Những câu tục ngữ: "Đường dài hay sức ngựa, nước loạn biết tôi ngay", "Gặp cơn đại loạn mới hay trung thần" là sự đúc kết kinh nghiệm, rút ra bài học về phẩm chất đạo đức của bề tôi đối với vua chúa, minh chủ… bộc lộ trong chiến tranh.Câu triết luận khác trong kho tàng tục ngữ Việt Nam: "Có gió rung mới biết tùng bách cứng, có ngọn lửa hừng mới biết thức vàng cao", một mặt, không phải là quá trừu tượng, khó hiểu đối với người lĩnh hội; mặt khác, quan trọng hơn, có tính khái quát cao và chứa đựng ý nghĩa, giá trị rất sâu sắc. Cây "tùng, bách" và vật phẩm "vàng" ở đây được dùng hoán đổi cho "phẩm chất đạo đức của con người". Qua bão táp, ta sẽ biết tùng, bách cứng cáp, vững chắc hoặc yếu mềm, gục ngã; và qua lửa đỏ, sẽ biết được giá trị cao hay thấp, thực hay giả của "vàng". Triết lý mà câu tục ngữ này muốn chuyển tải không phải gì khác hơn là, muốn biết phẩm chất đạo đức của con người tốt xấu như thế nào phải kiểm nghiệm qua thực tiễn.Câu tục ngữ: "Lửa thử vàng, gian nan thử đức" muốn nói rằng, cần phải thông qua công việc khó khăn gian khổ, hay một cách khái quát hơn, phải thông qua hoạt động thực tiễn để kiểm định, đánh giá đạo đức của con người. "Lửa" và "vàng" trong câu triết luận này là một thủ pháp nghệ thuật (ẩn dụ, hoán dụ). Ngọn "lửa" biểu thị những khó khăn, thử thách mà con người thường gặp trong cuộc sống và "vàng” biểu thị năng lực, bản lĩnh, phẩm chất đạo đức của con người.Hàng loạt câu tục ngữ khác, như "Cây xanh thì lá cũng xanh, cha mẹ hiền lành để đức cho con"; "Cha anh hùng, con hảo hán"; "Của rẻ của ôi, tôi rẻ tối trốn, vợ rẻ vợ lộn"; "Nứa trôi sông chẳng giập thì gãy, gái chồng rẫy chẳng chứng nọ thì tật kia” đều phản ánh sự suy luận về phẩm chất đạo đức của con người trên cơ sở những nhận thức trực quan, cảm tính. Nội dung, ý nghĩa chính được hàm chứa trong các triết lý trên và chuyển tải đến người tiếp cận chúng là: bởi cha mẹ hiền, suy ra con cái họ cũng có đạo đức tất; người đàn bà đã bị chồng khước từ, ruồng bỏ có thể là người có vấn đề về phẩm chất đạo đức.Câu triết luận rằng, “thức lâu mới biết đêm dài, ở lâu mới biết con người có nhân" thực sự sâu sắc, nó là lời nhắc nhở chung đối với mọi người trong việc nhận thức, đánh giá thế giới quanh mình, kể cả con người; đặc biệt là cho những ai có thói quen mới tiếp xúc, công tác với người khác được một thời gian không lâu, thậm chí là quá ngắn ngủi đã vội đưa ra những nhận xét không đúng về phẩm chất đạo đức của họ. Những ai có phần vội vàng như thế trong đánh giá, nhận xét con người nói chung, phẩm chất đạo đức của con người nói riêng thì thường sớm có lời khen rồi lại nhanh có sự chê bai, cái chính đều do mình phát ngôn trước đó. Nói tóm lại, để kiểm định được phẩm chất đạo đức của con người một cách chính xác thì cần phải có thời gian. Câu tục ngữ đã dẫn ở trên là một triết lý mang tính khái quát và có giá trị chỉ dẫn cho chúng ta trong việc xem xét, kiểm định đạo đức của con ngườ
1. Trong xã hội truyền thống, vai trò nắm giữ học vấn và dẫn đạo tư tưởng của trí thức được nắm giữ bởi tầng lớp sĩ (kẻ sĩ, sĩ phu) - tầng lớp đứng đầu tứ dân trong bảng thang sĩ - nông - công - thương. Mục tiêu lớn nhất của kẻ sĩ là ông quan (thông qua thi cử). Phẩm chất trí thức, trong trường hợp này, không phải là phẩm chất duy nhất của kẻ sĩ. Nó chỉ là một thành tố trong một cấu trúc nhân cách phức tạp hơn: ông quan. Tính tòng thuộc và không độc lập của phẩm chất trí thức bắt nguồn từ thực tế này.
Từ kẻ sĩ trở thành ông quan, như thế, không phải là sự phát triển về chất của tri thức mà là sự thay đổi, một dịch chuyển về thứ bậc xã hội. Từ đây kẻ sĩ không còn ở trong tứ dân mà thuộc về một đẳng cấp xã hội mới trong mô hình vua - quan - dân. Đây không phải là mô hình ở đó các vai trò xã hội (tương ứng với nó là những mô hình nhân cách) tồn tại trên cùng một mặt bằng. Vua - quan - dân là một tổ chức theo trục dọc, mang tính tôn ty chặt chẽ. Quan lại cai trị dân, là “phụ mẫu chi dân” nhưng trong quan hệ với thiên tử ông ta chỉ là một thần tử với những bổn phận và khuôn phép đã được quy định trước, không thể việt vị. Vì lẽ đó, ông quan vẫn chỉ là một thứ - nhân cách, bị chế định và bị quy chiếu vào một nhân cách cao hơn: thiên tử. Nếu như đòi hỏi tối cao của người trí thức là truy cầu chân lý và vì thế thường đóng vai trò phản biện đối với trật tự xã hội hiện tồn thì chức phận của một ông quan lại đòi hỏi phải được đặt lên hàng đầu phẩm chất của chữ trung. Với trật tự hiện hành, ông quan có thể dâng biểu tấu, điều trần, thậm chí đàn hặc nhưng quyền quyết định tối hậu vẫn thuộc về thiên tử. Lịch sử đã ghi lại đây đó những lời can gián thật thống thiết của những danh thần nhưng, như thực tế đã xác nhận, phần lớn chúng đều chỉ là những lời độc thoại. Và thường thì việc can gián cần phải được tiến hành với rất nhiều những nghi thức. Tận cho đến cuối thế kỷ XIX, Nguyễn Trường Tộ, dù không bị ràng buộc bởi cân đai của một triều thần, khi dâng bản điều trần phê phán lối học tập hư văn, phù phiếm mà theo ông triều đình phải chịu một phần trách nhiệm vẫn phải có những lời rào đón, thăm dò với không ít những e dè1 . Bi kịch lớn nhất của kẻ sĩ với tư cách trí thức quan liêu, đúng như Trần Nho Thìn đã chỉ ra qua trường hợp của Nguyễn Trãi, là ở chỗ: luôn “có nguy cơ bị biến thành một công chức đơn thuần, thừa hành lệnh trên, một thứ chuyên viên cao cấp chứ không phải là một nhà văn hóa chính trị”2. Và điều này là có lý do. Không có một thiết chế văn hóa nào, trong một xã hội chuyên chế, đảm bảo cho nhân tố trí thức ở ông quan có thể hiện diện, tồn tại một cách độc lập.
Không phải kẻ sĩ nào cũng có cơ may tham gia vào đội ngũ trí thức quan liêu. Phần lớn họ tồn tại trong dân gian với cương vị thầy đồ, thầy thuốc, thầy địa lý... Không gian để họ hành xử: trong biên giới của một làng xã cụ thể. Tính chất tự trị của làng xã cùng với khả năng mưu sinh bằng những tác nghiệp cụ thể chứ không phải từ bổng lộc của vua ban khiến kẻ sĩ có được cái tự tại, nhàn dật của một kẻ ngoài vòng cương tỏa nhưng cũng vì thế mà họ bị đẩy ra xa hơn với trung tâm điều phối chính thống của xã hội. Ngoài việc hành nghề, kẻ sĩ chủ yếu tác động đến đời sống cộng đồng bằng cách nêu gương từ chính những ứng xử của mình trong cuộc sống. Cũng có khi họ đóng vai trò tạo lập và hướng đạo cho dư luận để đối đầu với quan lại khi những bậc cha mẹ dân này không thực hiện đúng chức trách của mình. Khả năng tác động của họ đến thực tiễn, trong trường hợp này, có thể trực tiếp hơn, đa dạng hơn nhưng vì ở một vị thế thấp hơn trên bảng thang thứ bậc xã hội nên phạm vi, và tính chất tác động cũng khiêm tốn hơn; tuy liên tục trong thời gian nhưng không thoát khỏi tính chất nhỏ lẻ.
Như thế: trong cả hai trường hợp tồn tại của kẻ sĩ trong xã hội truyền thống ta không thấy những cơ sở cho phép họ tồn tại với tư cách người sản xuất những tư tưởng, tìm kiếm chân lý (một thuộc tính quan trọng bậc nhất của người trí thức hiện đại). Chẳng những thế, bị mặc định trong thân phận của một thần tử, nhân cách của kẻ sĩ luôn bị quy chiếu, tòng thuộc vào thiên tử khiến cho sự độc lập, chủ động, năng động của họ trước những vấn đề của thực tiễn đời sống bị giảm thiểu. Cái tâm thế Hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió đông với nỗi niềm Chừng nào thánh đế ơn soi thấu của Nguyễn Đình Chiểu không hề là sáo ngữ mà là một thực tế nghiệt ngã của kẻ sĩ trong xã hội phong kiến.
Tiếng Việt, cũng gọi là tiếng Việt Nam Việt ngữ là ngôn ngữ của người Việt và là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam. Đây là tiếng mẹ đẻ của khoảng 85% dân cư Việt Nam cùng với hơn 4 triệu Việt kiều. Tiếng Việt còn là ngôn ngữ thứ hai của các dân tộc thiểu số tại Việt Nam và là ngôn ngữ dân tộc thiểu số tại Cộng hòa Séc.
Nguồn : Wikipedia - Bách khoa toàn thưLớp 5 - Là năm cuối cấp tiểu học, áp lực thi cử nhiều mà sắp phải xa trường lớp, thầy cô, ban bè thân quen. Đây là năm mà các em sẽ gặp nhiều khó khăn nhưng các em đừng lo nhé mọi chuyện sẽ tốt lên thôi !
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK