Văn học việt Nam là Sự tích hợp giữa hai dòng văn học dân gian và văn học viết. Văn học dân gian là sáng tác nghệ thuật truyền miệng của các tầng lớp dân chứng, phát sinh từ thời công xã nguyên thuỷ, phát triển qua các thời kì lịch sử cho
tới ngày nay. Tuy văn học dân gian ra đò trước vặn học viết nhưng hai bộ phận
này lại tồn tại song song và phát triển trong nền văn học Việt Nam nói riêng và
văn học thế giới nói chung. Trên mỗi thặng đường lịch sử, có lúc chứng hoà hợp ở
xu hướng này nhưng đôi khi lại đối lập hoàn toàn ở xu hướng khác. Nói chung giữa văn học dân gian và văn học viết có mối quan -hệ mật thiết với nhau. Văn học dân gian là cơ sở vững chắc cho sự hình thành và phát triển của văn học viết.Văn học dân gian là nền tảng của văn học viết, là chặng đầu của nền văn học dân tộc: .Tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc và những sáng tạo nghệ thuật độc đáo tài hoa của văn học dân gian có tác động mạnh mẽ đối với sự hình thành và phát triển của văn học viết từ nội dung đến hình thức.
Văn học dân gian có nội dưng vô cùng phong phú, được đánh giá như một cuốn sách giáo khoa về cuộc sống, cung cấp những tri thức hữu ích về tự nhiên và xã hội, là kho tàng chứa đựng truyền thống yêu nước, tư tưởng nhân nghĩa…
Vì lẽ đó, các tác giả văn học viết đã tiếp thu nội dung ấy một cách chọn lọc qua những phương diện: đề tài; nguồn cảm hứng; tình yêu thiên nhiên, đất nước; tư tưởng nhân ái; tình yêu thương con người được thể hiện qua việc vận dụng các câu ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích, truyền thuyết, truyện cười,…
Đề tài của văn học dân gian rất phong phú, chính vì vậy mà các tác giả văn học viết đã tiếp thu và vận dụng các đề tài ấy một cách sáng tạo. Thật vậy, thân phận người phụ nữ là một trong những chủ đề lớn trong ca dao và trong văn học viết lại có những tác phẩm về người phụ nữ lấy cảm hứng từ ca dao như khát khao hạnh phúc của người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, ước mơ được đoàn tụ với chồng của người chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm khúc” (bản diễn Nôm) của Đoàn Thị Điểm
Nguồn cảm hứng thể hiện ở niềm say mê gắn liền với cảm xúc mãnh liệt của người sáng tác. Thơ ca dân gian, truyện dân gian đã khơi dậy những nguồn cảm hứng mãnh liệt để các tác giả của nền văn học viết sáng tác nên nhiều tác phẩm có giá trị. Đôi khi nguồn cảm hứng ấy tạo tiền đề cho sự phát triển của cả một dòng văn học. Điển hình như truyền thuyết thành Gióng đã mở đầu cho dòng văn học yêu nước chống xâm lược trong nền văn học dân tộc. Khai thác kho tàng văn học dân gian khi sáng tác các tác giả văn học hiện đại tìm nguồn cảm hứng cho thơ ca bằng cách.đưa thơ trở về trong suốt dân ca. Thơ ca Tản Đà, Trần Tuấn Khai là minh chứng tiêu biểu. Viết tiểu thuyết huyền thoại và tiểu thuyết lịch sử bằng cách khai thác nguồn dạ sử vốn là sản phẩm thuộc phạm trù văn học dân gian. Tiểu thuyết “Quả dưa đỏ” của Nguyễn Trọng Thuật và hầu hết các tiểu thuyết lần sử ở nửa đầu thế kỉ XX, tiêu biểu là các sáng tác của Nguyễn Tử Siêu đã nổi lên điều đó
Tình yêu thiên nhiên, đất nước là một mảng đề tài lớn trong văn học dân gian qua việc xây dựng nên hình ảnh thiên nhiên các tác giả văn học dân gian muốn thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước tình yêu quê hương đất nước.
Đọc thơ Nguyễn Trải, ta thấy phảng phất trong đó phong vị ca dao về tình yêu thiên nhiên đất nước. Hiếm có nhà thơ nào yêu quý nâng niu cảnh vật thiên nhiên như ông. Tư tưởng nhân ái, tình yêu con người là một tư tưởng lớn trong văn học dân gian, đặc biệt là trong ca dân và trong truyện cổ tích. Đọc những tác phẩm ấy, các nhà văn, nhà thơ đã thấu hiểu nhưng tình cảm mà các tác giả dân gian gởi gắm và cùng bắt nhịp cảm xúc với họ. Đó là tinh thần lạc quan, yêu đời; tình yêu quê hương đất nước, tình cảm con người. ảnh yêu thương con người, tấm lòng nhân đạo thể hiện sâu sắc qua Truyện Kiều của Nguyễn Du mà thân phận nàng Kiều là điển hình cho sự đồng cảm của Nguyễn Du trước tiếng khóc của những người phụ nữ trong xã hội xưa.
Về nghệ thuật
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn học nghệ thuật hiện đại đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay, văn học dân gian vẫn xứng đáng được coi như một nguồn vô tận cho sự sáng tạo nghệ thuật. Văn học dân gian và văn học viết cùng là loại hình nghệ thuật ngôn từ. Văn học viết đã tiếp thu ngôn từ của văn học dân gian trên nhiều phương diện. Văn học dân gian sử dụng ngôn từ mộc mạc gần gũi với cuộc sống được các tác giả văn học viết tiếp thu mà điển hình là Nguyễn Trái, Nguyễn Bính. Ngôn từ của văn học dân gian mang tính chất địa phương đã đưa vào các tác phẩm văn học viết làm cho văn học viết ngày càng phong phú và đa dạng hơn (Truyện Kiều của Nguyễn Du Nhiều công thức ngôn từ được sử dụng sáng tạo và hiệu quả. Khảo sát trong Truyện Kiều, ta thấy Nguyễn Du đã sử dụng những mã ngôn từ của ca dao: 79 lần; trong đó: ngôn ngữ của tác giả 51 lần, Thấy Kiều 21 lần, Thúc sinh 4 lần, Thuý Vân 2 lần, kim Trọng 1 lần. Nhiều mô tin trong ca dao xuất hiện khá quen thuộc trong văn học viết. Điển hình như mô tép “Thân em… lại quen thuộc trong Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương, hoặc như mô tép “Buồn trông…” thì lại thấy có trong Truyện Kiều. Xuân Diệu đã từng nhận xét: nhưng nói hẹp hơn, các nhà thơ đã học được thơ ở trong ca dao.
Văn học viết dùng những hình ảnh ‘ trong trong văn học dân gian làm đề tài sáng tác, làm hình tượng nghệ thuật nhưng các tác giả văn học viết lại làm cho những hình tượng ấy hoa mĩ hơn nhàm phản ánh tâm trạng nhân vật, hiện tượng đời sống. Nhà thơ Chế Lan Viên sử dụng hình ảnh con cò trong ca dao vào trong thơ của mình và hình tượng hóa nó trở thành em bé, thành mẹ của bé, thành bạn của bé (bài thơ Con cò).
Cách nói của văn học dân gian được các tác giả văn học viết vận dụng trong lối hành văn, diễn thơ của mình. âm điệu trữ tình của ca dao chỉ phù hợp với các đoạn thơ có nội dung tình cảm và phù hợp với các nhân vật có đời sống tâm hồn trong sáng của Truyện Kiều.
Văn học viết sử dụng những biện pháp tu~từ có sẵn trong văn học dân gian
(so sánh nhân hỏa, nói quá, chơi chữ,..). Các tác giả văn học viết vận dụng tối đa những biện pháp tu từ này để tạo ra những hiệu quả nghệ thuật gây ấn tượng trong lòng người đọc. Đọc Cảnh ngày hè ta thấy Nguyễn Trời đã sử dụng thành công biện pháp nhân hóa (sử dụng những từ ngữ chỉ con người để dùng cho sự vật) làm cho cảnh vật sống động, giàu sức gợi. Hơn nữa, văn học dân gian còn ảnh hưởng đến văn học viết ở chất liệu dân gian. Con đường đi của dòng văn học viết là càng ngày căng dân tộc hóa về mặt hình thức ngôn từ, càng sử dụng nhiều thi liệu văn học dân gian. Thơ Nguyễn Trái, Nguyễn Bình Khiêm, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến đã chứng tỏ việc sử dụng nhiều thi liệu dân gian. Ngoài ra, việc sử dụng các chất liệu dân gian còn thể hiện ở cách xây dựng nhân vật, cốt truyện, cách thể hiện đề tài. Từ những cốt truyện dân gian, Nguyễn Dữ, Đoàn Thị Điểm khi viết các tác phẩm truyền kì đã hư cấu chúng thành các câu chuyện hoàn chỉnh vừa có tính lãng mạn, vừa có tính tư tưởng sâu sắc, vừa có giá trị nghệ thuật cao… Nhiều tác phẩm truyện của văn học viết như “Lĩnh Nam chích quá lục” của Trần Thế Pháp, “Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ… được các tác giả sưu tầm, ghi chép, viết lại các truyền thuyết dân gian của người Việt: An Dương Vương, Thánh Gióng, Trầu cau, Bánh chưng bánh giầy. Cho nên, mới nói các nhà văn học được văn trong truyện cổ tích cụ thể hơn là cách xây dựng cốt truyện và nhân vật.
ở phương diện thể loại, nền văn học viết đã tiếp thu hầu hết các thể loại của văn học dán gian, tùy vào phong cách sáng tác mà ‘mỗi nhà thơ, nhà văn lựa chọn cho mình thể loại sáng tác thích hợp. Trên cơ sở âm điệu tiếng Việt và truyền thống thơ ca dân gian hai thể thơ thuần Việt là lục bát và song thất lục bát hình thành mở ra chân trời mới cho thơ trữ tình và thơ văn tự sự tiếng Việt Thể thơ lục bát được Nguyễn Du vận dụng vào trong việc sáng tác “Truyện Kiều”. Thể thơ song thất lục bát được Đoàn Thị Điểm vân dụng vào trong việc diễn Nôm bài “Chinh phụ ngâm khúc . Kho tàng truyện kể dân gian không chỉ có vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển của các thể loại tự sự văn xuôi mà còn có vai trò rất quan trọng trong sự hình thành và phát triển các thể loại tự sự văn vần của văn học thời trung đại.
Văn học dân gian đã đóng góp to lớn trong việc gìn giữ, mài giũa và phát triển ngôn ngữ dân tộc, nuôi dưỡng tâm hồn nhân dân. Chính vì vậy mà văn học dân gian là nền tảng cho sự phát triển của văn học viết, là kết tinh của văn học dân tộc, đó vừa là sự khẳng định vai trò của văn học dân gian và là những điều cốt lõi nhất khi nói về~v~ học dân gian. Vậy nên nói về mối quan hệ giữa văn học dân gian và văn học viết thì văn học dân gian cho nhiều hơn là nhận”. Văn học viết cũng có ảnh hưởng trở lại đối với văn học dân gian trên một số phương diện. Chẳng hạn, tác giả dân gian đã đưa những chất liệu văn học viết vào ca dao (những nhân vật trong Truyện Kiều, Lục Vân Tiên..). Khi tinh hoa của hai bộ phận văn học này kết tụ lại ở những cá tính sáng tạo, trong điều kiện lịch sử nhất định thì lại thấy sự xuất hiện của những thiên tài văn học với nhiều áng văn bất hủ như:Nguyễn Du, Nguyễn Trái, Hồ Xuân Hương,… Nguyễn Du, Nguyễn Trái, Hồ Xuân Hương,…
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 11 - Năm thứ hai ở cấp trung học phổ thông, gần đến năm cuối cấp nên học tập là nhiệm vụ quan trọng nhất. Nghe nhiều đến định hướng sau này rồi học đại học. Ôi nhiều lúc thật là sợ, hoang mang nhưng các em hãy tự tin và tìm dần điều mà mình muốn là trong tương lai nhé!
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK