Trang chủ Ngữ văn Lớp 10 Thuyết minh về đoạn một trong bài bình ngô đại...

Thuyết minh về đoạn một trong bài bình ngô đại cáo giúp mik vs ạ>>>> câu hỏi 1752979 - hoctapsgk.com

Câu hỏi :

Thuyết minh về đoạn một trong bài bình ngô đại cáo giúp mik vs ạ>>>>

Lời giải 1 :

Dàn ý siêu chi tiết, bỏ các dòng in đậm đi là thành một bài rồi nha.

Đại cáo bình ngô

A-Đoạn 1:

I-Mở bài:

Xưa nay tư tưởng nhân nghĩa vốn được biết đến là một nội dung của Nho giáo, là tình yêu thương, sự hy sinh và giúp đỡ giữa những con người với nhau. Tư tưởng lớn lao ấy đi vào những áng văn lời thơ cũng mang những nét thật riêng biệt. Nguyễn Trãi đã làm sáng lên “nhân nghĩa” trong Bình Ngô đại cáo, đặc biệt là ở đoạn 1 của tác phẩm. “Nhân nghĩa” ấy chính là yêu dân, đặt nhân dân lên hàng đầu và hãy chiến đấu vì sự hạnh phúc của nhân dân. Qua đoạn 1 Bình Ngô đại cáo sẽ giúp ta hiểu rõ hơn về quan niệm ấy của ông. 

II-Thân bài:

1)Tác giả và tác phẩm:

  1. a) Tác giả:

Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, quê ở Chí Linh, Hải Dương. Ông xuất thân từ trong gia đình có truyền thống văn hóa. Thân phụ của Nguyễn Trãi chính là Nguyễn Phi Khanh – con rể của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Ông sống dưới thời kỳ Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần và lập nên nhà Hồ. Dưới triều nhà Hồ, Nguyễn Trãi cùng cha đi thi và đỗ đạt làm quan nhưng khi giặc Minh xâm lược cha ông bị áp giải về Trung Quốc. Nguyễn Trãi vẫn luôn ghi nhớ canh cánh lời cha phục hưng đất nước. Cuối cùng ông quyết định đi theo phò tá Lê Lợi. Ông là người có đóng góp lớn trong sự nghiệp khởi nghĩa Lam Sơn. Vì thế mà Nguyễn Trãi được xem chính là người khai quốc công thần của nhà Hậu Lê. Thế nhưng bi kịch đã xảy ra. Vụ án oan lớn nhất thời Lê Sơ – án oan Lệ Chi viên đã khiến gia đình ông bị tru di tam tộc. Sau đó đến năm 1464, ông mới được vua Lê Thánh Tông rửa oan. Về sự nghiệp ông là nhà văn chính luận kiết suất và cũng là nhà thơ trữ tình.

  1. b) Tác phẩm:

Sau khi quân ta chiến thắng giặc Minh, Nguyễn Trãi đã thừa lệnh Lê Lợi viết tác phẩm "Bình Ngô đại cáo". Bài cáo này được công bố vào tháng Chạp năm 1428 nhằm mục đích tổng kết lại quá trình chiến đấu chống giặc Minh xâm lược, bảo vệ đất nước và tuyên bố về nền độc lập của dân tộc ta. Cáo là một thể loại thuộc văn học chức năng và là thể văn nghị luận có từ thời cổ ở Trung Quốc, thường được vua, chúa, thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương, sự nghiệp, tuyên ngôn về một sự kiện nào đó để mọi người cùng biết. Đặc trưng cơ bản của thể loại này là được viết bằng văn xuôi hay văn vần nhưng phần lớn cáo được viết bằng văn biền ngẫu, có sử dụng các phép đối, các câu dài ngắn tự do. "Bình Ngô đại cáo" là bài cáo có bố cục chặt chẽ, lí luận sắc bén, giọng điệu, lời lẽ đanh thép, hùng hồn. Bố cục của bài cáo chia thành bốn phần: Phần một tác giả nêu luận đề chính nghĩa hay nói cách khác đó chính là tư tưởng nhân nghĩa của tác giả.

2) Quan niệm nhân nghĩa:

Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Trãi đã nêu ra tiền đề của cuộc khởi nghĩa: 

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Nhân nghĩa là một khái niệm quen thuộc được các nước phương Đông mặc nhiên thừa nhận. Đây là một quan niệm của Nho giáo được dùng như một triết lí trong việc trị quốc.Nhân là người, mối quan hệ giữa người với người còn nghĩa là những việc phù hợp với đạo lí. Vậy nhân nghĩa chính là mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người được xây dựng trên cơ sở tình thương và đạo lí. Nho giáo quy con người về những mối quan hệ rường cột và từ đó đặt ra cơ sở trị quốc. Nếu con người ai cũng thực hiện đúng chức trách bổn phận của mình thì đất nước sẽ thịnh trị.Như vậy, tư tưởng chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa chính là ở việc coi trọng nhân dân, lấy nhân dân làm gốc. 

Mở đầu bài cáo bằng một tư tưởng quen thuộc, Nguyễn Trãi muốn khẳng định một điều đây là cơ sở chính nghĩa của cuộc kháng chiến. Tuy tiếp thu tư tưởng của Nho giáo Trung Hoa nhưng ông không dùng nó một cách cứng nhắc mà có sự tiếp thu kết nối với những giá trị truyền thống văn hoá cũng như tình hình lịch sử cụ thể của đất nước ta bấy giờ. Nhân nghĩa không đơn thuần là những triết lí khô khan bó buộc con người vào khuôn khổ mà còn là “yên dân”. Đó chính làm cho nhân dân có cuộc sống hạnh phúc ấm êm không còn chiến tranh, không còn những lời oán than. Đây luôn là hoài bão ước mơ mà cả đời Nguyễn Trãi theo đuổi. 

Yên dân là mục đích cuối cùng mà kẻ sĩ cũng như kẻ làm vua cần phải hướng đến. Đặt trong hoàn cảnh giặc Minh xâm lược thì để yên dân trước hết phải trừ bạo.

“Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Bạo ở đây chính là những điều bạo ngược làm cho nhân dân không có cuộc sống ấm no, cụ thể ở đây đó chính là giặc Minh. Quân giặc xâm lược nước ta dưới bóng dáng “phù Trần diệt Hồ” nhưng đã gây ra biết bao cảnh lầm than cho nhân dân. Nên ta chiến đấu chống quân Minh để diệt trừ đi những điều bạo ngược để bảo vệ cuộc sống ấm no của nhân dân chứ không phải ta là kẻ tham chiến. Từ mối quan hệ giữa người với người, tác giả đã mở rộng thành mối quan hệ đất nước dân tộc. Nguyễn Trãi đã nhìn thấy được vai trò của nhân dân. Chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo nên đối với Nguyễn Trãi, “nhân nghĩa” là “yên dân”, “trừ bạo”, cuộc sống và sự no ấm của nhân dân phải được đặt lên hàng đầu. 

àNhư vậy Nguyễn Trãi đã lấy tư tưởng nhân nghĩa của đạo Nho gắn liền với nhân dân, dùng làm cơ sở để khẳng định tính chính nghĩa của khởi nghĩa Lam Sơn và lột trần bộ mặt giặc Minh.

2) Khẳng định độc lập và chủ quyền:

Sau khi nêu tiền đề của cuộc chiến, Nguyễn trãi đã đưa ra những lập luận khẳng định nước ta là nước độc lập.Nước Đại Việt cách gọi ấy nhấn mạnh khẳng định chủ quyền, ta là một nước lập pháp không phải là một quận của Trung Hoa, ý thức dân tộc mạnh mẽ được thể hiện qua tên gọi đất nước. Các từ "từ trước", "vốn xưng", "đã chia" đa thể hiện sự tồn tại và phát triển của nước ta trong lịch sử như một điều hiển nhiên không thể chối cãi.

Có thể so với đất nước Trung Hoa giàu mạnh lịch sử của nước ta không thể dài bằng nhưng ta tự hào là một nước độc lập với nền văn hiến ngàn năm. Nguyễn Trãi đã khẳng định sự tồn tại độc lập của nước ta trên nhiều phương diện. Đầu tiên đó là văn hiến:

“Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”

Văn hiến được hình thành trong chiều dài lịch sử tồn tại của một đất nước. Văn hiến bao gồm tất cả các giá trị về vật chất và tinh thần đại diện tiêu biểu tạo nên nét khu biệt cho đất nước cho dân tộc trong tương quan so sánh với đất nước khác dân tộc khác. Đó chính là một trong những điều đặc biệt, vì lẽ đó mà văn hiến được tác giả nêu ra đầu tiên. 

Tiếp đến là phương diện chủ quyền lãnh thổ:

“Núi sông bờ cõi đã chia”

Địa phận danh giới của mỗi nước đã được xác định, như trong bài “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt đã nêu rõ:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên phận định tại thiên thư”

 

Nước ta có chủ quyền lãnh thổ riêng, tuyệt đối không thể xâm phạm. Và vi bảo vệ định phận ấy mà biết bao con người đã hi sinh bao thế hệ đã ngã xuống.

Tiếp đến khẳng định về yếu tố khác biệt về văn hóa phong tục tập quán. Phong tục tập quán là những thói quen sinh hoạt được hình thành và lưu giữ trong suốt chiều dài lịch sử. Bởi vậy nó chính là minh chứng rõ nét nhất cho sự tồn tại độc lập lâu đời mà không có lí lẽ nào có thể phản bác. Phong tục tập quán của ta so với phương bắc có nhiều nét khác biệt nên không thể xem nước ta là một phần của Trung Hoa.

Nguyễn Trãi đã nêu lên những yếu tố đầy đủ nhất của một quốc gia độc lập: văn hiến, lịch sử, phong tục tập quán. Từ đó làm nên bản sắc văn hóa dân tộc như một lời khẳng định đanh thép về đất nước hoàn toàn độc lập, có chủ quyền, ngang hàng với các triều đại phong kiến phương Bắc:

“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.”

 Tác giả lần lượt liệt kê các triều đại của ta tồn tại độc lập và song song với các triều đại lịch sử của Trung Hoa. Đồng thời, với lối so sánh các triều đại phong kiến của nước Đại Việt với các triều đại phong kiến phương Bắc, tác giả Nguyễn Trãi đã đặt nước ta ngang hàng với Trung Quốc, điều đó không chỉ khẳng định nền độc lập của dân tộc mà nó còn thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc với truyền thống văn hiến từ ngàn năm. Và ta lại bắt gặp chữ đế một lần nữa xuất hiện trong văn học trung đại Việt Nam. Ngày xưa chỉ có vua của Trung Hoa mới được xưng đế mới được xem là thiên tử còn những nước khác chỉ được xưng chư hầu luôn chịu sự chèn ép hạ mình trước Trung Hoa. Nhưng một nước nhỏ như Đại Việt lại dám xưng đế cho thấy được ý thức dân tộc mạnh mẽ. 

Nếu các triều đại của Trung Hoa phát triển mạnh mẽ hưng thịnh thì ta cũng thế tuy có nhiều sự đổi ngôi thay triều đất nước Đại Việt cứ thế mà tồn tại qua bao đời. Bên cạnh đó một yếu tố không thể thiếu trong công cuộc hưng thịnh của đất nước chính là nhân tài. 

“Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,

Song hào kiệt đời nào cũng có.”

Nhân tài chính là yếu tố quyết định. Bên cạnh một vị vua anh minh có tầm nhìn xa trông rộng thì ta còn cần cả những bậc quân thần hết lòng vì đất nước. Vì lẽ đó mà hiền tài chính là nguyên khí của quốc gia ảnh hưởng lớn đến vận mệnh đất nước.

àTa có thể thấy Nguyễn Trãi đã đưa ra những phương diện tồn tại của một quốc gia độc lập. Những phương diện ấy được nêu ra một cách cụ thể đầy đủ và được căn cứ vào lịch sử, sử sách ghi chép nên không thể chối cãi. Giọng văn vừa hào hùng vừa tràn đầy tự tin tự hào dân tộc.           

3) Nhấn mạnh sự thất bại của quân giặc trong chiều dài lịch sử:

Đất nước ta có chủ quyền, độc lập nên mọi hành vi xâm lấn của kẻ thù đều là phi nghĩa. Bởi vậy, chúng phải nhận lấy sự thất bại, tiêu vong:

“ Lưu Cung tham công nên thất bại

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong

Cửa Hàm Rồng bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.”

Hàng loạt tên quân giặc “Lưu Cung”, “Triệu Tiết”, “Toa Đô”, “Ô Mã” cùng với những địa danh lịch sử “Cửa Hàm Tử”, “sông Bạch Đằng” đã cho thấy chiến bại không thể chối cãi của giặc. Nhắc đến cửa Hàm Tử không thể không nhắc đến chiến công oanh liệt của vua quan nhà Trần như một nhà thơ đã từng viết:

“Đoạt sáo Chương Dương độ

Cầm Hồ Hàm Tử quan”

Còn khi nhắc đến sông Bạch Đằng thì ta phải nhắc đến chiến thắng quân Nam Hán của Ngô Quyền. Không nêu ra chiến công trực tiếp của quân ta, nhưng qua mỗi dòng ta vẫn thấy một sự chiến thắng oanh liệt của Đại Việt. Ta thấy lí do được Nguyễn Trãi nêu ra cho sự thất bại này chính là “tham công”, “thích lớn”. Họ đến xâm lược nước ta không phải vì mục đích chính nghĩa mà vì sự tham lam thích bành trướng thế lực. Ngay từ mục đích ấy ta thấy đây đã là một cuộc chiến phi nghĩa. Và chính vì phi nghĩa nên kết quả chắc chắn sẽ là chuốc lấy bại vong như chính Lí Thường Kiệt đã từng khẳng định.

“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”

 

III-Tổng kết:

Chỉ với đoạn đầu Nguyễn Trãi đã nêu ra tiền đề quan trọng nhất của cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Với ngôn ngữ mạnh mẽ kết hợp với những hình ảnh gợi lên những chiến công oanh liệt đã tạo nên giọng thơ hào hùng tràn đầy tự tin. Lập luận sắc bén kết hợp với căn cứ lịch sử không chối cãi đã tạo nên cơ sở vững chắc cho tiền đề cuộc khởi nghĩa.

IV-Kết bài:

Tác phẩm Đại cáo bình Ngô được biết đến là một trong ba bản tuyên ngôn độc lập vĩ đại của dân tộc ta. Không những thế, bài cáo còn được xem là áng thiên cổ hùng văn tràn ngập nguồn cảm hứng trữ tình và mang tính chất hào hùng. Phân tích đoạn 1 Bình Ngô đại cáo đã giúp ta hiểu rõ chủ quyền lãnh thổ, độc lập dân tộc cũng như lịch sử đấu tranh hào hùng của nhân dân ta. Cũng bởi thế mà tình yêu quê hương đất nước mỗi ngày một thêm lớn hơn. Đó còn là niềm tự hào tự tôn dân tộc, là quyết tâm xây dựng và bảo vệ cũng như củng cố nền độc lập chủ quyền của nước nhà. 



 




 

 

Thảo luận

-- bn ơi cho mik hỏi sao mik lại thấy nó giống phân tích ấy nhỉ

Bạn có biết?

Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.

Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

Tâm sự 10

Lớp 10 - Năm thứ nhất ở cấp trung học phổ thông, năm đầu tiên nên có nhiều bạn bè mới đến từ những nơi xa hơn vì ngôi trường mới lại mỗi lúc lại xa nhà mình hơn. Được biết bên ngoài kia là một thế giới mới to và nhiều điều thú vị, một trang mới đang chò đợi chúng ta.

Nguồn : ADMIN :))

Liên hệ hợp tác hoặc quảng cáo: gmail

Điều khoản dịch vụ

Copyright © 2021 HOCTAPSGK