Bình Định cũng là tỉnh nằm trong dải đất Nam Trung Bộ, nhưng cũng chưa thấy có di tích nào thuộc giai đoạn sơ kỳ đá mới, mà mới chỉ phát hiện được di tích ở giai đoạn hậu kỳ đá mới và những hiện vật mang đặc trưng của giai đoạn này là một vài chiếc rìu bôn phát hiện được một cách ngẫu nhiên ở khu vực Hoài Nhơn và Vân Canh, phát hiện này chưa được thẩm định nghiên cứu. Cho nên, có thể nói văn hóa thời tiền sử và sơ sử Bình Định chỉ, có từ giai đoạn sơ kỳ đến hậu kỳ trong giai đoạn kim khí. Đại diện cho nền văn hóa trong giai đoạn này là "Văn hoá Sa Huỳnh".
Từ đầu Công nguyên cho đến thế kỷ XVII, trên dải đất miền Trung Việt Nam đã hình thành một Nhà nước Cổ đại, đó là Nhà nước Chămpa. Nhà nước Chămpa được xây dựng trên một nền tảng được kế thừa thành tựu văn hóa Sa Huỳnh trước đó, đồng thời tiếp thu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa cùng nhiều yếu tố của các nền văn hóa khác trong khu vực. Dân tộc Chăm trong suốt 16 thế kỷ, khởi nguồn từ năm 192 và kết thúc vai trò lịch sử của nó đã để lại một nền văn hóa riêng, độc đáo, góp phần làm giàu kho tàng văn hóa của nhân loại và cũng như cộng đồng các dân tộc Việt Nam sau này.
Bình Định nằm ở trung tâm của dải đất miền Trung với gần 5 thế kỷ giữ vai trò trung tâm của đất nước, mặc dù có nhiều bước thăng trầm, nhưng văn hóa Chămpa ở đây vẫn phát triển đến khi vùng đất này mất vai trò trung tâm của nó, dấu tích văn hóa còn để lại vô cùng phong phú, đa dạng về loại hình, nhiều về số lượng và trở thành đối tượng quan trọng không thể bỏ qua với những người nghiên cứu về văn hóa Chămpa nói chung và giai đoạn Vijaya nói riêng.
Từ năm 1471, vua Lê Thánh Tông cho lập phủ Hoài Nhơn -lãnh thổ chỉ đến đèo Cù Mông: "Phủ Hoài Nhơn lệ vào Quảng Nam thừa tuyên, nhưng từ núi Cù Mông về nam vẫn là người Man, người Lạo ở, chưa có thì giờ để kinh lý đến".
Sau khi trở về kinh đô Thăng Long, tháng 7 năm Hồng Đức thứ 2 (1471), vua Lê Thánh Tông lấy đất Chiêm Thành mới chiếm đặt Quảng Nam Thừa tuyên và vệ Thăng Hoa, đặt 3 ty để trông coi việc dân, việc nước ở Quảng Nam Thừa tuyên.
Các làng xã từ đó cũng được hình thành. Lúc mới thành lập, 3 huyện của phủ Hoài Nhơn có 33 xã: Bồng Sơn:7 xã, Phù Ly: 8 xã, Tuy Viễn: 18 xã.
Năm 1490 (chưa đầy 20 năm sau), theo Thiên Nam dư hạ tập cho biết: dưới thời Hồng Đức, phủ Hoài Nhơn có 19 tổng và hơn 100 xã: huyện Bồng Sơn có 7 tổng, 32 xã; huyện Phù Ly có 6 tổng, 60 xã; huyện Tuy Viễn có 6 tổng...
Tháng 8 năm Mậu Ngọ (1498), nhà Lê cho đặt các sở hiệu của 3 vệ Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn thuộc đô ty Quảng Nam.
Sau một thế kỷ mở đất, người Việt đã vào lập làng ở các vùng đất của phủ Hoài Nhơn nay là tỉnh Bình Định.
Các chúa Nguyễn xuất hiện trong lịch sử Việt Nam lúc đầu gắn với vùng đất Thuận Hoá, sau đó là Quảng Nam rồi phát triển lập nên xứ Đàng Trong.
Tháng 11 năm Mậu Ngọ (1558), Nguyễn Hoàng được vua Lê cử vào trấn nhậm Thuận Hoá. Năm 1570, vua Lê triệu tổng binh Quảng Nam là Nguyễn Bá Quýnh về trấn thủ Nghệ An. Chúa Nguyễn Hoàng được kiêm lãnh hai xứ Thuận Hoá, Quảng Nam. Xứ Quảng Nam vào thời điểm Nguyễn Hoàng cai trị có 3 phủ, 9 huyện; phủ Thăng Hoa có 3 huyện: Lê Giang, Hà Đông, Hy Giang. Phủ Tư Nghĩa có 3 huyện: Bình Sơn, Mộ Hoa, Nghĩa Giang. Phủ Hoài Nhơn có 3 huyện: Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn. Chúa Nguyễn Hoàng đeo ấn Tổng trấn tướng quân, đặt quân hiệu là dinh Hùng Nghĩa.
Để nắm thêm tình hình phủ Hoài Nhơn, năm 1602, chúa Nguyễn Hoàng cho mời khám lý phủ Hoài Nhơn Trần Đức Hoà (bấy giờ gọi là Cống quận công, con của Dương Đàm hầu Trần Ngọc Phân - Phó tướng dinh Quảng Nam) đến yết kiến. Trần Đức Hoà được chúa đãi rất hậu, sau đó, chúa trở về Thuận Hoá.
Năm 1602, chúa Nguyễn Hoàng cho đổi phủ Hoài Nhơn thành phủ Quy Nhơn.
Năm 1651, dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần, chúa cho đổi phủ Quy Nhơn thành phủ Quy Ninh. Năm 1742, chúa Nguyễn Phúc Khoát cho lấy lại tên cũ là Quy Nhơn và vẫn được gọi suốt thời kỳ Tây Sơn.
Đàng Trong thế kỷ XVII là nạn nhân của sự bột phát khốc liệt của cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn. Để tồn tại trong thế đối trọng với Đàng Ngoài, các chúa Nguyễn ở Đàng Trong phải ra sức mở mang phát triển lãnh thổ và kinh tế. Chiến tranh chấm dứt (1672), Đàng Trong khẳng định được mình qua những thập kỷ lớn mạnh, trưởng thành và thử thách. Các chúa Nguyễn đã thắng khi chặn được quân Trịnh với sức áp đảo từ phía bắc Sông Gianh, thu phục được người Miên, người Hoa để mở cõi về phía nam và đưa dân vào sinh sống, làm ăn ở vùng Đồng Nai, Gia Định. Nhưng các chúa Nguyễn cũng chuẩn bị đương đầu với một nguy cơ mới nảy sinh trong lòng xã hội Đàng Trong, đó là các cuộc khởi nghĩa của người nông dân - vốn là nạn nhân của chế độ phong kiến. Họ là những di dân vào Thuận- Quảng làm ăn nên đã đồng tình với các chúa Nguyễn, đánh Trịnh để bảo vệ quê hương, bảo vệ thành quả lao động và cuộc sống của mình. Sau chiến tranh, các chúa Nguyễn tiếp tục gia tăng cường độ bóc lột qua các chính sách thuế má, phu dịch để xây dựng dinh phủ, nuôi sống bộ máy cai trị; một bộ phận quan chức trở nên nhũng lạm, xa hoa, xã hội với nhiều mâu thuẫn nảy sinh. Phủ Quy Nhơn là một trong những nơi chịu áp bức bóc lột nặng nề nhất. Nông dân, thương nhân, các dân tộc ít người đều căm phẫn tột độ. Năm 1695, một thương nhân ở Quy Nhơn là Quảng Phú đã liên kết với thương nhân ở phủ Quảng Ngãi là Linh Vương mua sắm binh thuyền, vũ khí khởi nghĩa chống chúa Nguyễn. Thế kỷ XVIII, cuộc khởi nghĩa của Lía ở phủ Quy Nhơn đã nói lên một khí thế đấu tranh quyết liệt của người nông dân chống địa chủ và cường quyền áp bức. Đó là khúc nhạc dạo đầu của bản anh hùng ca hoành tráng của các thủ lĩnh nông dân Tây Sơn khi Nguyễn Nhạc đã tụ nghĩa ở đất Tây Sơn với những người có nghĩa khí, chống áp bức đã dấy lên cuộc khởi nghĩa (1771) làm rung chuyển cả cơ đồ của chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
Nguyễn Nhạc đã thành công hơn Lía và các thủ lĩnh nông dân khác ở Đàng Ngoài khi chọn được căn cứ địa ở vùng Tây Sơn thượng đạo an toàn, bí mật, vững chắc, được nhiều tầng lớp nhân dân hưởng ứng. Nông dân nghèo, hào phú, thương nhân, các dân tộc ít người... ra sức ủng hộ. Nguyễn Nhạc có nghệ thuật thu phục lòng người, có nghĩa cử với dân nghèo nên đã đưa cuộc khởi nghĩa đến thắng lợi có ý nghĩa trong buổi đầu của phong trào Tây Sơn.
Mùa thu năm 1773, nghĩa quân Tây Sơn mở rộng căn cứ xuống vùng Tây Sơn hạ đạo, lấy ấp Kiên Thành, sinh quán các thủ lĩnh Tây Sơn làm đại bản doanh. Năm đó, Nguyễn Nhạc quyết định cho nghĩa quân đánh chiếm phủ thành Quy Nhơn, nay ở Châu Thành, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn. Nhờ mưu lược của Giáo Hiến, mạo hiểm của Nguyễn Nhạc, sự đồng lòng của các tướng lĩnh và nghĩa quân, Nguyễn Nhạc đã cho nghĩa quân đánh chiếm phủ thành Quy Nhơn. Tuần phủ Nguyễn Khắc Tuyên bỏ thành trốn. Nguyễn Nhạc cho nghĩa quân đánh chiếm kho Càn Dương và Đạm Thủy. Phủ Quy Nhơn hoàn toàn thuộc quyền kiểm soát của nghĩa quân Tây Sơn.
@namphuong76
xin ctrlhn ạ
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 6 - Là năm đầu tiên của cấp trung học cơ sở. Được sống lại những khỉ niệm như ngày nào còn lần đầu đến lớp 1, được quen bạn mới, ngôi trường mới, một tương lai mới!
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK