Tuổi thơ mỗi con người gắn với muôn vàn kỉ niệm bên người thân, bạn bè, bên cạnh đó là những cảm xúc, những tình cảm dành cho nhau để rồi khi mai sau lớn lên dùng tình cảm kỉ niệm ấy tiếp tục hành trang cuộc đời. Rất nhiều tác phẩm văn học thơ, truyện ngắn được các tác giả lấy cảm hứng từ tình cảm thiêng liêng ấy, tình cảm vợ chồng, tình mẹ con, tình đồng chí, tình yêu quê hương đất nước,... Tác giả Bằng Việt đã sáng tác bài thơ Bếp Lửa với tình cảm và niềm nhung nhớ dành cho người bà của mình khi đang du học tại Liên Xô vào năm 1963. Hình ảnh đứa cháu cùng người bà đã trải qua cuộc sống khổ cực nhưng tràn ngập tình yêu thương, chăm sóc, quan tâm, chở che trong những ngày bố mẹ đi làm xa và niềm hạnh phúc bên bếp lửa ấm áp tình thương.
"Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa"
Hình ảnh bếp lửa được khắc họa lên từ ba câu thơ đầu qua điệp ngữ "một bếp lửa" và từ láy "chờn vờn" khiến ta có thể hình dung ra được một khung cảnh đơn sơ, giản dị nhưng ấm áp, đầy ấp tình cảm. Ngọn lửa từ bếp ấp ôm bao niềm nhung nhớ về bà, chứa đựng biết bao kỉ niệm của người cháu nhỏ và bà. Người bà ân cần nhóm nhen ngọn lửa tình cảm ấy, cũng giống như đôi tay bà chăm sóc cho cháu nhẹ nhàng quan tâm, hình ảnh người bà như làn khói từ bếp vào mỗi buổi sớm mai, hình ảnh khổ cực chăm nuôi của bà dãi dầu mưa nắng càng thắp lên trong lòng người cháu rõ rệt vết hằn nỗi nhớ. Từ hai câu đầu qua hình ảnh bếp lửa mỗi sáng đã được tác giả khắc họa lên một bếp lửa chan chứa kỉ niệm, một bếp lửa đầy ấp tình yêu, một bếp lửa sáng rực lên hình ảnh bà. Đến câu tiếp theo bao nhiêu nỗi niềm như phút chốc vỡ òa "cháu thương bà biết mấy nắng mưa", tác giả đau lòng, xót xa trước nỗi nhớ về hình ảnh bà dù mưa dù nắng nhưng vẫn lo cho cháu đầy đủ từng cái ăn cái mặc, gian truân cuộc đời bà vì cháu mà trải qua không một lời nói, bà âm thầm vì cháu mà làm mọi việc, đều là những hy sinh thầm lặng từ người bà kính yêu. Từ đây ta thấy rằng trong trái tim tác giả hình ảnh người bà thiêng liêng biết là bao, có cả một vùng trời thương nhớ về người bà, một câu "cháu thương bà" cũng sẽ đọng lại trong ta một ý nghĩa sâu sắc.
"Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay"
Ở đoạn này, kỉ niệm không phải là hình ảnh nhẹ nhàng như "chờn vờn sương sớm" hay "ấp iu nồng đượm" mà là những kỉ niệm ám ảnh trong tâm trí tác giả, đứa cháu bốn tuổi cùng bà cơ cực trải qua nạn đói năm 1945. Không khí u ám, lầm than của nạn đói nhờ có người bà kính yêu đã được xoa dịu đi phần nào, bà tảo tần sớm hôm mót từng củ khoai, đào từng củ sắn để cháu ăn đỡ đói. Thành ngữ "đói mòn đói mỏi" nghe như tiếng kêu xé lòng, nỗi ám ảnh của một đứa trẻ hằng sâu trong tâm trí là nỗi sợ hãi. Không như bao người khi nghĩ về tuổi thơ của mình là mảng màu hồng, thì với tác giả đó lại là mảng màu xám pha cả màu đỏ của máu từ những nỗi đau của đói khổ, cái đói ghê rợn, cái đói lịch sử đã làm chết hơn hai triệu con người. Nhưng có bà luôn bên cạnh che chở, có khói bếp làm nhòa đi phần nào đau thương từ nạn đói, kỉ niệm vẫn mang chút hơi ấm, làm quên đi nỗi khốn khổ. Chi tiết "khói hun nhèm mắt cháu" để thấy được đứa trẻ bốn tuổi ấy cố lấp đi những ám ảnh của việc đói mòn mỏi bằng khói bếp của bà, và chi tiết "sống mũi còn cay" cay do mùi khói nghi ngút ấy đang cố che giấu đi mùi máu tanh ở các ngõ ngách, cay vì đứa trẻ ấy đã phải chịu cảnh "đói mòn đói mỏi" đang dần len lỏi vào từng mảng kí ức thơ ngây, mang theo nỗi đáng sợ của nạn đói, mang theo cả cảm giác thèm từng củ khoai, củ sắn, khi ấy những món ăn đơn sơ cũng trở thành "mĩ vị nhân gian".
"Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế"
"Tám năm ròng" khoảng thời gian dài đằng đẵng cháu cùng bà vẫn luôn nhóm lên ngọn lửa yêu thương, nồng ấm, ngọn lửa của sự sống, khoảng thời gian đó dẫu trải qua khó khăn nhọc nhằn nhưng chỉ cần có bà vẫn thật bình yên. Tuổi thơ người cháu gắn với bà với bếp lửa yêu thương, gắn với cả tiếng tu hú kêu trên những cánh đồng, như thúc giục người nông dân mau ra ruộng thu hoạch thoát khỏi sự đói khát. Bên cạnh đó, khi tiếng tu hú kêu cũng như một tiếng chuông báo rằng: "Bà ơi! Bà kể chuyện cháu nghe." Từ "tu hú" được lặp lại ba lần như khẳng định nỗi nhớ của tác giả vì trong văn học nghệ thuật, tiếng chim tu hú là biểu tượng của một sự khắc khoải nhớ nhung da diết khôn nguôi. Tiếng tu hú trở thành một khoảng trời kỉ niệm nhẹ nhàng đậm tình yêu thương giữa tác giả và bà.
"Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa? "
Những câu thơ đơn sơ mộc mạc ấy vẫn nói lên được sự tận tụy của bà chăm lo cho cháu khi "mẹ cùng cha công tác bận không về". Hình ảnh bà như một người cha một người mẹ lo lắng chăm bẫm cho con mình, cũng như một người thầy dạy bảo học trò, bà cũng là cả một bầu trời yêu thương của tác giả. Cấu trúc "bà-cháu" thể hiện một tình yêu sự gắn kết của người bà với người cháu. Hình ảnh "bà dạy cháu làm", bà dạy cháu cháu cách làm người, dạy cháu tự lập cho cuộc sống của mình, bà dạy cháu yêu thương gia đình, và hình ảnh "bà chăm cháu học" bà dạy cho cháu từng nét chữ, bà cho cháu kiến thức mai sau giúp ích cho đất nước. "Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc" đứa cháu nhỏ lo lắng cho bà, nhìn thấy bà cực nhọc đứa cháu cùng bà nhóm lên bếp lửa giúp bà đỡ đi phần nào nhọc nhằn. Sau đó lại là lời trách tu hú của đứa trẻ thơ ngây, trách tu hú sao lại chẳng đến ở với bà, giúp bà đỡ đần công việc, để bà đỡ cô quạnh buồn tủi, mà tu hú cứ mãi ham chơi trên những cánh đồng kia.
Viết về tình cảm muôn thuở loài người đó là tình bà cháu,tình cảm gia đình, tình quê hương, đất nước, ta bắt gặp Hoàng Phủ Ngọc Tường với dòng sông quê, những câu hát. Hay những cảm xúc trong trẻo, tươi đẹp trong ca dao, dân ca thấm đẫm hồn người… Nhưng có một điều đặc biệt, khi tìm đến những lời thơ của Bằng Việt qua bài thơ “Bếp lửa” viết về tình bà cháu thiêng liêng, hồn ta lại run động, băn khoăn trước đức hy sinh của người bà tần tảo và tình bà cháu cao đẹp.
Văn chương ra dời giữa những niềm vui đan xen nỗi buồn trong cuộc sống con người. "Văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn"(Thạch Lam). Chính vì thế, văn giống như suối nguồn đầy cảm hứng tạo nên sự sống trong trẻo, tươi mới. Những dòng cảm xúc trong thơ văn như đắp thêm vào hồn ta những tình cảm ta sẵn có và làm giàu thêm những thứ mà ta chưa có. Đối với Bằng Việt – nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đã có những tình cảm thân thương đối với người bà yêu quý của mình. Những năm tháng xa quê, cư trú tại nước ngoài chính là nguồn cảm hứng đã thôi thúc nhà thơ viết nên những dòng thơ đầy xúc động và chan chứa tình người. Bài thơ “Bếp lửa” là những dòng tâm sự chân thật, là tình bà cháu thiêng liêng bất diệt, là tình yêu hương được gửi gắm tinh tế qua hình tượng bếp lửa đơn sơ, bình dị. Cuộc sống xa quê mang vị nhớ nhà, giã từ xứ lạnh đầy sương tuyết buốt giá, Bằng Việt lại chạnh lòng, khắc khoải và nhớ đến hình ảnh cái bếp lửa thân thương, ấm áp của quê nhà. Cùng với đó là hình ảnh người bà và những kỉ niệm tuổi ấu thơ khó phai nhòa trong lòng tác giả
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Rất tự nhiên, rất giản dị, mở đầu bài thơ là một hình ảnh ấm áp, nồng nàn biết bao. Bếp lửa hiện lên mang hơi vị ấm nồng của ngọn lửa,mang hơi ấm của tình thương, của người bà thân yêu. Từ nhỏ đã sống với bà, với cuộc sống khó khăn nơi mùa đông lạnh giá, có lẽ vì thế mà hình ảnh bếp lửa đã trở thành tiêu điểm khó phai mờ của nhà thơ. Điệp từ “một bếp lửa” xuất hiện ngay khổ thơ đầu đã trở thành một điệp khúc với giọng điệu êm đềm, sâu lắng. Nhà thơ như đang khẳng định một dấu ấn không bao giờ quên trong tâm trí mình. Hình ảnh bếp lửa ấm cúng, lại còn có bà đã gợi nên nỗi niềm nhớ quê sâu sắc trong lòng. Ở làng quê thưở nhỏ, tác giả đã quen sống với những thứ bình dị, thân thương,và dường như “bếp lửa chờn vờn sương sớm” đã là một thứ quá quen thuộc đối với nhà thơ và đối với mỗi gia đình ở làng quê Việt Nam vào mỗi buổi sáng. Giữa cái lạnh giá của tiết trời, lại có một cái bếp “chờn vờn” trong “sương sớm” đã gợi nên một cảm giác ấm áp lạ thường, thật thân thương, gần gũi, “ấp iu nồng đượm”. Từ láy “chờn vờn” đã thể hiện một không gian mờ ảo, khói bếp ẩn hiện lờ mờ trong làn sương sớm và ánh ban mai gợi nên nỗi nhớ bập bùng trong lòng tác giả. Ở đâu đó, có một bàn tay khéo léo, “ấp iu”, với tấm lòng chi chút của người nhóm lửa. Hình ảnh người bà xuất hiện “cháu thương bà biết mấy nắng mưa”, tình cảm nhà thơ được bộc rõ hơn. Hai từ “nắng mưa” như đang gợi tả một sự khó nhọc, một thời gian dài đằng đẵng, triền miên với bao vất vả trong cuộc đời người bà. Nhà thơ như thương cảm với người bà thân yêu của mình, thương bà khuya sớm tảo tần ngày này qua tháng khác để chăm bẵm đứa cháu thơ ngây. Ở ba câu thơ đầu, Bằng Việt đã khái quát được tình cảm của người cháu đối với cuộc đời lam lũ, khó nhọc của bà và cùng với đó chính là mạch nguồn cảm xúc đang dâng trào với những kí ức tuổi ấu thơ sống cùng bà và bên bếp lửa:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Những năm tháng chiến tranh gian khổ sống trong cảnh đói nghèo, nhà thơ đã quá quen với mùi khói bếp của bà, “mùi khói” cay nhèm của bếp rơm, bếp rạ đã đi sâu vào kí ức của cháu. Những ngày thơ bé, chiến tranh loạn lạc, cháu đã ở cùng bà trải qua bao gian khó của cuộc sống thường nhật. Đó cũng là khoảng thời gian cay cực, thiếu thốn và khủng khiếp bởi bóng đen ghê rợn bởi nạn đói năm 1945. “Lên bốn tuổi”, độ tuổi còn quá nhỏ nhưng nhà thơ đã hiểu hết được sự thực trong cuộc sống lúc bấy giờ. Chiến tranh tàn khốc, thực dân đô hộ trên đất nước, trong làn khói sương chứa đầy kỉ niệm, Bằng Việt như đang nhớ lại những hồi ức đau thương nhất cuộc đời khi phải chịu cảnh “đói mòn đói mỏi”, lại thấp thoáng xuất hiện hình ảnh người bố “đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”, vất vả sớm hôm. Tất cả như hiện về trong tâm trí người cháu, không rõ ràng, “chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu”. Hình ảnh bếp lửa và người bà hiện ra trong nỗi nhớ ngậm ngùi, nhớ thương. Và rồi, khi nhớ về cuộc sống khi xưa ấy, những tháng năm gian khổ, đầy bi thương, nhà thơ không khỏi xúc động “nghĩ đến bây giờ sống mũi còn cay”. Tuổi thơ của tác giả đã có quá nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn. Và rồi, cảm xúc hiện tại cùng kí ức xưa hòa lẫn, nhà thơ lại rung động, cay cay
Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Bếp lửa hiện diện cho tình bà cháu ấm áp, đậm đà. Đó chính là chỗ dựa tinh thần, sự cưu mang, đùm bọc chi chút của người bà, sưởi ấm và vun đắp tình thương cho cháu suốt thời thơ. “Tám năm ròng” sống cùng bà là tám năm cháu nhận được tình yêu thương vô bờ, sự nuôi dưỡng, dạy bảo của người bà mến yêu. Đó cũng là những kỉ niệm về người bà tần tảo, chắt chiu nhóm lên ngọn lửa tình thương, ngọn lửa ấm áp để nuôi dưỡng, bao bọc đứa cháu. Công ơn to lớn của người bà khiến cháu phải suy nghĩ:”nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Người cháu vẫn luôn biết ơn và yêu thương người bà còm cõi, cụi lui của mình. Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần cho cháu, bà nhóm bếp, bếp lửa quê hương, bếp lửa ấm áp, bếp lửa của tình thương, tình cảm bà cháu. Và từ bếp lửa, nhà thơ lại nhớ về những năm tháng tuổi thơ sống bên bà với những kỉ niệm đáng nhớ – kỉ niệm gắn bó với cánh đồng cùng con chim tu hú mỗi độ hè về. Bếp lửa đã đánh thức cả kỉ niệm tuổi thơ, ở đó có hình ảnh người bà và hình ảnh quê hương. Tiếng chim tu hú như đang giục giã, khắc khoải một điều gì da diết, bồn chồn khiến tâm hồn nhà thơ trỗi dậy những hoài niệm nhớ thương. Âm thang tiếng kêu của con tu hú đã hòa vào dòng hồi ức đẹp đẽ của tác giả, gợi chiều sâu và nỗi nhớ trong những kỉ niệm và nỗi nhớ thương bà cứ thăm thẳm trong lòng. Đó là một cách viết đầy sáng tạo của Bằng Việt, tiếng chim như nhập vào mảnh hồn tuổi thơ của người cháu để làm xuất hiện hình ảnh người bà thương cháu, thương con. Bà là cha, vừa là mẹ và cũng là người bà thân thương nhất của đứa cháu trong những tháng năm gian khổ, đói kém.
“Bếp lửa” là hình ảnh xuyên suốt bài thơ, thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Nghệ thuật đan xen kể và tả sinh động đã thể hiện tình yêu thương, lòng biết ơn của cháu đối với bà. Hình ảnh bà đã đọng lại trong kỉ niệm của người cháu:
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!
Những hình ảnh được Bằng Việt gợi tả đậm chất hiện thực, với thành ngữ “cháy tàn cháy rụi’được sử dụng linh hoạt trong thơ đã đem đến cảm nhận về hình ảnh làng quê hoàng tàn bởi khói lửa và sự tàn phá của chiến tranh. Cuộc sống đời thường còn chứa đựng nhiều tình người, khung cảnh tan tác do hậu quả của chiến tranh đã ập đến, “làng xóm bốn bên trở về lầm lụi/ đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”. Dù nghèo, dù cuộc sống đói kém muôn phần, trên cái nền bị chiến tranh hủy diệt, tàn phá lại xuất hiện sự cưu mang, đùm bọc của làng xóm đối với hai bà cháu. Đó chính là vẻ đẹp tình người đang tỏa rạng trong khung cảnh chiến tranh. Nhưng điều khiến nhà thơ xúc động và cảm phục nhất chính là người bà, một mình bà dù đã già, yếu ớt nhưng vẫn mạnh mẽ, kiên cường chống lại mọi gian khó thời chiến tranh, nuôi dưỡng đứa cháu thơ nên người. Và đặc biệt, bà con dặn cháu:”mày có viết thư chớ kể này kể nọ/ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”. Một thân bà gồng mình lo toàn mọi việc, bà chính là hậu phương vững chắc của tiền tuyến, bà lo chu toàn mọi việc ở nhà để người bố yên tâm kháng chiến, đánh đuổi kẻ thù. Trong từng lời thơ, hình ảnh người bà bao giờ cũng xuất hiện. Có thể thấy, nhà thơ đang gửi gắm một tình yêu chan chứa, giàu cảm xúc đến bà. Đó là lòng biết ơn, niềm tự hào của người cháu đã trưởng thành nhớ về bà thân yêu.
Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Thơ chống Mỹ luôn cao trào và mãnh liệt, nhưng cũng giàu suy tư và tình cảm. Ngọn lửa từ tay bà mang bao yêu thương, trìu mến đã nuôi dững cháu lớn khôn. Và cũng từ ngọn lửa ấy, cháu nhận ra niềm tin vào ngày mai tươi sáng mà hiểu được rằng, bà chính là linh hồn thiêng liêng, cao cả, một con người vất vả, gian lao mà nghĩa tình. “Rồi sớm rồi chiều”, lúc nào cũng thế, bà vẫn nhóm lên ngọn lửa để sưởi ấm căn nhà, nuôi dưỡng tâm hồn đứa cháu. Điệp từ “một ngọn lửa” lại lặp lại như thể hiện một tấm lòng chan chứa yêu thương, ngọn lửa ấy lòng bà luôn ủ sẵn”, “chứa niềm tin dai dẳng”. Đó là ngọn lửa ấm áp tình thương, ngọn lửa của niềm tin dai dẳng, bền chặt vào tương lai của cuộc kháng chiến, của sự sống âm thầm mà mãnh liệt. Trong bài thơ có đến mười lần nhắc đến hình ảnh bếp lửa, và cùng hiện diện với nó chính là hình ảnh người bà khuya sớm tảo tần. Ở đoạn thơ sau, nhà thơ dùng một loạt điệp từ “nhóm” để liệt kê hết những công dụng của bếp, nhóm “bếp lửa ấp iu nồng đượm”, “niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi”, “niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui”, “dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”… Bếp lửa ấy gắn liền với mỗi khó khăn, vất vả đời bà. Nhóm bếp lửa chính là thắp sáng niềm vui, niềm yêu thương mà bà dành cho cháu và cho mọi người. Ở cuối đoạn thơ, nhà thơ còn dùng một câu cảm thán “ôi kì lạ và thiêng liêng- bếp lửa! Để nói lên sự kì diệu của ngọn lửa tình thương, tỏ thái độ yêu thương đối với hình ảnh bếp lửa thân quen cùng người bà hiền dịu. Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn truyền lửa cho thế hệ sau.
Tuổi thơ đầy kỉ niệm đã lùi xa, chiến tranh đã qua, người cháu lớn khôn và rời xa bà mang bao nhung nhớ:
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
– Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?…
Lòng kính yêu, tự hào về bà, về quê hương đất nước đã cùng cháu lớn khôn. Người cháu năm xưa đã trưởng thành và bay đến những chân trời mới có “khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả” nhưng đối với cháu, bếp lửa của bà vẫn luôn hiện diện trong tâm trí mãi không nguôi. Hình ảnh bà và bếp lửa luôn thường trực trong cháu,gợi một nỗi nhớ về hoài niệm xưa, nhớ về người bà đã thay cha mẹ nuôi mình thuở nhỏ. Thời thế đổi thay, nhiều thứ hiện đại được tiếp nhận vào cuộc sống nhưng đối với nhà thơ, bếp lửa vẫn là thứ thiêng liêng, bất diệt bởi ở đó có hình ảnh người bà đáng quý của ông. Điệp từ “trăm” đã mở ra một thế giới mới mẻ, rộng lớn, cháu được tiếp nhận cuộc sống với những niềm vui lạ. “Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở/ sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”. Mỗi ngày cháu đều nhớ về bà, nhớ về bếp lửa của bà, đó là tất cả tuổi thơ của cháu. Hình ảnh ấy đã trở thành một hình tượng thiêng liêng, cao quý, làm ấm lòng nhà thơ, nâng đỡ ông trên những nẻo đường đời.
Từ những suy ngẫm của người cháu, bài thơ đã biểu hiện một triết lý sâu sắc: Những thứ thân thiết, gắn bó trong tuổi thơ của mỗi người đều có sức tỏa sáng, đó chính là nguồn động lực lớn nâng bước con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt nguồn từ tình cảm gia đình nồng hậu, thân thiết, từ những gì gần gũi, bình dị nhất. Với sự kết hợp tinh tế giữa biểu cảm mà miêu tả, tự sự và bình luận, giọng điệu tâm tình, tự nhiên, tha thiết và chân thành. Bài thơ “Bếp lửa” của nhà thơ Bằng Việt đã thành công trong việc sáng tạo hình ảnh bếp lửa – hình ảnh vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Và ở đó còn có tình yêu người bà đằm thắm, ân tình, sâu sắc.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 9 - Là năm cuối ở cấp trung học cơ sở, sắp phải bước vào một kì thi căng thẳng và sắp chia tay bạn bè, thầy cô và cả kì vọng của phụ huynh ngày càng lớn mang tên "Lên cấp 3". Thật là áp lực nhưng các em hãy cứ tự tin vào bản thân là sẻ vượt qua nhé!
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK