Vũ Nương có lẽ cũng như bao nhiêu người phụ nữ thời xưa. Cảnh chiến tranh khiến cho họ có chồng mà vẫn phải đơn côi một mình. Những người chồng, người cha vì bình yên của Tổ quốc đã phải lên đường ra chiến trận. Họ để lại vợ con, mẹ già ở nhà. Ngôi nhà thiếu vắng bàn tay của người đàn ông nên bao nhiêu khó nhọc người vợ phải gánh chịu tất cả mọi thứ. Họ phải thay chồng làm những công việc nặng nhọc và thay vai trò của chồng việc chăm sóc con cái.Càng đọc tác phẩm em lại càng thấy khâm phục người con gái Nam Xương này nhiều hơn. Người phụ nữ này đã cho người đọc thấy nàng là một người tần tảo. Khi người chồng đi lính, để lại cho nàng một mẹ già và một con nhỏ. Người mẹ chồng già yếu, ngày ngày Vũ Nương vẫn tận tình chăm sóc. Rồi khi mẹ chồng qua đời, một mình nàng đã lo ma chay, hiếu hỉ thay cho chồng. Thử hỏi có mấy người làm được như nàng. Khi đọc đến đoạn Vũ Nương bị chồng mình là Trương Sinh vu oan, em cảm thấy vô cùng giận giữ. Giận vì Trương Sinh đã không hiểu cho những nỗi khổ mà Vũ Nương đã phải trải qua. Giận vì Trương Sinh đã không chịu nghe Vũ Nương giải thích. Giận vì Trương Sinh đã ghen tuông vô lối để rồi người phụ nữ tuyệt vời như Vũ Nương bị tổn thương và quyết định nhảy xuống sông tự vẫn. Nhân vật Vũ Nương thể hiện cho phẩm chất và số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến Việt Nam. Bằng tài năng và lòng cảm thương vô bờ bến của mình dành cho những người phụ nữ yếu đuối, Nguyễn Dữ đã xây dựng nên "Chuyện người con gái Nam Xương" thật hay, thật li kì và cảm động. Người đọc sẽ mãi không quên một Vũ Nương đẹp, nhưng có số phận đầy bi kịch như vậy. Em thật sự rất cảm mến nhân vật Vũ Nương, cảm nhận được những nỗi đau mà nàng phải chịu. Thông qua nhân vật này, em cảm thấy tài năng của Nguyễn Dữ thật tuyệt vời.
Chúc bạn học tốt! #nguyenhoangt1703
Thân em như hạt mưa sa,
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.
Lời ca dao cứ da diết, ngân vang, ám ảnh. Ngược dòng thời gian trở về quá khứ, hình tượng người phụ nữ Việt Nam trong văn học thật đẹp, thật sáng trong, nhưng số phận của họ cũng thật nhiều éo le, ngang trái.Người đọc thực sự bị ám ảnh bởi hình ảnh Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. Có lẽ đây là một trong những hình tượng đầu tiên, phản ánh chân thực và rõ nét số phận của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến hà khắc
Vũ Nương là nhân vật chính, xuất hiện từ đầu đến cuối truyện. Đây là nhân vật được nhà văn Nguyễn Dữ xây dựng bằng tất cả tài năng, tấm lòng của mình. Nhân vật bộc lộ rõ nhất chủ đề tư tưởng của truyện: ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp của người phụ nữ và cảm thương sâu sắc trước số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến
Đọc truyện, ta không thể nào quên được vẻ đẹp của Vũ Nương. Trước hết, Vũ Nương có vẻ đẹp ngoại hình đáng yêu. Nhà văn không kể và tả nhiều mà chỉ đưa ra một nhận xét :“ tư dung tốt đẹp”. Cụm từ ngắn gọn gợi lên trước mắt người đọc một vẻ đẹp trẻ trung, mặn mà, đầy sức sống của người con gái tuổi trăng tròn. Vẻ đẹp đó khiến cho chàng Trương và người đọc say mê. Nguyễn Dữ còn sáng tạo thêm một chi tiết so với truyện cổ tích “ Vợ chàng Trương” : Trương Sinh đem trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ. Vẻ đẹp ngoại hình thoáng qua của nhân vật Vũ Nương vẫn để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Không chỉ có vẻ đẹp ngoại hình, Vũ Nương còn được Nguyễn Dữ tập trung ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn gợi trong ta bao trân trọng. Vũ Nương là một người mẹ yêu con. Người mẹ ấy sinh con, đặt tên con là Đản. Cái tên ẩn chứa biết bao yêu thương, hy vọng mà nàng dành cho con. Mỗi đêm, người mẹ ấy trỏ bóng mình trên vách nói với con là cha của bé. Chi tiết này thể hiện được tình yêu thương của bố và mẹ như bao đứa trẻ khác. Nàng muốn con có trọn vẹn tình yêu thương của bố và mẹ như bao đứa trẻ khác. Nhà văn giữ nguyên chi tiết này của truyện cổ tích “Vợ chàng Trương” nhưng đã thay đổi vị trí đã nhấn mạnh được tình yêu của Vũ Nương. Tấm lòng yêu con của người mẹ trẻ qua ngòi bút kể chuyện của nhà văn cứ luôn hiện lên trước mắt người đọc.
Không chỉ vậy, làm sao ta quên được tấm lòng hiếu thảo cả Vũ Nương. Vẻ đẹp này thể hiện qua cách nàng chăm sóc, lo lắng cho mẹ chồng. chăm sóc mẹ chồng đau yếu : “Nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Tấm lòng hiếu thảo của nàng cũng được mẹ chồng cảm biết: “Chồng con nơi xa xôi chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Người đọc thật khâm phục, ngưỡng mộ tấm lòng của Vũ Thị Thiết đối với mẹ chồng, nàng đã coi bà như mẹ đẻ và chăm sóc, phụng dưỡng, lo “ma chay tế lễ” rất chu đáo. Nàng thực sự là một nàng dâu thảo hiền.
Đặc biệt, ta rưng rưng xúc động trước tấm lòng thủy chung mà Vũ Nương dành cho chồng. Người vợ ấy khi mới về nhà chồng luôn “giữ gìn khuôn phép không từng để vợ chồng phải thất hòa”. giây phút tiễn chồng đi lính, Vũ Nương khóc, “rót chén rượu đầy tiễn chồng”, dặn chồng “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên”. Các hành động đó nhấn mạnh được tình yêu mà nàng dành cho chồng. Câu văn biền ngẫu tuy sử dụng cách nói ước lệ, ẩn dụ quen thuộc của văn học trung đại nhưng thấm đẫm biết bao tình cảm. Nàng không mong một cuộc sống giàu sang mà chỉ mong được sống bên chồng. Cách xưng hô ngọt ngào tha thiết, lời văn chất chứa nỗi lo lắng trước những vất vả khó khăn mà người chồng phải trải qua. Suốt ba năm xa chồng, nàng luôn nhớ thương chồng “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Vẫn là các câu văn biền ngẫu, là các hình ảnh quen thuộc nhưng thấm đẫm tình cảm mà Vũ Nương dành cho chồng. Nàng còn luôn giữ phẩm hạnh của người vợ có chồng đi lính “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết, tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”. Dường như nàng không dám trang điểm, không dám đi chơi vì sợ một phút sao lòng sẽ có lỗi với chồng. Người đọc còn làm sao quên được cảnh hàng đêm người vợ trẻ trỏ chiếc bóng của mình trên vách, nói với con là cha của Đản. Lời nói dối đó giúp ta hiểu người vợ ấy đang rất nhớ chồng. Nỗi nhớ thương mong ngóng đó nàng không biết giãi bày cùng ai, khi xung quang là mẹ già cùng với đứa con thơ dại. Ngay cả khi Trương Sinh trở về, nge lời con trẻ, nghi ngờ tấm lòng thủy chung, nàng vẫn dành tình cảm cho chồng. Mặc dù đang tủi buồn vì chồng nghi oan, nhưng cách xưng hô, lời nói của nàng vẫn tha thiết, dịu dàng của người vợ. Ở dưới thủy cung, người vợ ấy vẫn luôn nhớ những ngày tháng bên chồng. Vì vậy , khi nghe Phan Lang nhắc đến Trương Sinh, nàng “ứa nước mắt khóc”. Những giọt nước mắt đó chứng tỏ nàng nhớ chồng con biết bao. Nàng gửi cho Trương Sinh kỷ vật của tình vợ chồng. Chi tiết đó chứng tỏ nàng luôn trân trọng tình cảm gia đình. Người vợ ấy gửi kỷ vật cho chồng cùng lời dặn. Sống trong cảnh xa hoa nhưng nàng luôn giữ bên mình kỷ vật của tình vợ chồng. Cách xưng hô thật trìu mến tha thiết. Giây phút trở về lần cuối cùng, người vợ ấy vẫn “đa tạ tình chàng, thiếp...”. Lời xưng hô chàng thiếp thật dịu dàng, tha thiết như thuở còn mặn nồng. Nàng đa tạ chồng đã cho nàng những tháng ngày ấm êm bên chồng con. Tấm lòng thủy chung của Vũ Nương được nhà văn hết lời ngợi ca, trân trọng, tôn vinh.
Là người phụ nữ đẹp người, đẹp nết tưởng rằng Vũ Nương sẽ được hưởng hạnh phúc suốt đời nhưng nàng lại có một số phận thật bi thảm, bất hạnh. Tấm lòng hi sinh, hiếu thảo của Vũ Nương tưởng như được đền đáp khi Trương Sinh từ chiến trận trở về. Song, cuộc đời thật trớ trêu, ngày chồng trở về không phải ngày Vũ Nương ngập tràn trong hạnh phúc sum vầy mà là ngày định mệnh, tột cùng đau khổ, bi thương với nàng. Lời nói ngây thơ của bé Đản chẳng khác nào những nhát dao oan nghiệt: “Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít […] Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Người ta thường nói: “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”, Trương Sinh lại là người hay ghen và đa nghi do đó lời nói của con càng khiến chàng tin rằng Vũ Nương đã phụ bạc mình. Chàng đâu biết “người đàn ông” mà cậu bé Đản nói chính là cái bóng của chính Vũ Nương. Vì thương con, nhớ chồng nên nàng thường chỉ bóng mình ở trên vách và nói đó là cha Đản. Có lẽ nàng cũng không thể ngờ chính tình yêu thương chồng con lại trở thành mối dây oan nghiệt với cuộc đời mình. Nguyễn Dữ đã thật tài tình khi xây dựng tình huống đầy éo le, kịch tính, tạo sự hồi hộp cho độc giả. Liệu Vũ Nương sẽ giải thích sao đây? Liệu tự nàng có giải oan được cho mình hay không?
Cuộc đời của Vũ Nương chẳng khác nào cánh bèo đơn chiếc trôi nổi giữa dòng đời. Nàng đã bị đẩy vào tình huống dù giải thích thế nào chồng cũng không tin, nàng chỉ còn biết than khóc với trời xanh, sông rộng: “kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Lời thề của Vũ Nương vừa thể hiện niềm đau đớn khôn nguôi vừa khẳng định tấm lòng trinh bạch của nàng. Tác giả đã sử dụng kết hợp các điển tích, điển cố “ngọc Mị Nương, cỏ Ngu mĩ” như lối so sánh ngầm. Tấm lòng của Vũ Thị Thiết cũng sáng trong, trinh khiết như Mị Nương, Ngu Cơ – những trang “tiết hạnh khả phong” của muôn đời. Lòng tự trọng bị xúc phạm nặng nề và để minh oan cho sự trong sáng của mình, Vũ Nương đã “gieo mình xuống sông mà chết”. Cái chết của nàng khiến người đọc hiểu thêm về số phận bi thảm của người phụ nữ xưa. Hạnh phúc với họ thật mong manh.
Tuy vậy, dù ở hoàn cảnh nào người phụ nữ vẫn đau đáu một niềm yêu thương chồng con tha thiết. Vũ Nương dù đã chết nhưng không nguôi nỗi nhớ mái ấm gia đình. Với tài năng bậc thầy, Nguyễn Dữ đã xây dựng nên một thế giới huyền ảo, một cây cầu nối hai bờ hư thực khi để nhân vật Phan Lang gặp lại và trò chuyện với Vũ Nương chốn thủy cung. Những giọt nước mắt của nàng khi nghe người hàng xóm nói về chồng con “Nhà cửa tiên nhân của nương tử, cây cối thành rừng, phần mộ tiên nhân của nương tử, cỏ gai ngợp mắt. Nương tử dù không nghĩ đến, nhưng tiên nhân còn mong đợi nương tử thì sao?” cho chúng ta thấy, nàng vẫn một lòng yêu thương Trương Sinh tha thiết. Vì còn lòng yêu thương nên nàng đã để cho Trương Sinh có cơ hội gặp lại mình: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về”.
Tuy nhiên sự trở về của Vũ Nương thật ngắn ngủi : “Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ đầy sông lúc ẩn lúc hiện”. Nàng chỉ nói một câu duy nhất : “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Biết bao ý tình nhà văn Nguyễn Dữ đã gửi gắm vào sự trở về chốc lát của Vũ Nương. Đó là sự trở về để khẳng định lòng chung thủy, tình yêu thương, là món quà dành cho người biết hối lỗi như Trương Sinh. Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi, chốc lát thể hiện con người đã ra đi mãi mãi không thể trở về, cũng như hạnh phúc một khi đã để tuột mất thật khó có thể lấy lại. Trương Sinh vì ghen tuông mù quáng nên đã để mất người vợ. Bên cạnh đó, ẩn sâu trong sự trở về của Vũ Nương là nỗi ngậm ngùi, đau đớn, xót xa cho số phận người phụ nữ:
Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Qua đoạn trích ta thấy được nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Dữ: sử dụng ngôi kể thứ ba, đặt nhân vật vào nhiều hoàn cảnh khác nhau để bộc lộ rõ vẻ đẹp và số phận của nhân vật. đây cũng chính là vẻ đẹp và số phận của người phụ nữ trong xã hội pk mà ta từng bắt gặp trong "truyện kiều" của Nguyễn Du và "truyện lục vân tiên"của Nguyễn Đình Chiểu. đằng sau đó là tấm lòng yêu thương trân trọng của nhà văn dành cho người phụ nữ
Đã gần năm thế kỉ trôi qua, nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm vẫn khiến người đọc khó thể nào quên được. nhà văn Nguyễn dữ đã để lạ cho neenff văn học trung đại VN một truyên ngắn xuất sắc sống mãi với thời gian. có lẽ vì vậy mà "chuyện người con gái nam xương nói riêng", tập"truyền kì mạn lục nói chung luôn có vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 9 - Là năm cuối ở cấp trung học cơ sở, sắp phải bước vào một kì thi căng thẳng và sắp chia tay bạn bè, thầy cô và cả kì vọng của phụ huynh ngày càng lớn mang tên "Lên cấp 3". Thật là áp lực nhưng các em hãy cứ tự tin vào bản thân là sẻ vượt qua nhé!
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK