Lời giải 1 :
“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”
Nguyễn Du, nhà thơ của chủ nghĩa nhân đạo cao cả, của tình người sâu nặng. Truyện Kiều của ông đã đến và đọng lại trong lòng người đọc suốt mấy trăm năm nay bằng niềm tự hào lẫn ngưỡng mộ. Sự thành công của tác phẩm không chỉ ở giá trị nhân đạo mà còn ở giá trị nghệ thuật độc đáo, đặc biệt là nghệ thuật tả người. Bằng bút pháp ước lệ tượng trưng và cả tấm lòng yêu quí trân trọng, Nguyễn Du đã phác họa vẻ đẹp của Thúy Vân Thúy Kiều vô cùng ấn tượng, để lại niềm yêu mến cảm phục trong lòng biết bao người đọc.
Đọc đoạn trích này ta ấn tượng nhất là những câu thơ sau đây:
“.................1……........
….
………….6…………..”
Những câu trên nêu lên…………………………………………………………
(PHẦN NÀY BẠN LẤY PHẦN THƠ MÀ BẠN CẢM THẤY HAY NHẤT RỒI GHI NGHĨA CỦA NÓ TA NHA ^^
“Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Với ngòi bút miêu tả ước lệ của văn chương cổ, hai chị em Thúy Kiều Thúy Vân nhẹ nhàng thanh thoát từ trong tranh bước ra như hai vầng trăng dịu mát. Vẻ đẹp ấy tựa hằng nga tiên nữ ở cõi bồng lai. Từ vóc dáng đến tâm hồn đều hoàn mỹ, dáng hình thanh tú mảnh khảnh như cành mai, tâm hồn sáng trong tinh sạch chưa vướng chút bụi trần. Bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, một câu thơ ngắn gọn mà Nguyễn Du đã gợi tả được vẻ đẹp từ hình dáng đến tâm hồn và cả vẻ đẹp riêng chung. Cả hai đều hoàn mỹ không một khiếm khuyết: “Mười phân vẹn mười” Vẻ đẹp này còn được ông khẳng định qua hai câu thơ:
“Bóng hồng nhác thấy nẻo xa
Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai”
Bốn câu thơ với cách ngắt nhịp 2 /2/ 2 thật đều đặn đã tạo ra ấn tượng nhẹ nhàng cho sự xuất hiện của nhân vật bằng những hình ảnh hài hòa cân đối như tranh vẽ. Quả là ấn tượng với người đọc.
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Bút pháp ước lệ tượng trưng được Nguyễn Du sử dụng rất đậm nét qua hàng loạt từ ngữ trang trọng, đầy đặn, nở nang. Rõ ràng Vân là một cô gái quí phái, hiền thục phúc hậu. Từng nét đẹp của nàng được gợi tả một cách tỉ mỉ vừa là ước lệ vừa là so sánh gương mặt của nàng sáng tươi ánh lên nét hạnh phúc dịu dàng như vầng trăng đêm rằm, điểm trên khuôn mặt đó là đôi lông mày thanh tú. Vẻ đẹp ấy đúng là lý tưởng: “diện như mãn nguyệt mi như ngọa tàm”. Nụ cười tươi như hoa nở tiếng nói êm ái trong trẻo như ngọc. Mái tóc bồng bềnh bóng mượt hơn mây trời, làn da trắng mịn tuyết cũng phải nhường. Với biện pháp nhân hóa, nói quá, Nguyễn Du đã khắc họa vẻ đẹp của Vân thật quí phái diễm kiều, nàng là một trang giai nhân đầy chất quí tộc, lá ngọc cành vàng, tất cả vẻ đẹp đều sánh tựa ngọc ngà hoa lá châu báu, đều do thiên nhiên ban tặng kính nhường.
Người ta vẫn thường nói tâm sinh tướng, ẩn sau vẻ đẹp đài các của Vân là một số phận hạnh phúc êm đềm, bức chân dung ngoại hình cũng chính là bức chân dung mang tính cách số phận con người.
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy nét xuân sơn”
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”
Qua các từ “so, càng, hơn” ta mới thấy rõ hơn dụng ý của Nguyễn Du trong việc tả Vân trước Kiều sau. Thúy Vân là cô em là nhân vật phụ được miêu tả đầu tiên để làm bệ phóng nâng vẻ đẹp Kiều lên mức tột đỉnh. Nghệ thuật tả mây tô trăng, tả khách hình chủ đã đạt đến mức tuyệt vời. Thúy Vân đã đẹp nhưng Kiều hơn Vân cả sắc lẫn tài. Nếu như Vân đoan trang phúc hậu thì Kiều sắc sảo mặn mà. Từ láy sắc sảo mặn gợi vẻ đẹp toát lên từ bên trong Đó là một vẻ đẹp sắc sảo của trí tuệ mặn mà của tâm hồn. Có lẽ khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Kiều người đọc ngây ngất đắm say còn hình ảnh của Thúy Vân trở nên lu mờ trong tâm trí bởi nhan sắc của Kiều xua tan, vượt trội hơn hẳn những gì đẹp nhất trong cõi đời. Thì ra Vân chỉ là phấn son tô điểm cho Kiều, la tấm áo choàng để Kiều nổi bật. Nàng hơn hẳn Vân mọi bề:
“Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan
Hơn Vân ở chỗ ngón đàn vần thi”
Không cần tả tỉ mỉ chi tiết như Vân, Nguyễn Du tả Kiều bằng hai nét vẻ: đôi mắt, lông mày, 2 nét thần thái của người phụ nữ. Bút pháp ước lệ tượng trưng được Nguyễn Du vận dụng đến mức tối đa, thần tình. Kiều có đôi mắt mơ màng trong veo long lanh như mặt nước mùa thu không chút gợn song. Khi miêu tả đôi mắt Nguyễn Du muốn chúng ta chú ý đến tâm hồn của nàng vì đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn là nơi ghi nhận một trái tim ấm áp, một trí tuệ tinh anh. Đôi lông mày của nàng cong cong thắm tươi tựa như dáng núi mùa xuân kết tụ sức sống đất trời, cây cỏ Vẻ đẹp của Kiều thật ấn tượng mà cũng trừu tượng vì có lẽ không bút mực nào tả xiết. Nguyễn Du quả là tài tình trong nghệ thuật tả người, ông lấy gam màu xanh của núi, của nước, bề rộng mênh mông của nước thu, chiều cao vời vợi của núi vào xuân, lấy thời gian xuân thu để gợi tả làm cho người đọc thỏa sức mơ tưởng. Chỉ vài từ ngắn gọn mà trước mắt chúng ta đã hiện ra Thúy Kiều với vẻ đẹp quốc sắc thiên hương:
”Da tuyết kia đã trắng
Tóc mây nọ lại dài
Yểu điệu thay mình hạt sương mai
Thanh tân mấy môi son má phấn”
Vẻ đẹp của Kiều làm lu mờ mọi vật khiến cho hoa liễu phải thua hương kém sắc. Phép tu từ nhân hóa ghen liễu hờn vừa nhấn mạnh vẻ đẹp, vừa dự báo cuộc đời đầy sóng gió vì vẻ đẹp ấy không hài hòa với đất trời. hai động từ mạnh Ghen và Hờn được sử dụng thật đắt, nó đã dự cảm cho cuộc đời của Kiều: Ngàn năm bạc mệnh một đời hồng nhan
Khi miêu tả Thúy Kiều, Nguyễn Du dùng điển tích nghiêng nước nghiêng thành nhằm gợi ra hình ảnh bóng dáng của tứ đại mỹ nhân trong sử sách Trung Hoa, vẻ đẹp gây ấn tượng mạnh làm đảo điên biết bao vua chúa. Về sắc duy nhất trên cõi đời chỉ có Kiều là một, về tài năng may ra mới có người thứ hai.
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”
Kiều không chỉ xinh đẹp mà còn là một cô gái đa tài:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”
Kiều hội đủ cầm kỳ thi họa ca ngâm. Tài nào cũng đạt đến mức tinh thông điêu luyện hơn người. Nàng làm thơ thật hay, vẽ tranh thật đẹp, ca ngâm thật tuyệt. Nàng thuộc làu 5 giai điệu trong âm nhạc cổ, chơi đàn hồ cầm vượt trội hơn cả những nghệ sĩ tài ba. Mỗi khi nàng buông cung ngâm phím cũng là lúc tiếng lòng của Kiều thổn thức. Chính tiếng đàn ấy đã làm cho Kim Trọng tương tư sầu nhớ. Không chỉ vậy, Kiều còn là một nhạc sĩ tài ba, tự tay nàng sáng tác khúc bạc mệnh, khúc nhạc buồn thương da diết, thương cảm cho người nhưng cũng là để khóc cho mình. Khúc nhạc ấy đã ghi nhận minh chứng cho một tâm hồn đa sầu đa cảm, trái tim nặng tình người của Thúy Kiều.
“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cặp kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Thúy Vân và Thúy Kiều đều đến tuổi cài trâm, lứa tuổi có đôi có bạn, thế nhưng cả hai đều sống trong cảnh trướng rủ màn che kín cổng cao tường. Cả hai lại có phẩm hạnh rất đáng quý. Trong trắng nết na đoan chính, đàng hoàng. Vân và Kiều tựa như hai bông hoa còn e ấp trinh nguyên chưa một lần hương tỏa vì ai.
Đoạn trích không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn thành công về mặt nghệ thuật, tác giả sử dụng thể thơ lục bát từ ngữ trang trọng, bút pháp ước lệ tượng trưng để khắc họa vẻ đẹp của nhân vật. Bên cạnh đó Nguyễn Du còn thành công trong việc sử dụng phép tu từ nhân hóa so sánh nói quá để rồi vẻ đẹp của Vân và Kiều thật ấn tượng với người đọc.
Tóm lại bằng tài năng và tình cảm của mình, Nguyễn Du đã xây dựng thành công hai bức chân dung Thúy Vân và Thúy Kiều đậm chất thi ca và thi họa. Qua đó ta càng thêm yêu qúy tấm lòng nhân ái bao la của ông, ông đã hết mực ca ngợi vẻ đẹp, tài năng của người phụ nữ bằng niềm trân trong cảm thông. Chúng ta có quyền tin rằng dù thời gian có đổi thay nhưng hình ảnh của Vân, Kiều sẽ bất tử cùng tháng năm.
Thảo luận