Lời giải 1 :
Lịch sử dựng nước, mà công đức thuộc các Vua Hùng đã được Dân tộc Việt Nam đời đời ghi nhớ công ơn. Để truyền lại cho muôn đời sau biết được công lao to lớn của các Vua Hùng, thơ ca dân gian đã lưu truyền bài ca dao thấm sâu vào lòng người:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”
Suốt hơn bốn ngàn năm qua, giỗ Quốc Tổ Hùng Vương được tổ chức trang nghiêm, trọng thể ở khắp nơi trên đất đước ta. Giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức vào ngày mồng Mười tháng tháng Ba âm lịch hằng năm. Đã là người Việt Nam con Rồng, cháu Lạc, không ai lại không nhớ ngày Quốc Tổ này.
Khi đến viếng Đền Hùng, ta chợt hiểu công đức của các Vua Hùng thể hiện trong câu đối cổ đầy ý nghĩa: Mở lối đắp nền, bốn mặt non sông qui một mối/ Lên cao nhìn rộng, nghìn trùng đồi núi tựa đàn con. Đền Hùng là chứng tích lịch sử của nước Văn Lang với họ Hồng Bàng gồm 18 vị vua Hùng thay nhau trị vì. Đại Nam quốc sử diễn ca có đoạn kể như sau: Lạc Long về chốn Nam Thùy/ Âu Cơ sang nẻo Ba Vì Tản Viên/ Chủ trương chọn một con hiền/ Sửa sang việc nước nối lên ngôi này/ Hùng Vương đô ở Châu Phong/ Ấy nơi Bạch Hạc hợp dòng Thao Giang/ Đặt tên là nước Văn Lang/ Chia mười lăm bộ, bản chương cũng liền.
Năm 1941, nhân ngày giỗ Tổ, sinh viên Hà Nội tổ chức một cuộc đi thăm miếu Quốc Tổ để nhắc nhở đồng bào cả nước nhớ về cội nguồn. Trong dịp này một sinh viên trường thuốc có năng khiếu âm nhạc, người Nam Bộ, khởi soạn bài hát có tựa đề "Đi hội đền Hùng" gồm có ba đoạn. Sinh viên ấy sau này là nhạc sĩ nổi tiếng Lưu Hữu Phước. Đây là đoạn đầu: Chúng ta cùng nhau đi viếng thăm/ Nơi cố hương của giống Tiên Rồng/ Chúng ta cùng nhau đi viếng thăm/ Những vết xưa của núi sông/ In dấu chân của biết bao anh hùng/Cùng với nhau Nam, Bắc, Trung/ Chúng ta về thăm mộ Tổ ta/ Cho vang với nước non nhà.
Người dự hội giỗ Tổ vua Hùng tới từ thập phương với niềm vui tràn ngập, rộn ràng với những hình thức sinh hoạt văn hóa dân tộc đầy sức sống: Hội đền vui lắm ai ơi/ Kẻ thời giỗ Tổ, người thời đu tiên/ Tổ tôm đánh ở bên trê/ Có người bên dưới đôi bên vui vầy/ Lại thêm phường rối leo dây/ Múa đao, tung quả có hay chăng là/ Lại thêm có đám xướng ca/ Lại thêm có đám xướng ca
Có một bài thơ khá nổi tiếng "Qua Thậm Thình" (1971) của nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi trong sách giáo khoa. Theo nhà nghiên cứu thời đại Hùng Vương là Nguyễn Khắc Xương thì khi ông vè xã Kim Đức và An Thái để sưu tầm, nghiên cứu về hát xoan, trong vùng có bãi Thậm Thình (tên gọi từ ngày xưa) cách đền Hùng khoảng 2,5 km, được các cụ nghệ nhân cho biết: Cái tên Thậm Thình được đặt theo tiếng chày giã gạo, vùng đó là nơi ngày xưa quân lương giã gạo cho vua Hùng. Bài thơ gợi lên những ký ức về thời vua Hùng tuyệt đẹp: Đi qua xóm núi Thậm Thình/ Buâng khuâng nhớ nước non mình nghìn năm/ Vua Hùng một sáng đi săn/ Trưa tròn bóng nắng nghỉ chân chốn này/ Dân dâng một quả xôi đầ/ Bánh chưng mấy cặp, bánh dầy mấy đôi/ Đẹp lòng, vua phán bầy tôi/ Tìm đất kén thợ, định nơi xây nhà/ Trăm cô gái đẹp tiên sa/ Múa chày đôi với chày ba rập rình/ Đêm đêm tiếng thậm, tiếng thình/ Cối gạo đầy cả nghĩa tình nước non/ Không còn đấu cũ lầu son/ Phía sau thành phố khói vờn trong mây/ Trời cao. Bóng tỏa đ
ường cây/ Nhịp chày xưa thoảng đâu đây…Thậm Thình.
Những câu ca dao mang đậm tính nhân văn và nhắc nhở đời đời con cháu nhớ đến ngày giỗ tổ Hùng Vương dù có bận điều gì cũng phải nhớ về ngày lễ đó. Từ xưa đến nay, Đền Hùng là nơi đã từng sinh ra những người con anh hùng, là cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là một biểu tượng linh nghiêm, tôn kính, ăn sâu vào tâm trí con người Việt Nam.
Theo truyền thuyết kể lại rằng: Mẹ Âu Cơ và Người Cha Lạc Long Quân được coi như Thủy Tổ của dân tộc ta, là người đã sinh ra các vị Vua Hùng đáng kính. Bởi vậy lễ hội Đền Hùng hay còn gọi là Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương. Trong tâm trí của người Việt thì ngày Giỗ tổ Hùng Vương luôn chiếm giữ một ý nghĩa đặc biệt. Vào năm 1470 ở đời vua Lê Thánh Tông và năm 1601 đời vua Lê Kính Tông năm có sao chép và đóng dấu kiềm Bản ngọc phả để tại Đền Hùng, trong đó có nói rằng: “…Từ nhà Triệu, nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần đến triều đại ta bây giờ là Hồng Đức Hậu Lê vẫn cùng hương khói trong ngôi đền ở làng Trung Nghĩa. Những ruộng đất sưu thuế từ xưa để lại dùng vào việc cúng tế vẫn không thay đổi…”.
Vào ngày Giỗ Tổ năm 1946 (năm Bính Tuất) – năm đầu tiên của Chính phủ mới được thành lập, cụ Huỳnh Thúc Kháng – Quyền Chủ tịch nước đã dâng một tấm bản đồ Tổ quốc Việt Nam và một thanh gươm quý nhằm cáo với Tổ tiên về đất nước bị xâm lăng và cầu mong Tổ tiên phù hộ cho quốc thái dân an, thiên hạ thái bình cùng nhau đoàn kết, đánh tan giặc xâm lược, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Giỗ Tổ Hùng Vương – Lễ hội Đền Hùng còn là dịp để giáo dục truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, lòng biết ơn sâu sắc các Vua Hùng đã có công dựng nước và các bậc tiền nhân kiên cường chống giặc ngoại xâm giữ nước, đồng thời còn là dịp quan trọng để chúng ta quảng bá ra thế giới về một Di sản vô cùng giá trị, độc đáo, đã tồn tại hàng nghìn năm, ăn sâu vào tâm hồn, tình cảm, trở thành đạo lý truyền thống của đồng bào cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài, là ngày để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta cùng nguyện một lòng mãi mãi khắc ghi lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước – Bác cháu ta phải cùng nhau giữ
Thảo luận