Trang chủ Ngữ văn Lớp 8 Viết một bài văn nghị luận về văn học và...

Viết một bài văn nghị luận về văn học và tình thương (không chép mạng) câu hỏi 1840477 - hoctapsgk.com

Câu hỏi :

Viết một bài văn nghị luận về văn học và tình thương (không chép mạng)

Lời giải 1 :

Bạn vừa đọc một đoạn văn tả cảnh và bất chợt nhận ra vẻ đẹp của bông hoa nở trước hiên nhà, bạn vừa xem xong một quyển tiểu thuyết và thây yêu biết chừng nào cái góc phố dịu dàng với những người hàng xóm lương thiện... Văn chương đã đem đến tình thương cho tôi và cho bạn về những điều ngay ở bên cạnh, những điều diên ra trước mắt, những gì tưởng là nhỏ nhặt mà ta dễ bỏ quên. Có gì cao xa đâu, tình thương mà văn mang đến cho ta lại khởi phát từ chính sự chân thật của lòng ta. Văn học chỉ làm sứ mệnh kết nối và đánh thức tình thương của nhân loại, để trái tim tìm đến những trái tim, tâm hồn đến với những tâm hồn. Bằng chức năng chuyên chở tình thương, văn chương đã đến với cuộc đời như thế!

Nói đến văn là nói đến một phương tiện biểu đạt cảm xúc của con người, nói đến văn học là nói đến một ngành khoa học của văn chương. Nghiên cứu văn học chính là soi chiếu “ba chiều” đời sống lên “hai mặt phẳng” trang văn (Chế Lan Viên) để phân định mọi cung bậc tư tưởng, tình cảm của con người. Đừng hỏi hà. cớ gì chỉ có tình thương mà sao không phải là một loại tình cảm khác. Tình thương là cội nguồn của mọi cảm xúc vì nó xuất phát từ tấm lòng chân thành, và cũng là điểm đến cuối cùng mà con người cần đạt đến. Vì thế như một lẽ tất yếu, văn học là tấm gương phản hình đời sống thì phải khơi gợi được sâu xa nhất đời sống là tâm hồn con người, là tình thương. Văn học chuyên chở tình thương là văn học chân chỉnh!

Ầu ơ lời ru của mẹ, thoang thoảng giọng hò bên sông, đọc đôi câu đối đình làng... thế thôi là yêu, thế thôi là nhớ. Điều nhân bản nhất văn học mang đến cho con người là cái tình mến thương với cuộc đời bình dị. “Nắng cho đời nên nắng cũng cho thơ” (Huy Cận), để rồi văn thơ đã đi tiếp chặng hành trình của nó mang cái tình nồng đượm của đời đến với lòng người. Tình thương đời có lẽ là mối tình thuỷ chung chân thật nhất...

“Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông”

Không cầu kì hoa mỹ, “Quê hương” của Tế Hanh hiện lên trong sự vây bọc của nỗi nhớ da diết, có gì đâu chỉ một làng chài ven biển như mọi ngôi làng khác, chỉ là hoạt động lao động rất đỗi bình thường, nhưng lòng mến thương của thi nhân đã là chất xúc tác biến kí ức thành loại men ngọt ngào. Bao quanh cái bình dị quen thuộc chợt trở thành hình ảnh biểu tượng với sức gợi lớn lao:

“Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”

Cái đẹp đâu chỉ có từ nghệ thuật nhân hoá thế này hay khả năng liên tưởng thế nọ, cái đẹp nằm ở ngay đằng sau câu chữ, là lòng tự hào của nhà thơ về quê hương. Là mảnh đất, là dân chài, là cuộc đời lao động... tất cả đều tồn tại trong cánh buồm ấy, “cánh buồm gương to” biểu tượng cho lòng say mê, niềm khát vọng đối với đời sống bình dị mà đẹp đẽ ở chốn quê hương mình. Để rồi “nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ”, bởi đơn giản thôi, cái tình thương mến đã thấm vào máu thịt nên “khi ta đi đất đã hoá tâm hồn” (Chế Lan Viên).

Văn học từ đời sống đến thẳng với mọi người, với sức vang dội riêng của tâm hồn, bằng tiếng nói riêng của tình cảm. Từ tình thương đời đến tình thương người là cuộc hành trình tất yếu tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc của văn học. Nó như nhân sự sông lên, làm cho người ta trong cuộc sống giới hạn của mình có thể bước qua ngưỡng cửa của hàng trăm cuộc đời khác, cùng vui buồn, ước mơ, lo toan với những con người khác. Ta vừa như quên mình, vừa như tự tìm ra mình trong sự đồng cảm bao dung ấy. Ai mà không xúc động trước hình ảnh của “cô bé bán diêm” giữa mùa đông tê tái, cứ từng hồi quẹt lên những que diêm để ngọn lửa nhỏ nhoi giữ lại những ước mơ đời thường. Ánh sáng của những que diêm hay ánh sáng của tình yêu và niềm hy vọng trong trái tim cô bé? Chính ánh sáng ấy đã lấy đi cảm giác về cái giá lạnh của trời đêm đang cướp dần sự sống ở trong em. Chính ánh sáng của trái tim lung linh như huyền thoại này đã khép lại câu chuyện bằng một hình ảnh tuyệt vời: hai bà cháu cầm tay nhau và vụt bay lên cao. Điều mà Anđécxen gửi gắm vào câu chuyện còn gì khác ngoài việc đánh động tình thương của con người. Tác giả để cho nụ cười đọng lại trên môi em như biểu tượng của tấm lòng vị tha, nhân hậu với cuộc đời. Nhưng đằng sau cuộc đời ấy là một cáu hỏi xót xa: tại sao một đứa trẻ không được mỉm cười bằng những hình ảnh tưởng tượng trước khi về với cõi chết? Chính người đọc phải tự tìm lấy câu trả lời.

Khơi gợi tình thương từ mặt trái của tình thương là cách tiếp cận với con người chua xót nhất. Không chua xót làm sao được khi hôm nay chỉ là cái bóng thầm lặng còn sót lại của “vàng son” hôm qua. “Ông đồ” của Vũ Đình Liên là tiếng thổn thức nhân bản trước sự tàn lụi của một nền văn hoá, sự tồn tại lay lắt của một nghệ sĩ tài hoa:

“Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường khống ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay”

Kết thúc bài thơ là câu hỏi khắc khoải vọng vào không gian, vọng đến lòng người:

“Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”

“Cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn” (cách nói của Vũ Đình Liên) đã ra đi cùng với thái độ thờ ơ, lãnh đạm của người đời. Bài thơ nhẹ nhàng quá mà sâu nặng những nỗi cảm thương!

Thế giới thức tỉnh trong tôi, sự sống rạo rực trăn trở trong tôi và muốn tôi hoà tan vào trong thế giới ấy, muốn ban phát cho tất cả mọi người mà tôi càng thấy thêm gắn bó keo sơn bằng mối tình nhân loại. Tác động của văn học với con người là như thế! Qua “Chiếc lá cuối cùng”, O-Hen-ri không chỉ gửi thông điệp tình thương bạn đọc muôn thế hệ mà còn thể hiện lòng tin yêu mãnh liệt về con người, tin rằng tình người có thể làm thay đổi tất cả, kể cả cái chết. Bằng khao khát “một ngày kia tôi sẽ vẽ một tác phẩm kiệt xuất”, bằng tấm lòng nhân ái bao la, cụ Bơ-men đã “quên mình” để cứu lây sự sống cho Giôn-xi từ một “bức hoạ” đặc biệt: chiếc lá thường xuân trên bức tường. Bệnh lao phổi từ Giôn-xi, cái chết chực chờ của cô đã chuyển giao sang người hoạ sĩ già. Điều còn lại không phải là cái chết mà là nhân cách sống, nghị lực sống của những con người “biết” cải tạo hoàn cảnh và “dám’1 cải tạo hoàn cảnh cho mình và cho người.

Văn học chuyển tải tình thương và văn học là tình thương! Tình thương trong văn học là tấm lòng của nhà văn đối với nhân vật của mình, là những cảm xúc rung lên từ mỗi dòng văn, kiểu như “Nguyền Du viết Kiều như có máu giỏ trên đầu ngọn bút, nước mắt thấm qua từng trang giấy” vậy! Tình thương ấy tuy theo cách nhìn nhận của nhà văn nhà thơ đối với cuộc đời mà có nhiều sắc thái: một cảnh tình thương trong sáng với quê hương và con người lao động như “Quê hương” của Tế Hanh, một tình người bao la và niềm tin vững chắc vào con người như “Chiếc lá cuối cùng” của o Hen-ri, hay một trăn trở khắc khoải đến đau lòng vì sự dửng dưng, phủ phàng của người đời như trong “Cố bé bán diêm” của An- đéc-xen hay “Ông đồ” của Vũ Đình Liên. Nhưng rốt lại cùng vẫn là cái tình nhân loại.

Ta đứng giữa cuộc đời rộng lớn của nhân loại, hai chân ta đứng trên mặt đất, lòng ta toả rễ vào đời đế một ngày người ta hiểu ra rằng:

“Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu người sống để yêu nhau”

(Tố Hữu)

Đó là thông điệp mà văn học chân chính gửi đến con người từ muôn thế hệ.

Thảo luận

Lời giải 2 :

  Văn học luôn ca ngợi những người biết yêu thương, chia sẻ với đồng loại. Đó là tình làng xóm mộc mạc mà chân thành, đáng quý. Ví như tình bạn sâu sắc giữa ông giáo làng và lão Hạc trong tác phẩm Lão Hạc của nhà văn Nam Cao. Hai người là hàng xóm và cũng là bạn thân của nhau. Mỗi khi có chuyện buồn, lão Hạc thường kể với ông giáo, bày tỏ nỗi lòng với ông giáo, và ông giáo cũng đã chia sẻ nỗi buồn, đưa ra những lời khuyên chân thành cho lão. Ông giáo cũng đã nhiều lần ngấm ngầm giúp lão nhưng bị lão từ chối vì lão biết rằng, ở cái xóm này, ai cũng nghèo cả. Khi bị dồn đến bước đường cùng, lão đã để lại toàn bộ gia tài cho con trai và nhờ ông giáo giữ hộ. Điều đó chứng tỏ họ tin tưởng nhau, thân thiết với nhạu như thế nào. Thật đáng quý biết nhường nào! Hay như sự ân cần của bà lão hàng xóm với gia đình chị Dậu trong tác phẩm Tắt đèn của nhà văn Ngô Tất Tố. Khi biết tin anh Dậu vừa được thả về, bị đánh đập xơ xác, mặc dù cũng rất nghèo nhưng bà cụ vẫn mang sang nắm gạo để chị Dậu nấu cháo cho chồng. Như một người mẹ, cụ còn ân cần thăm hỏi, dặn dò chị Dậu. Tôi đã không Cầm được nước mắt trước tình cảm bà cụ dành cho gia đình anh Dậu.

     Nhưng tình cảm đáng quý giữa con người với con người không chỉ là tình làng xóm mà quan trọng hơn, đó là tình cảm gia đình. Đó là tình phụ tử mà lão Hạc đã dành cho người con trai của mình. Người vợ của lão đã sớm ra đi khi đứa con còn trứng nước. Lão đã ở vậy “gà trống nuôi con” cho đến khi thằng bé trưởng thành. Lão chỉ có nó là người ruột thịt nên lão thương yêu nó hết lòng. Vậy mà bây giờ nó phải bỏ đi phu đồn điền vì không có tiền lấy vợ. Lão chỉ còn cách thốt lên đầy chua xót: “Ảnh của nó người ta chụp rồi, nó là người của người ta chứ đâu còn là con tôi nữa”. Lão giờ chỉ còn lại một mình với con Vàng và mảnh vườn nhỏ mà lão nói để dành cho con trai. Lão thà chịu chết chứ nhất quyết không chịu bán mảnh vườn. Tình yêu con của lão thật vĩ đại và cảm động.

      Qua Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, chúng ta cũng sẽ được chứng kiến tình cảm chân thành, trong sáng mà bé Hồng dành cho mẹ. Bé rất thương mẹ vì con còn nhỏ mà đã phải xa gia đình, xa quê hương, tha phương cầu thực. Bé luôn dũng cảm bênh vực mẹ, tin tưởng mẹ sẽ trở về với mình. Bé căm thù những hủ tục mà vì nó mẹ bị khổ sở, bị đọa đày. Thật cao cả thay tình mẫu tử!

     Ngoài ra, thông qua hình ảnh anh chị Dậu trong Tắt đèn, chúng ta còn được thấy tình cảm vợ chồng thuỷ chung son sắt. Ngay khi anh Dậu vừa được thả từ đình về, chị đã vội vàng nấu nồi cháo, rón rén mang đến, dịu dàng động viên chồng cố húp cho đỡ xót ruột. Rồi chị ngồi cạnh xem chồng ăn có ngon không. Khi cai lệ đến bắt trói anh Dậu, chị đã không sợ cường quyền, áp bức, kiên quyết dùng sức mạnh của mình để bảo vệ chồng đến cùng. Thật xúc động trước tình nghĩa cao đẹp của đạo vợ chồng. 

     Nhưng văn học không chỉ ca ngợi những tấm lòng cao đẹp trong xã hội mà còn mạnh mẽ phê phán những kẻ cầm quyền vô lương tâm, vạch trần cho mọi người thấy những tội ác mà bọn thực dân, phong kiến gây ra cho nhân dân. Tác giả Bản án chế độ thực dân Pháp đã thể hiện sự xót thương trước những người vô tội bị bọn thực dân lừa đảo đi làm bia đỡ đạn cho chúng, sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn lên án sự vô lương tâm, coi thường mạng người của bọn quan lại phong kiến,…Còn rất nhiều, rất nhiều tác phẩm văn học mà tôi đã đọc nhưng không có dịp kể ra ở đây. Tôi nghĩ rằng, bất cứ tác phẩm văn học chân chính nào cũng đề cao con người, lấy con người làm trung tâm. Và với con người, hơn tất cả là tình yêu thương đồng loại. Vì vậy, văn học – tình thương mãi song hành cùng con người trong cuộc sống.

Bạn có biết?

Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.

Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

Tâm sự 8

Lớp 8 - Năm thứ ba ở cấp trung học cơ sở, học tập bắt đầu nặng dần, sang năm lại là năm cuối cấp áp lực lớn dần nhưng các em vẫn phải chú ý sức khỏe nhé!

Nguồn : ADMIN :))

Liên hệ hợp tác hoặc quảng cáo: gmail

Điều khoản dịch vụ

Copyright © 2021 HOCTAPSGK