trì và tên gọi này được sử dụng đến tận ngày nay.
Trước năm 1945, huyện Thanh Trì thuộc phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông gồm có các tổng: Thanh Trì, Hoàng Mai, Vĩnh Ninh, Nam Phù, Thịnh Liệt (Sét), Cổ Điển, Vạn Phúc, Vân La, Khương Đình, Ninh Xá.
Năm 1942, Pháp sáp nhập một phần huyện Thanh Trì của tỉnh Hà Đông vào Hà Nội (ngày nay là 2 xã Đại Áng và Tả Thanh Oai), thành lập “Đại lý đặc biệt Hà Nội” gồm huyện Hoàn Long và 22 xã thuộc Phủ Hoài Đức, được chia thành 8 tổng, 60 xã. Một phần của huyện Thanh Trì thời đó là phủ Bãi Liên.
Thời gian 1949-1954, 2 huyện Thanh Trì và Thanh Oai nằm trong quận Văn Điển của thành phố Hà Nội do chính quyền Quốc gia Việt Nam lập ra. Năm 1956, 2 huyện này được trả về tỉnh Hà Đông và sau đó là tỉnh Hà Tây[2].
Ngày 20 tháng 4 năm 1961, huyện Thanh Trì được sáp nhập vào Hà Nội (trừ 4 xã: Liên Ninh, Việt Hưng (Ngọc Hồi), Đại Thanh (Tả Thanh Oai), Thanh Hưng (Đại Áng) nhập vào huyện Thường Tín; 4: xã Hữu Hòa, Kiến Hưng, Cự Khê, Mỹ Hưng nhập vào huyện Thanh Oai)[3]. Ngày 31 tháng 5 năm 1961, lập huyện Thanh Trì mới trên cơ sở hợp nhất huyện Thanh Trì cũ và quận VII cũ[4], gồm thị trấn Văn Điển và 21 xã: Đại Kim, Định Công, Đông Mỹ, Duyên Hà, Hoàng Liệt, Hoàng Văn Thụ, Khương Đình, Lĩnh Nam, Ngũ Hiệp, Tam Hiệp, Tân Triều, Thanh Liệt, Thanh Trì, Thịnh Liệt, Trần Phú, Tứ Hiệp, Vạn Phúc, Vĩnh Quỳnh, Vĩnh Tuy, Yên Mỹ, Yên Sở.
Ngày 17 tháng 2 năm 1979, 4 xã: Liên Ninh, Ngọc Hồi, Đại Áng, Tả Thanh Oai của huyện Thường Tín và xã Hữu Hòa của huyện Thanh Oai thuộc tỉnh Hà Sơn Bình sáp nhập vào huyện Thanh Trì[5]. Từ đó, huyện Thanh Trì có thị trấn Văn Điển và 26 xã: Đại Áng, Đại Kim, Định Công, Đông Mỹ, Duyên Hà, Hoàng Liệt, Hoàng Văn Thụ, Hữu Hòa, Khương Đình, Liên Ninh, Lĩnh Nam, Ngọc Hồi, Ngũ Hiệp, Tả Thanh Oai, Tam Hiệp, Tân Triều, Thanh Liệt, Thanh Trì, Thịnh Liệt, Trần Phú, Tứ Hiệp, Vạn Phúc, Vĩnh Quỳnh, Vĩnh Tuy, Yên Mỹ, Yên Sở.
Ngày 26 tháng 10 năm 1990, chuyển xã Hoàng Văn Thụ về quận Hai Bà Trưng quản lý, đồng thời chuyển thành phường Hoàng Văn Thụ.
Ngày 22 tháng 11 năm 1996, tách xã Khương Đình[6] cùng với một phần của quận Đống Đa (gồm 5 phường: Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân, Thượng Đình, Kim Giang, Phương Liệt, một phần 2 phường Nguyễn Trãi và Khương Thượng) và xã Nhân Chính thuộc huyện Từ Liêm[7] để thành lập quận Thanh Xuân[8], khi đó diện tích tự nhiên của huyện Thanh Trì là 9.791 ha (97,91 km²), gồm 24 xã: Đại Áng, Đại Kim, Định Công, Đông Mỹ, Duyên Hà, Hoàng Liệt, Hữu Hòa, Liên Ninh, Lĩnh Nam, Ngọc Hồi, Ngũ Hiệp, Tả Thanh Oai, Tam Hiệp, Tân Triều, Thanh Liệt, Thanh Trì, Thịnh Liệt, Trần Phú, Tứ Hiệp, Vạn Phúc, Vĩnh Quỳnh, Vĩnh Tuy, Yên Mỹ, Yên Sở và 1 thị trấn Văn Điển.
Ngày 6 tháng 11 năm 2003, tách 9 xã: Đại Kim, Định Công, Hoàng Liệt, Thịnh Liệt, Yên Sở, Vĩnh Tuy, Thanh Trì, Lĩnh Nam, Trần Phú và 55 ha diện tích tự nhiên của xã Tứ Hiệp cùng với 5 phường của quận Hai Bà Trưng là: Tương Mai, Tân Mai, Mai Động, Giáp Bát, Hoàng Văn Thụ để thành lập quận Hoàng Mai[9].
Sau khi chia tách, huyện Thanh Trì còn lại 6.317,27 ha diện tích tự nhiên với dân số 147.788 người (2003), gồm thị trấn Văn Điển và 15 xã: Đại Áng, Đông Mỹ, Duyên Hà, Hữu Hòa, Liên Ninh, Ngọc Hồi, Ngũ Hiệp, Tả Thanh Oai, Tam Hiệp, Tân Triều, Thanh Liệt, Tứ Hiệp, Vạn Phúc, Vĩnh Quỳnh, Yên Mỹ; xã Tứ Hiệp thuộc huyện Thanh Trì còn lại 412,20 ha và 9.584 người. Như vậy, huyện Thanh Trì hiện nay gần tương ứng với huyện Thanh Trì cũ trước năm 1961 (trừ hai xã Cự Khê và Mỹ Hưng nay thuộc huyện Thanh Oai, Kiến Hưng nay thuộc Hà Đông, một phần trước thuộc xã Tứ Hiệp nay thuộc quận Hoàng Mai).
Thanh Trì là mảnh đất có nhiều sản vật giá trị như: vải tiến làng Quang (xã Thanh Liệt), nghề dệt quai thao Triều Khúc, sơn vẽ Đông Phù, mây tre Vạn Phúc, bánh chưng Tranh Khúc, rượu hoa cúc Yên Ngưu, làm bánh kẹo Nội Am, làm chìa khóa Tương Chúc.
Trên địa bàn huyện Thanh Trì đã và đang hình thành một số khu đô thị lớn như: khu đô thị Đại Thanh thuộc xã Tả Thanh Oai, khu đô thị Cầu Bươu thuộc xã Tân Triều, khu đô thị Hồng Hà Park City, khu đô thị Tây Nam Kim Giang, khu đô thị Tân Triều, khu đô thị Ngọc Hồi, khu đô thị Tứ Hiệp.
tham khảo:
Chùa làng Ngọc Hồi, xưa thuộc tổng Cổ Điển, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông; nay thuộc xã Ngọc Hồi, huyện Thanh Trì, TP Hà Nội. Cuối thời Lê Trung Hưng quy mô chùa đã khá lớn. Sau chiến dịch Ngọc Hồi – Đống Đa đầu năm 1789, chùa bị hủy hoại nặng nề. Đến thời Nguyễn, chùa lại được khôi phục và tôn tạo. Thời máy bay Mỹ ném bom miền Bắc, chùa bị tàn phá năm 1972. Từ đó chùa đã được tiếp tục trùng tu, gần nhất là vào năm 2014-2015.
Vùng đất này đã đi vào lịch sử khi hoàng đế Quang Trung tự dẫn đại quân bao vây và hạ đồn Ngọc Hồi lúc rạng sáng ngày 30-1-1789. Phía quân Thanh, phó tướng của Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị là đề đốc Hứa Thế Hanh cùng tướng tiên phong Trương Triều Long đều bị chết. Quân Tây Sơn thừa thắng tiến lên và giải phóng hoàn toàn kinh thành Thăng Long vào chiều mồng 5 Tết Kỷ Dậu, trước khi nhân dân hạ nêu. 200 năm sau, ngay cạnh chùa Ngọc Hồi, một Đài chiến thắng khá lớn đã được dựng lên để kỷ niệm trận đánh oai hùng.
Theo truyền thuyết, chùa được dựng vào thời Trần. Khi ấy, Ngọc Hồi đã là một ngôi làng đông đúc có tên Vĩnh Khang, được cai quản bởi ông Bảo Công, Ả Mô nương và Nhị Mô nương là ba anh em. Sợ họ trở thành một thế lực quân sự đối địch, nên Trần Thủ Độ đã mang quân đến đánh, song thất bại. Rồi Bảo Công tự đem quân về với triều đình, được phong tướng và lập nhiều chiến công trong cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông. Sau khi ba anh em mất, vua Trần phong tặng họ là Quảng hoá đại vương, Ả Mô công chúa và Nhị Mô công chúa, giao cho làng Ngọc Hồi đời đời thờ phụng. Hiện trong đình Ngọc Hồi còn lưu giữ 16 đạo sắc phong cho 3 anh em.
Chùa Ngọc Hồi nằm ven sông Tô Lịch, cổng mở về hướng Nam ra con đường đi Lạc Thị. Tam quan cũ được xây phỏng theo phong cách nghệ thuật kiến trúc cuối thời Nguyễn, giống như kiểu tam quan của ngôi chùa ở làng Tự Khoát bên cạnh. Sau lần trung tu mới đây, một tam quan rất lớn bằng đá và bê tông đã được xây thêm và mở về hướng Tây ra bãi đỗ xe và con ngõ mới.
Tòa Tiền đường rộng 5 gian 2 dĩ, mặt quay về hướng Tây, kết nối với thiêu hương và thượng điện theo hình chuôi vồ. Phía sau cách một sân hẹp là nhà thờ Tổ. Sân Tiền đường rất rộng và rợp bóng các cây nhãn cổ thụ. Trong khuôn viên chùa còn có vườn tháp mộ và vườn cây ăn quả. Hai bên tòa Tam bảo là nhà Ni và nhà khách. Ngoài mạn giáp sông, ba mặt còn lại có dãy tường cao và rất dài che kín.
Chùa Ngọc Hồi còn lưu giữ 42 pho tượng tròn, phần lớn được tạo tác vào quãng thế kỷ 18, 19; một quả chuông “Ngọc Hồi tự chung” đúc năm Minh Mệnh thứ 5 (1824), 6 tấm bia đá (4 bia chữ Quốc ngữ, 2 bia chữ Nho), 2 phù điêu, 3 đôi câu đối, 4 bức hoành phi và nhiều đồ tự khí. Ngày 09-01-1990, Bộ Văn hóa –Thông tin đã công nhận chùa là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 6 - Là năm đầu tiên của cấp trung học cơ sở. Được sống lại những khỉ niệm như ngày nào còn lần đầu đến lớp 1, được quen bạn mới, ngôi trường mới, một tương lai mới!
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK