Trang chủ Ngữ văn Lớp 6 So sánh lũ ở Đồng Tháp Mười vs lũ ở...

So sánh lũ ở Đồng Tháp Mười vs lũ ở nơi khác câu hỏi 2903174 - hoctapsgk.com

Câu hỏi :

So sánh lũ ở Đồng Tháp Mười vs lũ ở nơi khác

Lời giải 1 :

Tác giả: KSC. Nguyễn Tất Đạt
Phó Phòng Kế hoạch-Tổng hợp 

 

Ở Đồng bằng sông Cửu Long, kiểm soát lũ luôn là bài toán lớn và phức tạp, cả về kỹ thuật (giải pháp, mô hình...), kinh tế (nghiên cứu, đầu tư...), xã hội (bố trí dân cư, an toàn cho người dân...) và môi trường (tác động đến phân bố lũ, ô nhiễm trong vùng kiểm soát lũ...).

Đặc biệt, bài toán lại càng trở nên khó hơn đối với vùng Đồng Tháp Mười, nơi được xem là “đồng lụt kín”, khả năng nhận lũ thì cao mà khả năng thoát lũ thì kém. ĐTM, với dải biên giới ngập lũ dài khoảng 100 km, không chỉ bị ngập sâu trong nước lũ từ 2-4 m, mà còn là nơi chuyển lũ từ vùng ngập Campuchia sang, với lưu lượng 8.000-10.000 m3/s trong những năm lũ lớn và những năm lũ nhỏ cũng không dưới 3.000 m3/s. Hướng kiểm soát lũ chính cho cả 2 vùng TGLX và ĐTM được xác định là dòng lũ tràn theo dải biên giới. Tuy nhiên, khả năng tiếp nhận vào nội đồng và thoát lũ ra các cửa sông/rạch/kênh như thế nào, để vừa đảm bảo về mặt kỹ thuật, kinh tế, xã hội và môi trường, vừa không gây tác động tiêu cực lên mực nước lũ dải biên giới phía nước bạn Campuchia mà Hiệp định Mê Công về phát triển bền vững năm 1995 đã nêu, là vấn đề mà chúng ta quan tâm.

1. Một số đặc trưng lũ năm 1996 tại vùng Đồng Tháp Mười

Đặc trưng                                                                                     Định lượng
Qmax lũ vào 1996 (m3/s)                                                                8.270
- Tứ Thường                                                                                       2.534
- Dọc kênh Tân Thành-Lò Gạch                                                     8.270
Tổng lượng (tỷ m3)                                                                            26,8
- Mưa nội đồng                                                                                   4,0 (13%)
- Từ sông Tiền đến kênh Tân Thành                                             16,6 (51%)
- Từ kênh Tân Thành đến rạch Long Khốt                                   13,2 (41%)
- Từ sông Tiền theo các kênh ngang                                             2,5 (8%)
- Qua Quốc lộ 30                                                                                9,3 (26%)
- Qua Quốc lộ 1                                                                                  10,8 (30%)
- Qua sông Vàm Cỏ Tây (tại Tân An)                                             10,2 (39%)
- Qua sông Vàm Cỏ Đông                                                                2,0 (22%)
Qmax lũ ra 1996 từ Phong Mỹ tới Mỹ Tho (m3/s)                         4.880

2. Cơ sở lý luận và thực tiễn 

2.1 Kiểm soát dòng chảy lũ
             Nguyên nhân ngập lũ ở vùng ĐTM là do nước lũ sông Mekong, thủy triều ở Biển Đông, mưa ở nội đồng, địa hình, địa mạo, mạng lưới sông ngòi kênh rạch, các đường giao thông và các tác động khác của con người. Mức độ ngập lũ ở ĐTM tùy theo không gian và thời gian trong mùa lũ. Độ ngập sâu giảm dần theo hướng Tây Bắc-Đông Nam. Từng năm lũ lớn độ duy trì cấp mực nước khác nhau, thời gian duy trì cấp mức nước cũng khác nhau. Lũ ở thượng nguồn sông Mekong tràn vào ĐTM vào theo 2 hướng:
-           Tràn qua 185 km biên giới Việt Nam-Campuchia
-           Theo các kênh rạch ngang từ sông Tiền sang phía sông Vàm Cỏ, đoạn từ Phong Mỹ lên Hồng Ngự vào (kênh Hồng Ngự, An Bình, Đồng tiến, rạch Đốc Vàng Hạ…). 
-            Mưa nội đồng chỉ chiếm 4-10% tổng lượng so với tổng lượng ngoại lai nên lượng mưa chỉ làm tăng mức độ ngập chứ không phải là nguyên nhân chính.
-          Thủy triều biển Đông truyền lên theo sông Tiền và hệ thống sông Vàm cỏ cũng tương tự như đối với mưa, nếu lũ về gặp đỉnh triều cao thì làm tăng mức độ ngập và ngược lại.
-            Hệ thống công trình dẫn và thoát lũ hiện có cũng ảnh hương như vậy.
Đối với những năm lũ lớn, tổng lượng nước lũ tràn qua biên giới vào ĐTM lên tới 58 tỷm3, với lưu lượng lớn nhất theo thực đo và tính toán lên tới 10.000 m3/s. 
Như vậy, cơ sở thứ nhất là: Nếu kiểm soát được lượng lũ tràn qua biên giới và ở sông Tiền vào vùng ĐTM thì hoàn toàn có thể kiểm soát được mức nước lũ và điều khiển lưu lượng lũ vào vùng này.

2.2 Kiểm soát dòng phù sa
-           Hàm lượng phù sa trên sông Tiền:
            Căn cứ vào số liệu đo đạc bùn cát tại 2 vị trí Tân Châu và Châu Đốc 3 tháng mùa lũ tháng VIII, IX, X trong 4 năm 1980, 1981, 1982 và 1997 có thể đánh giá như sau:
Tại Tân Châu, độ đục trung bình 800-900 g/m3, trong đó tháng VIII có hàm lượng cao nhất sau đó giảm dần. Ngay trong mùa lũ độ đục cũng biến đổi khá lớn, có thời điểm chỉ đạt 200-300 g/m3 (17/VIII/1981), trong khi đó độ đục trung bình mùa cạn chỉ giao động từ 5-100 g/m3. Hàm lượng phù sa giảm dần về phía hạ lưu.
-        Hàm lượng phù sa đo năm 1991 (g/m3)

Vị trí

Tháng VIII

Tháng IX

Tháng X

Tân Châu

880687789

Hồng Ngự

840610289

An Long

568516 

An Phong

336240110

Phong Mỹ

407246 -        Hàm lượng phù sa dọc biên giới Việt Nam-Campuchia:
Trong mùa lũ năm 1996, từ ngày 10/VIII đến 10/XII, trên dải biên giới đã bố trí 12 trạm quan trắc thường xuyên và phân tích nhiều chỉ tiêu về chất lượng nước, trong phạm vi báo cáo này giới thiệu 2 chỉ tiêu chính: phù sa và độ chua pH. Kết quả thu nhận được cho thấy, hàm lượng phù sa dọc biên giới chỉ bằng 1/15-1/20 hàm lượng phù sa trên sông chính và nó giảm dần từ tháng VIII đến tháng XII. Nước không thấy bị nhiễm phèn, chỉ số pH đo được lớn hơn 5. 
-         Hàm lượng phù sa nội đồng: 
Phù sa sông Tiền không có khả năng đưa sâu vào nội đồng vì lượng nước tràn qua biên giới là dòng chủ lưu ngăn cản dòng chảy từ sông Tiền vào ĐTM. Qua đo đạc và tính toán cho thấy lượng nước lũ tràn từ biên giới chiếm 88%, còn từ sông Tiền vào chỉ chiếm 12% tổng lượng nước vào ĐTM. Trên kênh Phước Xuyên nằm cách sông Tiền khoảng 30 km, hàm lượng phù sa chỉ còn 20-30 g/m3.
Cơ sở thứ hai là: Kiểm soát lũ tràn biên giới vào ĐTM chính là đẩy lượng nước ô nhiễm, nước ít phù sa từ nội đồng Campuchia ra sông Tiền-sông Vàm Cỏ. Lấy thật nhiều nước chưa ô nhiễm hoặc ít ô nhiễm, nước nhiều phù sa từ sông Tiền vào nội đồng.

2.3 Kiểm soát lan truyền chua phèn

           Nước chua trong ĐTM là do phèn nội tại được sản sinh từ đất phèn (chiếm 56% diện tích tự nhiên). Mùa khô đất phèn bị ôxy hóa đến đầu mùa mưa thì quá trình phản ứng hóa học xảy ra. Một lượng nước phèn sinh ra và chúng lan truyền trên đồng và trên kênh rạch làm cho 70% diện tích đất bị nhiễm phèn với độ pH từ 3,0-4,2. Thời gian nhiễm phèn từ tháng V đến hết tháng VII, cá biệt tại một số khu vực thấp trũng được gọi là " trung tâm phèn" nổi tiếng như Bắc Đông, Tràm Chim, Bo Bo... thời gian nhiễm phèn kéo dài 5-6 tháng và ngay cả cuối mùa lũ (XII, I) vẫn còn nuớc phèn ở các đầm đìa, kênh rạch lung trũng ở các vùng trên. Kiểm soát lũ tràn sẽ giúp có điều kiện để dùng nước lũ đẩy nhanh chua phèn vào đầu và cuối mùa mưa.

2.4 Kiểm soát xâm nhập mặn

            Nước mặn biển Đông được thủy triều đưa vào ĐTM theo 2 hướng: (i) sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây xâm nhập vào phía Đông Nam ĐTM; (ii) sông Tiền qua các rạch Nguyễn Tấn Thành, Bảo Định, Chợ Gạo xâm nhập vào phía Nam ĐTM.
Trong 2 hướng xâm nhập thì hướng theo 2 sông Vàm Cỏ là nghiêm trọng nhất. Ranh giới mặn 4 g/l trên sông Vàm Cỏ Đông đến Xuân Khánh cách biển 130 km, trên sông Vàm Cỏ Tây đến Tuyên Nhơn cách biển 149 km. Trên sông Tiền tại Mỹ Tho cách biển 43 km. Các năm gần đây 1990, 1993 và năm 1998 nước mặn xâm nhập sâu, thời gian duy trì dài và nồng độ cao hơn. Diễn biến mặn rất phức tạp, đã có nhiều nghiên cứu đánh giá đi tìm nguyên nhân tình trạng này, trong đó có vấn đề về nguồn nước sông Tiền đưa vào ĐTM. 
           Vậy, cơ sở thứ ba là: Kiểm soát lũ tràn biên giới vào ĐTM mà không làm ảnh hưởng tới lượng nước dùng để thau chua-rửa phèn gia tăng sự xâm nhập mặn trong cùng điều kiện.
           Phù hợp với hiệp định về Hợp tác phát triển bền vững hạ lưu sông Mekong mà 4 nước hạ lưu sông Mekong là Vương quốc Campuchia, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Vương quốc Thái Lan và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký tại Chieng Rai (Thái Lan) ngày 05/4/1995. Yêu cầu khi tính toán xây dựng công trình lũ phải đảm bảo duy trì hiện trạng mực nước lớn nhất 1961 tại Tân Châu (5,28 m) và Châu Đốc (4,94 m). Không làm gia tăng độ ngập ở vùng hạ lưu sông Vàm Cỏ, bao gồm đỉnh lũ và thời gian ngập lũ. 
           Kết hợp chặt chẽ với các ngành liên quan, trước hết là giao thông, bố trí dân cư, sử dụng đất và sản xuất nông nghiệp, không gây mâu thuẫn, giảm giá thành xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội. Các công trình kiểm soát lũ vận hành thuận lợi ứng với các trận lũ khác nhau để phục vụ tích cực cho các yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội toàn vùng Đồng Tháp Mười. Kết hợp với các ngành giao thông, xây dựng và 2 tỉnh tạo điều kiện hình thành tuyến đường quốc lộ N1 và tuyến dân cư biên giới, góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế, xã hội trong vùng, bảo vệ an ninh biên giới phía tây Nam của Tổ quốc.
Từ đó, cơ sở thứ tư là: Công trình và hệ thống công trình kiểm soát lũ tràn biên giới vào ĐTM phải đã phục vụ tối đa vào mục tiêu phát triển tổng hợp vùng.

Thảo luận

Lời giải 2 :

Chế độ mưa sinh lũ

a. Nguyên nhân gây mưa sinh lũ

Thừa Thiên Huế là một tỉnh ven biển miền trung, có khí hậu nóng, ẩm, mưa nhiều, dòng chảy trong sông được hình thành chủ yếu từ mưa. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 và kết thúc vào tháng 12, mùa lũ bắt đầu từ tháng 10 và kết thúc vào tháng 12. Sự lệch nhau giữa thời điểm bắt đầu mùa mưa, mùa lũ là do lượng mưa đầu mùa phải bổ sung lượng ẩm cho đất, nên khả năng sinh dòng chảy từ mưa trong thời kỳ này nhỏ. Tháng 10, 11 là những tháng có lượng mưa lớn nhất năm đồng thời cũng là tháng thường xuyên xảy ra lũ lụt với tần suất và cường độ tương đối lớn.

Thừa Thiên Huế có mạng lưới sông suối phần lớn đều bắt đầu và kết thúc trọn vẹn trong lãnh thổ (trừ sông A Sáp đổ vào lãnh thổ của Lào và sông Ô Lâu, Ô Giang đổ vào lãnh thổ của tỉnh Quảng Trị) nên dòng chảy nói chung và lũ lụt nói riêng không chịu sự chi phối của dòng chảy ở bên ngoài lãnh thổ.

Các hình thế thời tiết thường gây mưa lớn, sinh lũ là:

* Bão, áp thấp nhiệt đới (ATNĐ)

Bão và áp thấp nhiệt đới là một trong những loại hình thời tiết nguy hiểm, thường ảnh hưởng vào tháng 9, 10, 11, đặc biệt là tháng 9, 10. Tuy nhiên, có năm bão và áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng sớm hơn, có năm ảnh hưởng muộn và có năm không có cơn bão nào ảnh hưởng.

Khi ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp thường gây mưa lớn kéo dài trên diện rộng, có khả năng gây lũ lớn đều khắp ở các sông trong tỉnh. Đặc biệt, khi chúng đổ bộ trực tiếp vào địa phận của tỉnh, gió mạnh sẽ làm cho nước biển càng dâng cao, tăng mức độ lũ và ngập úng.

* Hội tụ nhiệt đới (HTNĐ)

Thường hoạt động ở Thừa Thiên Huế vào các tháng 9, 10. Có năm hình thế thời tiết này hoạt động vào tháng 5, 6, có thể gây mưa sinh lũ tiểu mãn. Lượng mưa do loại hình này gây ra cũng rất lớn, nhất là khi kết hợp với loại hình thời tiết khác. Có năm lượng mưa ngày lớn nhất lại rơi vào thời kỳ tiểu mãn, tuy nhiên vào thời kỳ này đang là mùa cạn, mưa bị tổn thất lớn nên thường sinh lũ nhỏ.

* Gió mùa đông bắc (GMĐB)

Gió mùa đông bắc thường xuất hiện vào tháng 10, 11, 12 có năm kéo dài đến tháng 3 năm sau. Khi khối không khí lạnh trong gió mùa mùa đông phát triển mạnh tràn về phía nam, kết hợp với khối không khí nhiệt đới nóng ẩm, sẽ gây nên hiệu ứng Front gây mưa khá lớn. Loại hình này khi hoạt động đơn lẻ thường cho mưa ít, nhưng khi kết hợp với loại hình thời tiết khác như HTNĐ, bão hoặc ATNĐ,... hoạt động ở phía nam sẽ gây mưa rất lớn.

Khi các hình thế thời tiết nguy hiểm kết hợp với nhau thường gây ra mưa rất lớn, diễn biến mưa lũ phức tạp, gây khó khăn cho công tác phòng chống.

b. Đặc điểm mưa sinh lũ

Thừa Thiên Huế là một trung tâm mưa lớn của cả nước. Lượng mưa TBNN trên 2600mm, có nơi trên 4000mm, như Bạch Mã, Lộc Tiến, Truồi,... nhưng phân bố không đều theo thời gian và không gian.

* Phân bố không đồng đều theo thời gian

Chỉ tính riêng 4 tháng mùa mưa (9-12) lượng mưa đạt từ 1800¬3200mm, chiếm 50-65% lượng mưa năm, trong đó 2 tháng mưa lớn nhất (10, 11) từ 1400-1900 mm chiếm tới 40-50% lượng mưa năm.

* Cường độ mưa

Mưa lớn thường xuất hiện vào tháng 10, 11, tuy nhiên cũng có năm mưa lớn xuất hiện vào tháng 5, 6 nhưng tần suất xuất hiện rất nhỏ. Ở trong tỉnh mưa thường xảy ra trên diện rộng, mưa với cường độ lớn và tập trung trong một vài ngày nên rất dễ gây nên lũ quét và sạt lở đất vùng núi và xói lở bờ sông. Điển hình là đợt mưa lũ đầu tháng 11/1999, mưa toàn tỉnh phổ biến 1500-2300mm, mưa tập trung chủ yếu vào ngày 02-04/11/1999, đặc biệt tại Huế mưa trong 1 giờ đạt 120mm, A Lưới là 96mm; trong 24 giờ lượng mưa tại Huế đạt 1422mm (từ 6h ngày 02 đến 6h ngày 3) và tại A Lưới là 891mm (từ 11h ngày 01 đến 11h ngày 02). Đợt mưa này đã gây nên lũ lịch sử cho vùng trung và hạ lưu các sông thuộc Thừa Thiên Huế.

* Mưa sớm và mưa muộn sinh lũ

Mùa lũ được xác định là từ tháng 10-12, mưa lũ lớn tập trung chủ yếu vào tháng 10, 11. Tuy nhiên, thực tế có năm mưa lũ xảy cả vào tháng 9 hoặc tháng 1. Vào tháng 9, lưu vực vừa mới trải qua mùa khô nên mưa bị tổn thất nhiều và lượng trữ nước trong sông nhỏ, do đó để sinh lũ được trong các tháng này cần có lượng mưa lớn. Qua số liệu mưa tại các trạm cho thấy, nhìn chung lượng mưa tháng 9 vùng núi phổ biến 400-500mm, thường lớn hơn vùng trung du và đồng bằng. Vào tháng 1, lưu vực đã bão hòa về độ ẩm, dòng chảy trên các sông còn ở mức cao, nên dễ sinh lũ khi có mưa. Tổng lượng mưa tháng 1 phổ biến 120-150mm.

* Mưa gây lũ tiểu mãn

Tháng 5, 6, Thừa Thiên Huế thường chịu ảnh hưởng bởi hoạt động của dải hội tụ nhiệt đới nên thường xuất hiện một số đợt mưa to. Có năm lượng mưa ngày lớn nhất năm xuất hiện trong thời kỳ này, như trận mưa từ 20-23/6 năm 1979 tại Huế là 413,7mm, riêng ngày 21 là 254,7mm. Tần suất xuất hiện lượng mưa tháng 5, 6 đạt trên 100mm đạt trên 45%.

Đồng Tháp Mười những năm lũ lớn

Những trận lũ lịch sử nhấn chìm nhà cửa, trường học, làm nhiều người chết... nhưng cũng mang phù sa, nguồn lợi thủy sản dồi dào cho Đồng bằng sông Cửu Long.

Sáng sớm cuối tháng 9, ông già Mười (64 tuổi, xã Tân Lập, huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An) chạy xe máy ra khu chợ cách nhà hai cây số. Lát sau, ông trở về với mớ cá mè nhỏ tầm một ký, lắc đầu bảo: "Tao sống cả đời ở vùng lũ một thời cá ục như cơm sôi, mà năm nay phải đi chợ mua, bây coi đời kỳ lạ không".

Gần nhà ông, chiếc vó cá khung sắt, trụ bêtông của vợ chồng hàng xóm vừa đầu tư hơn 13 triệu đồng. Đặt vó suốt từ đêm hôm trước đến giữa trưa, họ kéo chiếc đục đựng cá xem thử, ước chừng gần hai ký cá phi, rô, trê, lau kiếng. Đang vào mùa lũ, nhưng mực nước sông thấp hơn con đường đê bao đến hơn một thước. Bên trong đê, cánh đồng lúa vừa gặt xong trơ gốc rạ, đất nứt nẻ vì nắng nóng.

Ông già Mười nhớ như in, tại cánh đồng này tầm 10, 20 năm về trước, mỗi năm lũ về, sáng sớm cả cánh đồng trắng xóa một màu hoa súng dại. Giữa đồng, những chiếc xuồng ba lá lướt đi nặng trĩu, rộn tiếng cười đùa của những người hái bông súng, hẹ nước, bông điên điển... Dưới mặt nước, cơ man nào là rong đuôi chồn, mã đề thi nhau mọc, làm ngôi nhà lý tưởng cho lũ cá rô, cá linh, trê, lóc.

"Thời đó, kéo vó cá không ai tính ký, mà đong bằng giạ, mỗi giạ tương đương 20 kg, mỗi đêm bèo nhất cũng phải 5-7 giạ. Còn cá linh chỉ cần bủa 20 m lưới hai phân rưỡi, nửa tiếng sau kéo lên không nổi, chỉ lựa vài con ăn, còn lại ủ nước mắm hoặc nấu cho heo ăn", ông già Mười kể.

Trong trí nhớ của lão nông, lũ lớn, cá từ thượng nguồn về sinh sản nhiều vô số kể, cộng với cá từ các ao nuôi bị ngập sổng ra, nên dưới kênh lúc nào cũng thấy cá đớp móng. Cá tra dầu, bông lau đi theo từng đàn hàng nghìn con. Thợ giăng câu ngồi ở mũi xuồng móc mồi chuối, trùn phía trước, phía sau cá đã cắn câu kéo liệt phao, họ chỉ lựa con lớn mà bắt, con nhỏ thả. Ở những ngã ba, ngã tư sông, những chiếc lợp dài 4-5 m, đường kính 2,5 m có khi giở lên hàng trăm ký cá tra. Lợp nào hơi cũ phải xả bỏ bớt vì không có chỗ chứa, phần vừa sợ cá giãy hư.

Vào mùa lũ rút, khi nước chỉ cao ngang thắt lưng, người dân dùng những đoạn dây thắng xe bằng kim loại nối với thanh gỗ, mỗi người một đầu đi dọc thửa ruộng dọn bớt đám rong, bông súng rồi gom lại ở góc ruộng. Ngoài việc giữ lại phù sa cho ruộng đồng, rong và bông súng tiếp tục là phân xanh cho đất ở vụ mùa kế tiếp. Những năm đó, đất đai màu mỡ, mầm bệnh, cỏ dại bị lũ rửa trôi vì thế người dân hầu như ít khi dùng phân bón, thuốc hóa học.

Cách nhà ông già Mười gần một cây số, buổi chiều, ông Năm Minh người gầy đét, dáng nhỏ thó kêu đứa con trai dừng xe máy trước căn nhà ven kênh Bảy Ngàn. Căn nhà cấp bốn xây tường gạch chắc chắn, phía trước là con đường rộng gần 3 m đã được đổ bêtông dày hai tấc.

"Ở đây hồi xưa là con đường mòn đất nhỏ xíu, mùa này đã chìm dưới 2-3 thước nước. Còn chỗ cái nhà tường trước đây là căn chòi lá, tao vẫn thường hay cột xuồng ở đó mỗi khi đi giăng lưới về", Năm Minh giọng run run, chỉ tay về phía cái sân gạch trước căn nhà giờ là của người khác, nói với đứa con trai. Đốt vội điếu thuốc, ông già 62 tuổi đứng lặng im, mắt rưng rưng, ký ức từ những mùa lũ năm xưa bất chợt ùa về.

Bạn có biết?

Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.

Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

Tâm sự 6

Lớp 6 - Là năm đầu tiên của cấp trung học cơ sở. Được sống lại những khỉ niệm như ngày nào còn lần đầu đến lớp 1, được quen bạn mới, ngôi trường mới, một tương lai mới!

Nguồn : ADMIN :))

Liên hệ hợp tác hoặc quảng cáo: gmail

Điều khoản dịch vụ

Copyright © 2021 HOCTAPSGK