Tết nguyên đán là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống của dân tộc Kinh cũng như đa số các dân tộc Việt Nam từ ngàn đời nay. Tết nguyên Đán là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới. Đây cũng là dịp để mọi người Việt Nam tưởng nhớ, tri tâm tổ tiên, nguồn cội: giao cảm nhân sinh trong quan hệ đạo lý và tình nghĩa xóm làng...
Ông Táo (thần bếp) là người theo dõi việc làm ăn cùa mọi nhà. Theo tập tục hàng năm ông Táo lên trời vào ngày 23 tháng chạp để tâu bày mọi việc dưới trần thế với Ngọc Hoàng. Bởi thế trong ngày này, mọi gia đình người Việt Nam làm mâm cơm tiền đưa “ông Táo". Ngày ông Táo về chầu trời được xem như ngày đầu tiên của tết Nguyên dán. Sau khi tiễn đưa ông Táo người ta bắt đầu dọn nhà cửa, lau chùi đồ cúng ông bà tổ tiên, treo tranh, câu đối, và cắm hoa ở những nơi sang trọng để chuẩn bị đón Tết.
Cùng với thủ treo tranh dân gian, câu đối thì cắm hoa, chơi hoa là yếu tố tinh thần cao quý thanh lịch của người Việt Nam trong những ngày đầu xuân. Miền Bắc có hoa đào, miền Nam có hoa mai, đây là hai loại hoa tượng trưng cho phước lộc đầu xuân của mọi gia đình người Việt Nam. Ngoài ra còn có quất với trái vàng mọng, đặt ở phòng khách như biểu tượng cho sự sung mãn, may mắn, hạnh phúc,...
Tết trên bàn thờ tổ tiên của mọi gia đình, ngoài các thứ bánh trái đều không thể thiếu mâm ngũ quả. Mâm ngũ quả ở miền Bắc thường gồm có nải chuối xanh, bưởi, quả cam (hoặc quýt), hồng, quất. Còn ở miền Nam, mâm ngũ quả là xiêm, mãng cầu, đu đủ, xoài xanh, nhành sung hoặc một loại trái cây khác. Ngũ quả là lộc của trời, tượng trưng cho ý niệm khát khao cuủ con người vì sự đầy đủ, sung túc. Ngày tết có nhiều phong tục tốt như khai bút, hái lộc, chúc tết, du xuân, mừng thọ...Ai cũng hy vọng một năm mới tài lộc dồi dào, làm ăn thịnh vượng mạnh khoẻ, thành đạt hơn năm cũ.
Ngày tết có tục mừng tuổi chúc tết. Trước hết con cháu mừng tuổi ông bà mẹ. Ông bà cùng chuẩn bị ít tiền để mừng tuổi con cháu trong nhà và con cháu hàng xóm láng giềng, bạn bè thân thích. Những ngày tết mọi người luôn cười tay bắt mặt mừng thân thiện với nhau, chúc nhau sức khoẻ, phát tài phát lộc và thường kiêng không nói điều rủi ro hoặc xấu xa.
Các tục lệ trong đêm giao thừa
Một năm bắt đầu vào lúc giao thừa, cũng lại kết thúc vào lúc giao thừa, do vậy vào lúc giao tiếp giữa hai năm cũ, mới này có lễ trừ tịch. Ý nghĩa của lễ này là đem bỏ hết đi những điều xấu của năm cũ sắp qua để đón những điều tốt dẹp của năm nới săp đến. Lễ trừ tịch còn là lễ để “khu trừ ma quỷ”, do đó có từ “trừ tịch”. Lễ trừ tịch cử hành vào lúc giao thừa nên còn mang tên là lễ giao thừa. Người Việt Nam thường cúng giao thừa tại các đình, chùa hoặc tại nhà. Bàn thờ giao thừa được thiết lập ở ngoài trời. Một chiếc hương án được kê ra, trên có bình hương, hai ngọn đèn dầu hoặc hai ngọn nến. Lễ vật gồm: chiếc thủ lợn hoặc con gà, bánh chưng, mứt kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu nước và vàng mã. Ngày nay, ở các tư gia người ta vẫn cúng giao thừa với sự thành kính như xưa nhưng bàn thờ thì đơn giản hơn, thường đặt ở ngoài sân hay trước cửa nhà.
Theo quan niệm của người Kinh (cũng như đại đa số các dân tộc khác) phút giao thừa là thiêng liêng. Tục ta tin rằng mỗi năm có một ông thành khiến coi việc nhân gian, hết năm thì thần nọ bàn giao công việc cho thần kia, cho nên cúng tế để tiễn ông cũ và đón ông mới. Lễ giao thừa được cúng ở ngoài trời là bởi vì quan niệm xưa hình dung trong phút các quan hành khiển bàn giao công việc luôn có quân đi, quân về đầy không trung tấp nập, vội vã (nhưng mắt trần không nhìn thấy được), thậm chí có quan quân còn chưa kịp ăn uống gì. Những phút ấy, các gia đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả, những đồ ăn nguội ra ngoài trời cúng, với lòng thành tiễn đưa người nhà trời đã trông coi gia đình mình trong năm cũ và đón người nhà trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị không thể vào trong nhà khề khà mâm hát mà chỉ có thể dừng vài giây ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà. Sau khi cúng giao thừa xong, các gia chủ làm vè cúng Thổ Công, tức là vị thần cai quản trong nhà. Lễ vật cũng tương tự như lễ cúng giao thừa. Trong dịp tết Nguyên đán còn có một số phong tục tốt đẹp được lưu giữ đến nay:
+ Đi lễ chùa, đình, đền: lễ giao thừa ở nhà xong, mọi người cùng nhau đi lễ các đình, chùa, miếu, điện để cầu phúc, cầu may, để xin Phật, Thần phù hộ độ trì cho bản thân và gia đình. Nhân dịp này người ta thường xin quẻ thẻ đầu năm.
+ Kén hướng xuất hành: khi đi lễ, người ta kén giờ và hướng xuất hành, đi đúng hướng đúng giờ để gặp may mắn quanh năm.
+ Hái lộc: đi lễ đình, chùa, miếu, điện xong người ta có tục hái trước cửa đình, cửa đền một cành cây gọi là cành lộc mang về ngụ ý là “lấy lộc” của trời đất, Thần, Phật, ban cho. Cành lộc này được mang về cắm trước bàn thờ cho đến khi tàn khô.
+ Hương lộc: có nhiều người thay vì hái cành lộc lại xin lộc tại các đình, đền, chùa, miếu bằng cách đốt một nắm hương, đứng khấn vái trước bàn thờ, rồi mang lương đó về cắm vào bình hương bàn thờ nhà mình. Ngọc lửa tượng trung cho sự phát đạt được lấy từ nơi thờ tự về tức là xin Phật, Thánh phù hộ cho được phát đạt quanh năm.
+ Xông nhà: thường người ta kén một người “dễ vía” trong gia đình ra khỏi từ trước giờ trừ tịch, rồi sau lề trừ tịch thì xin hương lộc hoặc hái hành lộc ở đền chùa mang về. Lúc trở về đã sang năm mới và người này sẽ tự “xông nhà” cho gia đình mình, mang sự tốt đẹp quanh năm về cho gia đình. Nếu không có người “dễ vía” người ta phải nhờ người khác tốt vía để sớm ngày mồng một đến xông trước khi có khách tới chúc tết, để người này đem lại may mắn vui vẻ quanh năm
Cao Bằng là xứ sở của những cọn nước, các suối nguồn trong vắt và những chàng trai, cô gái tươi tắn trong sắc áo chàm. Những bộ trang phục của đồng bào dân tộc Cao Bằng phần lớn đều được làm bằng thổ cẩm. Vì vậy, nghề dệt thổ cẩm đã trở thành một nghề truyền thống, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Cao Bằng.Với bàn tay khéo léo và sự cần mẫn, kiên trì, những người phụ nữ dân tộc Cao Bằng đã biến những thứ nguyên liệu từ cây rừng thành những bộ trang phục rực rỡ với nhiều họa tiết, màu sắc lộng lẫy và độc đáo
Dệt thổ cẩm là nghề thủ công đã có từ lâu, nó không chỉ phục vụ nhu cầu sinh hoạt của người dân mà còn là sản phẩm du lịch nổi tiếng. Cao Bằng là quê hương của nhiều dân tộc cùng chung sống với ngôn ngữ, bản sắc riêng và thổ cẩm cũng vậy. Thổ cẩm phản ánh khá rõ những khác biệt về đời sống văn hóa, tâm linh cũng như điều kiện tự nhiên nơi mỗi dân tộc sinh sống.
Trong các phiên chợ, chúng ta có thể gặp những trang phục rất đặc trưng, người Mông xúng xính trong bộ váy áo với màu đỏ chủ đạo, điểm các hoa văn trắng, vàng sặc sỡ; người Tày giản dị trong bộ áo với hoa văn trắng vàng điểm nhẹ trên nền vải chàm... Thổ cẩm cũng giữ vai trò rất quan trọng trong đời sống tâm linh của đồng bào các dân tộc Cao Bằng, như những tấm trướng che bàn thờ, các chi tiết cấu thành những tấm áo, mũ, khăn, túi đựng đồ nghề, đệm ngồi của các thầy cúng...
Thổ cẩm của người Tày thường có các loại hoa văn trang trí rất phong phú và đa dạng, kết hợp hài hòa giữa đường nét với màu sắc. Trên nền chủ đạo màu trắng đục, các màu sắc sáng, tối, nóng, lạnh được xử lý khéo léo cùng hoa văn là các loại hoa lê, hoa mận, hoa đào, một số muông thú, như: hươu, nai, ngựa, chim..., thể hiện rõ cảnh quan tự nhiên nơi họ sinh sống. Nghề dệt thổ cẩm của người Tày Cao Bằng phát triển nhất ở các xã: Đào Ngạn, Phù Ngọc (Hà Quảng); Dân Chủ, Đức Long, thị trấn Nước Hai (Hòa An).
Nghệ nhân Nông Thị Thược, ở xóm Luống Nọi, xã Phù Ngọc cho biết: Nguyên liệu chính để dệt thổ cẩm là sợi bông nhuộm chàm và tơ tằm nhuộm màu. Dệt thổ cẩm hoàn toàn bằng thủ công cần giăng khung cửi dệt thổ cẩm. Trên tấm thổ cẩm của người Tày thường có 6 màu chủ đạo, gồm: xanh, đỏ, vàng, tím, trắng, đen. Từ các màu chủ đạo đó, người dệt đã pha chế các gam màu đậm, nhạt phù hợp theo ý tưởng cho từng sản phẩm. Cách bố cục họa tiết trên thổ cẩm rất đa dạng tạo nên những tấm thổ cẩm có hình dạng vô cùng đặc sắc.
Người Nùng có nhiều nhóm, đặc điểm trang phục mỗi nhóm có khác nhau đôi chút, chủ yếu là ở các họa tiết và cách thức chắp các mảnh vải thêu lên trang phục với các đường nét mềm mại, uyển chuyển, gần gũi với tự nhiên, hiện thực, màu sắc êm dịu, chuyển sắc tinh tế gần gũi với màu tự nhiên. Họ cũng có thủ thuật sử dụng sáp ong để tạo họa tiết trên vải chàm. Ngoài ra, người Nùng còn có thế mạnh trong dệt, nhuộm, với quy trình nhuộm khá hoàn chỉnh, có nhiều bí quyết riêng. Nhìn chung, trang phục của người Nùng chủ yếu là vải chàm được nhuộm xanh đen nên không cầu kỳ như các dân tộc khác.
Phụ nữ Dao đỏ ăn mặc lộng lẫy. Trên nền vải đen, các mảnh vải đỏ được thêu hoặc gắn vào sặc sỡ, khăn dài khoảng 1,6 mét quấn quanh đầu như vành nón, bên người quấn che một dải vải thêu thùa nhiều họa tiết bằng chỉ đỏ, thắt lưng được thêu thùa công phu với nhiều hoa văn cầu kỳ quấn vòng quanh eo bụng phủ xuống đằng sau ngang tà áo. Quần ống rộng trang trí các ô vuông xanh hoặc đỏ, nâu, trắng. Phía sau lưng khoác vuông vải thể hiện tài năng thêu thùa trang trí của bàn tay khéo léo.
Khác với người Dao đỏ, trang phục của người Dao tiền mang 2 màu sắc chủ đạo là chàm và đen để trang trí. Người Dao tiền ở xã Hoa Thám (Nguyên Bình) rất nổi tiếng với nghề dệt thổ cẩm, đặc biệt là kỹ thuật chấm hoa văn bằng sáp ong. Các hoa văn, trang sức bạc trên trang phục của phụ nữ Dao tiền mang nhiều hình ngôi sao, tượng trưng cho sức mạnh của thiên nhiên, vũ trụ. Đặc biệt, trang phục của người Dao tiền nhất thiết phải có hoa văn hình trám, hình con chó, hình nhện và hoa, đó cũng là đặc điểm riêng của nghề dệt thổ cẩm của người Dao tiền.
Người Mông có truyền thống trồng đay dệt vải, tự thêu may quần áo phục vụ nhu cầu sinh hoạt của bản thân... Màu sắc ưa dùng trong thêu và chắp vải là đỏ tươi, đỏ thắm, nâu, vàng, trắng, xanh lá cây, lam. Hầu hết các họa tiết được thêu, vẽ, chắp vải trên nền vải lanh trắng hoặc vải đỏ, có định hình sẵn là các bộ phận của áo, váy. Sau khi hoàn thiện trang trí từng bộ phận riêng lẻ, người ta mới may ráp, hoàn chỉnh váy, áo... Đó là cách làm riêng của người Mông. Ngoài các họa tiết dạng đường thẳng, đoạn thẳng, người Mông còn bố cục các hoa văn hình tròn, đường cong, hình xoáy trôn ốc hay hai hình xoáy trôn ốc được bố trí đối xứng qua gương tạo thành hình móc hoặc đối xứng trục quay thành hình chữ s là những loại họa tiết có đường cong, đường xoáy dứt khoát thanh thoát, nhịp nhàng, uyển chuyển tạo cho bố cục hài hòa, không đơn điệu - chỉ thấy xuất hiện trong trang trí y phục của người Mông. Những họa tiết này biểu hiện cho sự biến chuyển của mặt trời, thời tiết, không gian và thời gian, là vốn văn hóa chung của nhiều dân tộc, nhưng được thể hiện đậm đà trong trang trí của người Mông.
Với bàn tay khéo léo, óc sáng tạo và niềm đam mê, những cô gái dân tộc Cao Bằng đã làm nên những sản phẩm độc đáo. Đó là nét đẹp văn hóa truyền thống của người dân tộc nơi non nước Cao Bằng cần tiếp tục được gìn giữ và phát huy.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 10 - Năm thứ nhất ở cấp trung học phổ thông, năm đầu tiên nên có nhiều bạn bè mới đến từ những nơi xa hơn vì ngôi trường mới lại mỗi lúc lại xa nhà mình hơn. Được biết bên ngoài kia là một thế giới mới to và nhiều điều thú vị, một trang mới đang chò đợi chúng ta.
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK