Trang chủ Ngữ văn Lớp 11 Xuân diệu là nhà thơ rất nhậy cảm về thời...

Xuân diệu là nhà thơ rất nhậy cảm về thời gian anh chị hay làm sáng tỏ điều đó qua bài thơ vội vàng câu hỏi 210356 - hoctapsgk.com

Câu hỏi :

Xuân diệu là nhà thơ rất nhậy cảm về thời gian anh chị hay làm sáng tỏ điều đó qua bài thơ vội vàng

Lời giải 1 :

Dàn ý 

MB : - Giới thiệu tác giả Xuân Diệu và bài thơ " Vội vàng"

TB : 

1. Tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm say mê của tác giả (11 câu đầu):

- Tác giả muốn ngự trị thiên nhiên, muốn tước đoạt quyền của tạo hóa để thiên nhiên và thời gian không thay đổi

- Niềm say mê, yêu thiên nhiên tha thiết của tác giả

- Bức tranh thiên nhiên được hiện lên rất hữu tình, xinh đẹp và có đôi lưa

2. Nổi băn khoăn trước thời gian và cuộc đời ( 18 câu tiếp theo)

- Nhà thơ cảm nhận được thời gian trôi mau

- Nhịp thơ của tác giả cũng hối hả, những câu thơ đầy mỹ miều về thiên nhiên

- Xuân Diệu cảm nhận thiên nhiên một cách mất mát

- Lưu luyến tuổi trẻ, niềm say mê thiên nhiên đẹp đẽ

3. Khát vọng sống, khát vọng cuồng nhiệt của tác giả ( 10 câu cuối):

- Giục dã thời gian để tận hưởng cuộc sống

- Mãnh liệt khát vọng yêu thương

- Tác giả cảm nhận thiên nhiên bằng tất cả các giác quan của mình

KB : - Nêu cảm nghĩ của em về bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu

** Bài viết tham khảo

  Xuân Diệu được mệnh danh là "nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới". "Vội vàng" là một trong những bài thwo hay nhất của ông. Tác phẩm đã thể hiện một tình yêu đời, yêu người đến cuồng nhiệt, đắm say của tác giả, đồng thời mang đến một quan niệm nhân sinh sâu sắc về sự chảy trôi gấp gáp của thời gian và sự vội vàng của đời người.

   Một bài thơ lại giàu tính triết lý, những tưởng là điều chỉ xảy ra với những hồn thơ mang nặng tính suy tưởng, hơi hướng chính luận. Nhưng thơ Xuân Diệu lại đặt những nỗi niềm cảm xúc. Thật khó có thể tưởng tượng, tính triết lý sẽ được thể hiện trong thơ ông. Ấy vậy mà triết lý trong Vội vàng lại hình thành từ chính những cảm xúc ấy. Không những được bộc lộ rất tự nhiên mà nó trở thành giá trị nội dung vô cùng sâu sắc đằng sau một hồn thơ đa cảm. Triết lý nhân sinh trong bài thơ được bắt nguồn từ chính quan niệm sống cuồng nhiệt, đắm say, thiết tha của Xuân Diệu. Đó là quan niệm sống vội vàng. Lối sống của một cái tôi rất đỗi trần thế, rất con người trong thơ.

    Vội vàng là bài thơ “tuyên ngôn” cho người ta thấy, nhất là người trẻ, thế nào là tình yêu cuộc sống, yêu cuộc đời. Vào những năm ấy thơ ca đương thời đang ẩn sâu trong nỗi buồn sâu thẳm của cả một thế hệ. Cái nỗi niềm “thiếu quê hương” khiến họ lẩn tránh trong những góc khuất của quá khứ, trong những cuộc phiêu lưu ái tình và cả trong những cảnh sắc của thiên nhiên đất nước mình. Biết bao nhà thơ yêu đời, yêu người tha thiết nhưng vẫn cứ trống trải, buồn bã, cô đơn. Còn Xuân Diệu thì khác, nhà thơ mang đến hơi thở rất đời, rất hiện thực mà vẫn dạt dào cảm xúc trong thơ. Vội vàng mở đầu ngay bằng những khát vọng về tình yêu cuộc đời đầy cháy bỏng, tha thiết:

Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi

    Đó là khát vọng quá ngông cuồng, phi lí của nhân vật trữ tình. Làm sao tắt nắng? Làm sao buộc gió? Ấy là quy luật của tạo hóa, tự nhiên. Chủ thể trữ tình lại muốn can thiệp, muốn đoạt quyền để tự mình ngưng đọng thời gian. Mấu chốt của khát vọng ấy là giữ lại được hương sắc cuộc đời để mà tận hưởng, đắm chìm. Sẽ không có gì là ngạo mạn hay hoang đường, khi điều đó được xuất phát từ một tình yêu lớn lao với cuộc sống. Thể hiện tình yêu ấy qua khát vọng này, nhà thơ đã “tuyên ngôn” cho một lẽ sống mang đậm tính triết lý nhân sinh.

    Nhưng lẽ yêu đời, yêu người không dừng lại ở khát vọng mà ở hiện thực cuộc sống với những vấn đề trái ngược, đối lập nhau. Xuân Diệu khao khát cuộc sống này là bởi vì nó đẹp, đẹp như một chốn thiên đường ngay trên mặt đất nhưng lại đầy lo sợ, run rẩy trước sự trôi chảy nghiệt ngã của thời gian sẽ cuốn phăng đi tất cả những vẻ đẹp đó. Bởi vậy, phần tiếp theo của bài thơ là sự giãi bày, tranh biện của Xuân Diệu về cuộc sống, về thời gian để thổ lộ tình yêu tha thiết của mình. Ông đã tự trả lời cho câu hỏi vì sao lại muốn tắt nắng, buộc gió bằng đoạn thơ:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân

    Nếu lướt qua, người đọc tưởng mình đang lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh nào đó. Nhưng chợt nhận ra, đó toàn là những thứ rất gần gũi, thân thuộc, ngay xung quanh mình: ong bướm, hoa đồng nội, lá, yến anh,…. Xuân Diệu chỉ thêm một động tác là thổi hồn vào đó những gì căng tràn, mơn mởn, tươi non nhất của sắc xuân và hơi thở ngây ngất, quyến rũ của tình yêu, làm cho vạn vật đẹp đẽ, giàu sức sống ở thời khắc xuân thì. Các điệp từ của, này đây và thủ pháp liệt kê đã biến tất cả những thứ đơn sơ ấy trở thành một bữa tiệc của trần gian mà nhà thơ như ra sức vẫy gọi, mời chào. Thật không sai khi chứng kiến khung cảnh ấy lại nhớ đến lời của nhà phê bình Hoài Thanh nói: “Xuân Diệu đã đốt cảnh bồng lai, xua ai nấy về hạ giới”. Bởi vậy mới cho rằng, Xuân Diệu là nhà thơ của trần thế, ông không kiếm tìm vẻ đẹp ở đâu xa xôi, ở những thứ cao sang, quý phái. Chính sự đơn thuần, mộc mạc gắn bó với cuộc đời ấy đã làm tình yêu cuộc sống của nhà thơ mang đậm tính triết lý nhân sinh.

    Và trong khoảnh khắc mê đắm khung cảnh thiên nhiên, cuộc sống ấy, nhà thơ vẫn không quên dành tình yêu cho con người. Ở Vội vàng con người không hiện lên bằng hình hài, chân dung, số phận nào cụ thể. Chỉ thông qua một cách so sánh đặc biệt để nhà thơ đưa ra một quan niệm thẩm mĩ mới mẻ, độc đáo, khác xưa:

 Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

Hay

  Tháng giêng ngon như một cặp môi gần

    Ánh sáng, tháng giêng là những thứ thuộc về tự nhiên. Mà trước đây, mọi cái đẹp đều lấy chuẩn mực từ tự nhiên. Nhưng nay Xuân Diệu lại nhìn thấy thứ ánh sáng buổi bình minh lóe lên lại đẹp như cái chớp hàng mi của người thiếu nữ, hay tháng giêng – tháng của mùa xuân lại ngon như một cặp môi gần. Lấy con người là thước đo cho mọi cái đẹp, sự hoán đổi thú vị mà vô cùng hợp lý này đã tạo ra cho nhà thơ một quan niệm thẩm mĩ đầy mới mẻ và có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Đó là cách nhà thơ tự khẳng định, đề cao và tôn vinh con người. Không phải là thứ gì khác, con người mới chính là sản phẩm tuyệt vời, đẹp đẽ nhất của tạo hóa.

    Thế nhưng thiên nhiên, con người dẫu đẹp đến đâu cũng không thể chống lại được quy luật của thời gian. Xuân Diệu đã dùng cả một đoạn thơ dài như lời tranh biện hăng say để nói lên sự nghiệt ngã trong quy luật ấy. Ông nhìn thấy, thậm chí cảm thấu được từng bước đi của nó. Nên trong hơi thở của sự sống, nhà thơ như một “bậc tiên tri” dự cảm những điều “chẳng lành” mà thời gian đem lại. Vẫn là mùa xuân, nhưng không còn tươi non, mơn mởn nữa, mà giờ đây xuân càng tới nghĩa là xuân càng qua, xuân càng non nghĩa là xuân đang già. Tại sao Xuân Diệu lại lo sợ đến mức run rẩy như thế? Hóa ra bấy lâu nay thời gian đâu có tuần hoàn như người ta tưởng, nó vẫn lặng lẽ trôi đi và cuốn phăng mọi thứ mà không bao giờ trở lại. Mỗi phút trôi qua là một điều mất mát, với đời người là sự rút ngắn thời gian sống trên cuộc đời. Minh chứng cho điều ấy, nhà thơ bẽ bàng chỉ ra hiện thực: lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật, tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.

    Bao nhiêu niềm tiếc nuối, ngậm ngùi lan tràn sang cả cảnh vật thiên nhiên. Đất trời, sông núi, cỏ cây, chim muông đều trong tình cảnh tan tác, chia lìa bởi nghịch cảnh mang tên thời gian. Nhà thơ đã thay lời cho biết bao nhiêu hồn ham sống để “cảnh báo” mọi người về quy luật khắc nghiệt của thời gian. Nhiều người nói rằng, rốt cuộc Xuân Diệu cũng như bao nhà thơ mới khác, có yêu đời đến đâu cũng vẫn lo lắng, sợ hãi để rồi buồn thương, chua xót, ngậm ngùi. Vội vàng có điều ấy nhưng nó không khiến người ta chán nản, lo âu mà như một lời nhắc nhở về thái độ sống sao cho đúng trước những vấn đề bất trắc của cuộc đời. Như cách nhìn về thời gian đầy tính mất mát trong bài thơ này, ông đã bộc lộ rất sâu sắc quan điểm có tính triết lý nhân sinh.

    Chính vì thế, Vội vàng không phải là một bài thơ buồn, càng không phải là một bài thơ nặng nề, ảo não những suy tư. Ngược lại, nó vô cùng khí thế, sục sôi, nhờ những lời giục giã mạnh mẽ của nhà thơ đối với mọi người về lẽ sống vội vàng. Thơ Xuân Diệu thường luôn căng tràn nhiệt huyết sống, nhiệt huyết yêu, đến với Vội vàng người đọc lại càng có ý thức yêu và sống sao cho đúng đắn. Nhà thơ nhắn nhủ:

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm

 - Hỡi xuân hồng! Ta muốn cắn vào người.

    Ý nghĩa nhân sinh của bài thơ được tạo nên từ lời giục giã mọi người hãy “lên đường” để sống. Xuân Diệu khuấy động người ta bằng cách đưa ra hàng loạt những trạng thái sống mãnh liệt nhất. Nào ôm, nào riết, say, thâu và cả cắn nữa. Ông không bỏ lỡ một phút sống nào. Xuân Diệu cuống quýt, vồ vập nhưng không xuề xòa hay tùy tiện. Nếu để ý, ông giục giã mọi người hãy sống vội vàng vào những khoảnh khắc, thời điểm đáng sống nhất. Cho nên khi sự sống mới bắt đầu mơn mởn, mây đưa gió lượn, cánh bướm với tình yêu, cái hôn nhiều… không được để lãng phí. Những giây phút ấy phải sống toàn tâm, toàn trí, sống toàn hồn. Triết lý nhân sinh nằm ngay ở lời giục giã ấy như thế. Con người vì cuộc sống mà có lúc xao lòng, mềm yếu, chán nản… nhưng khi ở vào mỗi khoảnh khắc, nhất là thời tuổi trẻ phải sống sao cho đáng sống, để không bao giờ phải nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời, cũng không còn phải tôi muốn tắt nắng đi, buộc gió lại.

    Giá trị lớn nhất của triết lý nhân sinh là giúp chúng ta nhận ra con người là một hiện hữu, chấp nhận đời sống của con người là một thực tại sinh tồn. Vội vàng. chỉ là một bài thơ chứ không phải một báo cáo triết học. Nhưng Xuân Diệu qua tác phẩm này cũng vô cùng xứng đáng được liệt vào hàng ngũ những người có tư duy triết học lớn. Thi phẩm giúp người ta nhận ra một lẽ sống, giúp chúng ta nhận ra mình sống để làm gì, con người có vai trò, ý nghĩa giá trị ra sao… Đó chính là triết lý nhân sinh mà nhà thơ gửi gắm, nó đưa tác phẩm vượt xa khỏi giới hạn của một bài thơ. Chắc chắn bao thế hệ bạn đọc đã qua và mai sau sẽ vẫn cảm nhận được giá trị to lớn bắt nguồn từ triết lý nhân sinh mà nhà thơ Xuân Diệu đã thể hiện trong tác phẩm Vội vàng.

Thảo luận

Lời giải 2 :

Một trong số những bài thơ tiêu biểu cho thơ Xuân Diệu là bài Vội vàng in trong tập Thơ thơ thi phẩm được sáng tác trong những năm mười tám đôi mươi của của nhà thơ. Vội vàng là bài thơ thể hiện tình yêu nồng nàn của Xuân Diệu đối với cuộc sống tươi đẹp mà nhà thơ tự thấy phải gấp gáp nhận lấy. Bài thơ Vội vàng được mở đầu bằng bốn dòng thơ ngũ ngôn ngắn gọn, mạnh mẽ như lời tuyên bố về khát vọng của mình:

   Tôi muốn tắt nắng đi,
   Cho màu đừng nhạt mất.
   Tôi muốn buộc gió lại,
   Cho hương đừng bay đi.

   Tắt nắng, buộc gió là những điều con người không thể làm được, đó là những khát khao phi lí. Nhưng cái phi lí ấy lại có lí với trái tim của nhà thơ, bởi đó là trái tim đầy khao khát mãnh liệt, muốn sống đến trọn vẹn chữ “sống”, muốn giữ mãi cho mình những hương, những sắc của của cuộc đời. Mà cuộc đời trong cảm nhận của nhà thơ lại đẹp đẽ biết chừng nào, quý giá biết bao nhiêu. Nhà thơ thấy rằng trong cuộc sống, mọi thứ đều kì diệu, mỗi sự vật dù nhỏ bé đến đâu cũng đều dâng hiến cho đời những vẻ đẹp tinh tuý nhất của mình:

   Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
   Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
   Này đây lá của cành tơ phơ phất,
   Của yến anh này đây khúc tình si
   Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.

   Bướm ong thì có tuần tháng mật đầy ngọt ngào, cuốn hút, đồng nội thì có vẻ đẹp của màu xanh mơn mởn và muôn hoa rực rỡ, cành tơ non thì có muôn lá rung rinh, ánh sáng bình minh như cái chớp mi của người đẹp…Những câu thơ có nhịp điệu thật nhanh, thật gấp gáp, sử dụng phép liệt kê, điệp ngữ, rất nhiều tính từ, cách liên tưởng táo bạo, đa tình. Cuộc sống trần gian hiện lên qua đó thật sống động, tươi tốt, đáng yêu, đáng sống, tràn ngập âm thanh, màu sắc tươi sáng, khai mở ra một thiên dường tồn tại chính trên cõi trần này. Với Xuân Diệu, cuộc đời lúc nào cũng tràn ngập niềm vui, mỗi ngày mới đến là niềm vui cũng gõ cửa ùa vào theo:

   Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa

   Niềm vui như một vị thần độ lượng, ban phát hạnh phúc cho từng người. Phải nói rằng trong thơ Việt Nam, chưa ai có cách cảm nhận cuộc sống, mùa xuân như cách cảm nhận của Xuân Diệu:

   Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần

   Xuân Diệu chẳng lấy thiên nhiên làm chuẩn mực của cái đẹp khi so sánh với con người như thơ cổ mà lại lấy con người làm chuẩn mực để so sánh với vẻ đẹp của thiên nhiên. Nếu Nguyễn Du so vẻ đẹp của Thuý Vân-Thuý Kiều “Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da” thì Xuân Diệu lại liên tưởng “ Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”. Một cách so sánh rất riêng, rất táo bào, đầy tình yêu đời nồng nhiệt rất Xuân Diệu. Ông thấy mùa xuân với bao vẻ đẹp sinh động của nó giống như cặp môi đỏ mọng của thiếu nữ đang kề gần. Cách so sánh này chứa đựng bao rung động tận đáy lòng, vừa có sự khao khát, thèm muốn, háo hức rất thiêng liêng mà cũng rất trần tục. Nhà thơ yêu cuộc sống đến si mê, cháy bỏng! Có một cuộc sống đẹp như thế để sống, có bao hương sắc tuyệt diệu như thế để tận hưởng, con người ta sẽ sung sướng biết bao. Nhưng, tựa như một cung nhạc đang vút cao, đến đâybỗng chùng xuống:

   Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.

   Câu thơ bị ngắt làm hai, niềm vui sướng không được trọn vẹn. Bởi Xuân Diệu nhận ra rằng điều sung sướng ấy ngắn ngủi biết bao:

   Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,
   Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già

   Xưa nay, người ta chỉ tiếc những kỉ niệm khi nó đã trở thành quá khứ, tiếc xuân khi nó đã không còn. Ở đây, Xuân Diệu với sự nhạy cảm lạ lùng của nhà thơ yêu cuộc sống đến đắm say, ông tiếc mùa xuân ngày khi mùa xuân vẫn còn đang phơi phới. Vì nhà thơ biết rằng thời gian sẽ trôi qua nhanh, mà với những gì quý giá, với những vẻ đẹp, thời gian còn tàn nhẫn trôi nhanh hơn gấp bội, nhanh đến khủng khiêp, phũ phàng. Cái non trẻ, thắm tươi rồi sẽ chẳng mấy mà già nua, héo úa. Điều ấy lại ảnh hưởng vô cùng to lớn đến Xuân Diệu:

   Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất

   Câu thơ đầy cảm giác buồn bã. Nhà thơ phát hiện ra một điều bi thảm cho mình: mùa xuân trôi qua, tuổi trẻ sẽ trôi qua. Mà khi tuổi trẻ đã trôi qua thì cuộc đời nào còn ý nghĩa gì nữa. Bởi quý giá nhất của cuộc đời, dất trời là mùa xuân, quý giá nhất của con người là tuổi trẻ. Con người khao khát vẻ đẹp tồn tại vĩnh cửu, nhưng cuộc đời lại có những quy luật vô cùng chặt chẽ và nghiệt ngã:

   Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
   Không cho dài thời trẻ của nhân gian

   Thời gian thì vô hồi vô hạn, nhưng đời người thì hữu hạn. Con người trong cái hữu hạn ấy trở nên thật nhỏ bé, tội nghiệp và mong manh. Bao người lí luận rằng xuân đi xuân đến, nhưng với Xuân Diệu, ông chẳng thể tự an ủi mình mà trái lại, càng xót xa hơn:

   Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
   Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.
   Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,
   Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.

   Mùa xuân của đất trời đẹp lắm, quý giá lắm, nhưng mùa xuân chỉ quý giá, chỉ đẹp khi con người biết hưởng, được hưởng vẻ đẹp của nó. Khi con người chẳng còn trẻ mà tận hưởng mùa xuân thì xuân cũng mất hết ý nghĩa. Những câu thơ của Xuân Diệu vì thế mà chuyển sang giọng điệu buồn bã:

   Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
   Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
   Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
   Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
   Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi,
   Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa

   Tất cả đều buồn bã, đều mất hết ý vị, chỉ còn “rớm vị chia phôi”, chỉ biết “than thầm tiễn biệt”, chỉ còn “hờn dỗi phải bay đi”, chỉ “sợ độ phai tàn sắp sửa”. Trong thơ Việt Nam, ít ai có giọng thơ nuối tiếc thời gian, thương tiếc cuộc sống thiết tha dường ấy. Cũng vẫn gió lá hoa như đạo đầu nhưng đoạn trên rạo rực náo nức, đoạn này lại buồn thương ngậm ngùi, xót xa biết bao nhiêu. Nhà thơ kêu lên một cách tuyệt vọng:

   Chẳng bao giờ! Ôi chẳng bao giờ nữa!

   Nỗi đau đớn của Xuân Diệu phải sâu sắc lắm, cắt cứa lắm, thấm thía lắm thì mới bộc phát thành tiếng than kêu thống thiết dường ấy. Thời gian cứ mênh mông nhưng mùa xuân và tuổi trẻ của con người cứ ngắn ngủi. Con người chẳng thể làm được gì để biến cái hữu hạn của đời người thành cái vô hạn trường tồn cùng vũ trụ. Chỉ còn mỗi cách, đó là phải hối hả, phải đắm say mãnh liệt hơn, phải vội vàng thâu nhận đến mức độ cao nhất, nhiều nhất những vẻ đẹp nhân gian, những thứ ưúy giá của đời sống, của tuổi trẻ, mùa xuân. Xuân Diệu giục giã:

   Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
   Ta muốn ôm
   Cả sự sống mới bắt đàu mơn mởn,
   Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
   Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
   Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
   Và non nước, và cây, và cỏ rạng.

   Những câu thơ mạnh bạo, gấp gáp, giục giã như một dòng suối ào ạt tuôn chảy, tưởng chừng ngôn từ xô đẩy vào nhau, chen lấn nhau để cho kịp mạch cảm xúc đang bừng lên sôi nổi của nhà thơ. Những tiếng “ta muốn” láy đi láy lại mãi như một điệp khúc bất tận để khẳng định niềm khao khát cháy bỏng muốn sống đến tận cùng cảm giác của Xuân Diệu. Một loạt điệp từ được sử dụng theo mức độ tăng dần của khao khát: muốn ôm – muốn riết – muốn say – muốn thâu – muốn cắn thể hiện tam trạng si mê đến cuồng nhiệt. Trong một câu thơ mà có đến ba hư từ “và” chứng tỏ Xuân Diệu nồng nhiệt đến rối rít, cuống quýt, như muốn cùng lúc dang tay ôm hết cả vũ trụ, cả cuộc đời, mùa xuân vào lòng mình. Sống như thế với Xuân Diệu mới thực là sống, mới đi đến tạn cùng của niềm hạnh phúc được sống.

   Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
   Cho no nê thanh sắc của thời tươi

   Hạnh phúc của sự sống là mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc. Tận hưởng cuộc đời chính là có dược cảm nhận về những điều ấy ở độ tràn trề nhất. Xuân Diệu muốn tận hưởng cuộc sống cho đến “no nê”, “chuếnh choáng”, “đã đầy”. Trong niềm cảm hứng ở độ cao nhất, Xuân Diệu nhận ra cuộc đời, mùa xuân như một cái gì quý nhất, trọn vẹn như một trái đời đỏ hồng, chín mọng, thơm ngát, ngọt ngào, để cho nhà thơ tận hưởng trong niềm khao khát cao độ:

   Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi

   Câu thơ là đỉnh cao của những khao khát sống, của tình yêu sống rạo rực trong con tim nồng cháy của Xuân Diệu.

  Bài thơ Vội vàng thể hiện tam trạng đắm say bồng bột của một tấm lòng ham sống mãnh liệt. Bài thơ còn thể hiện một quan niệm sống sống gấp gáp vội vàng tận hưởng những hạnh phúc trần thế, một quan niệm sống lành mạnh và tích cực so với đương thời. Bài thơ là một sáng tác tiêu biểu cho phong cách thơ trẻ trung tươi mới của “nhà thơ của tình yêu”, bài thơ rất tự do, hình ảnh giàu sức gợi, giàu nhạc điệu và cách liên tưởng rất hiện đại. Tâm trạng yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt trong tác phẩm khẳng định tư tưởng nhân văn của nhà thơ. Cho đến nay, nội dung thúc giục mọi người sống có nghĩa trong cuộc sống thực tại của bài thơ vẫn còn bao ý nghĩa với thế hệ trẻ.

 

Bạn có biết?

Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.

Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

Tâm sự 11

Lớp 11 - Năm thứ hai ở cấp trung học phổ thông, gần đến năm cuối cấp nên học tập là nhiệm vụ quan trọng nhất. Nghe nhiều đến định hướng sau này rồi học đại học. Ôi nhiều lúc thật là sợ, hoang mang nhưng các em hãy tự tin và tìm dần điều mà mình muốn là trong tương lai nhé!

Nguồn : ADMIN :))

Liên hệ hợp tác hoặc quảng cáo: gmail

Điều khoản dịch vụ

Copyright © 2021 HOCTAPSGK