Lê Quý Đôn từng cho rằng: “Trong bụng không có ba vạn quyển sách, trong mắt không có cảnh núi sông kì lạ của thiên hạ thì không thể làm thơ được.” Nhưng có lẽ, theo Hoài Thanh và Hoài Chân nhận xét, nhà thơ Huy Cận chỉ “đi lượm lặt những chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não. Người đời sẽ ngạc nhiên vì không ngờ với một ít cát bụi tầm thường thi nhân lại có thể đúc thành bao nhiêu châu ngọc.” “Châu ngọc” ấy, không chỉ là “ba vạn quyển sách” bất di bất dịch, không chỉ là “cảnh núi sông kì lạ” bất biến theo thời gian mà nó là tầm vóc của vũ trụ, là nỗi niềm đi cùng với nhân thế. Trái tim của ông như đập chung một nhịp với trái tim của thời đại. Trước năm 1945, vần thơ của ông sao mà tha thiết, não nề đến thế:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng”
Gọi Huy Cận là một nhà thơ, chẳng bằng gọi ông là một họa sĩ. Ông tạc ra một kiệt tác theo phong cách của chính mình, riêng tư, kín đáo mà lãng mạn, thơ mộng, khó phân thực ảo. Cánh “buồm trăng” kia chẳng biết là cánh buồm đầy đặn, no gió, từ xa nhìn lại tựa một vầng trăng thứ hai, hay “buồm trăng” ấy là bóng dáng vầng trăng phản chiếu dưới mặt nước, dát vàng dát bạc khắp thế gian. Chẳng ai rõ, chỉ biết mỗi người có một câu trả lời thi vị cho riêng mình, còn đối với Huy Cận, có lẽ chiếc thuyền với cánh “buồm trăng” ấy bước ra từ một thế giới cổ tích khác. Mạch liên tưởng ấy tiếp tục được khai thác ở câu thơ thứ hai. Hình ảnh “mây cao với biển bằng” đã trả lại cho thiên nhiên cảm giác vũ trụ bạt ngàn, kì vĩ quen thuộc trong thơ Huy Cận. Nhưng điều ấy không đồng nghĩa với việc con người được đặt giữa không gian ấy sẽ trở nên đơn lẻ, lo lắng mà càng thêm vẻ hào hứng, phấn khởi. Họ không chỉ mang trong mình vẻ đẹp của những người lao động mới, mà họ còn mang vẻ đẹp tầm hôn say mê trước cái đẹp của một thi sĩ:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”
Hai câu thơ đầu được nhà thơ sử dụng nghệ thuật liệt kệ làm nổi bật lên sự giàu có của biển cả quê hương. Không chỉ nhiều về số lượng mà còn có chất lượng rất cao. Đặc biệt nhất trong số đó, được Huy Cận quan sát tỉ mỉ nhất là loài cá song. Biển khơi vốn mang tính thủy nhưng qua biện pháp ẩn dụ độc đáo “cá song lấp lánh đuốc đen hồng” đã đưa tính thủy đứng cùng với tính hỏa, tạo thành sự đối lập mới mẻ, thú vị trong câu thơ của ông.
Hai câu thơ cuối, Huy Cận tiếp tục sử dụng nghệ thuật nhân hóa, tưởng chừng đơn giản nhất là gọi chú cá song là “em” nhưng lại đem đến sự thân thương, gẫn gũi gắn kết giữa những người dân chài với thiên nhiên một cách bất ngờ. Bên cạnh đó, động từ “quẫy” như tô thêm “tính người” cho chú cá song, khiến chú xem chừng là một đứa trẻ tinh nghịch, tò mò, hồn nhiên đùa giỡn với ánh trăng hư ảo trên mặt nước. Câu thơ cuối là một vết chấm phá độc đáo khác của nhà thơ Huy Cận. Ta có thể hiểu từ “thở” nhằm chỉ hơi thở của biển khơi, như thế một cơ thể tràn đầy sức sống, có hơi thở, nhịp đập của riêng mình. Biển đêm không hoàn toàn tĩnh lặng, im mỏi mà như đang thức để dõi theo chuyến hành trình của những người dân. Nhịp thở ấy chính là những cơn sóng nhịp nhàng, nhấp nhô như xô đẩy bóng sao trên mặt biển đêm, kiến tạo nên một không gian trữ tình, lãng mạn mà người đọc khó quên. Bên cạnh đó ta cũng có thể hiểu rằng “sao” là một từ để hỏi. Màn đêm như một người già đang thở than, phàn nàn trước trò đùa nghịch hồn nhiên của chú cá song. Đây cũng là đặc trưng của bút pháp Huy Cận sau năm 1945. Khi thiên nhiên trong thơ ông không còn một vẻ ủ ê, xót xa mà đã tươi sáng và có hồn hơn. Chẳng còn bóng hình thiên nhiên “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” của “một chiếc linh hồn nhỏ mang thiên cổ sầu” đâu nữa.
Thiên nhiên đôi lúc cũng nghiêm khắc, soi sáng để thức tỉnh con người khỏi những điều sai trái như trong bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.”
Nhưng đồng thời thiên nhiên vẫn luôn vị tha, cho phép con người nương nhờ, dựa dẫm, bảo hộ họ trên những chuyến đi xa xôi bất tận, gắn bó với họ từ thuở khai thiên lập địa:
“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
Mặt trăng không chỉ dát bạc cho cánh buồm, đưa con thuyền ra khơi mà nó còn phác họa một khung cảnh mờ ảo, cùng với sóng xô vào mạn thuyền, tạo nhịp điệu cho bài ca gọi cá đến. Chưa lần nào chông chênh trên biển mà chẳng biết mọi thú sẽ đi về đâu, ta chẳng thể nào hiểu hết nỗi lòng của những người dân chài vẫn luôn không ngừng lao động để hướng tới một hậu phương vững chắc, một xã hội chủ nghĩa hoàn chỉnh làm tiền đề cho chiến tuyến miền Nam. Biển cả cho họ miếng cơm manh áo, dù đôi lần bão táp gió mưa nhưng không có biển cả, họ cũng chẳng còn là một người dân chài được nữa. Tự buổi nào, từ khi sinh ra hay đã bao thế hệ trôi qua được biển khơi nuôi nấng như những đứa con, biển khởi trở thành một phần máu thịt của mảnh đất Việt Nam này. Đó là một lối liên kết từ ngàn đời, từ thật xa xưa khó nhớ, nhưng nó khó mà chặt đứt, từ bỏ. Ca dao cũng từng dùng cái dạt dào của nước để nói về lòng mẹ:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
In sâu vào trong tâm thức người Việt, không chỉ là cảnh núi non hùng vĩ, bao là mà còn là một tình thương vô tận: bao dung, vị tha, che chở cho con người như một người mẹ. Đối với người dân nơi đây, biển cả còn hơn cả một kế sinh nhai, nó đã trở thành nhà, trở thành quê hương sẽ mở rộng vòng tay chào đón, ôm ấp ta mỗi khi ta quay về.
Cảnh sắc thiên nhiên trong “Đoàn thuyền đánh cá” không đơn thuần chỉ bộc lộ gián tiếp vẻ đẹp của con người qua từng bức tranh mà còn thể hiện những thông điệp, ý nghĩa mà Huy Cận khéo léo gửi gắm. Đó là một niềm khát khao, hi vọng, chủ động vươn tới tương lai hào hùng, bất khuất, hiên ngang phía trước chứ không phải mòn mỏi, chờ đợi, lầm lụi ngóng về một sự ban phát niềm tin hư ảo nào khác. Tự do phải do chính tay ta kiến tạo nên mới là tự do lâu dài, bền vững nhất.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 9 - Là năm cuối ở cấp trung học cơ sở, sắp phải bước vào một kì thi căng thẳng và sắp chia tay bạn bè, thầy cô và cả kì vọng của phụ huynh ngày càng lớn mang tên "Lên cấp 3". Thật là áp lực nhưng các em hãy cứ tự tin vào bản thân là sẻ vượt qua nhé!
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK