1)
Chính Hữu là nhà thơ hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Thơ ông không nhiều nhưng rất đặc sắc viết về người lính và chiến tranh. Bài thơ được sáng tác năm 1948, ngay sau chiến dịch Việt Bắc Đánh bại cuộc chiến tranh qui mô của Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Bài thơ nằm trong tập “ Đầu súng trăng treo”. Bài thơ ca ngợi tình đồng chí cao cả và thiêng liêng, cùng chung lí tưởng chiến đấu,cùng chịu đựng gian khổ, vào sinh ra tử có nhau của những người lính Cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp.
Tình đồng chí xuất phát từ nguồn gốc cao quí: Họ giống nhau về cảnh ngộ xuất thân: Những người nông dân mặc áo lính từ những vùng quê nghèo khổ
“ Nước mặn đồng chua, đất cày lên sỏi đá”
Hai người xa lạ từ những phương trời gặp nhau vì cùng chung lí tưởng chiến đấu, cùng đứng trong hàng ngũ những “ người lính cụ Hồ”. Họ cùng nhiệm vụ chiến đấu “ súng bên súng” và cùng chung những ý nghĩ “ đầu sát bên đầu”, cùng đắp chung chăn những đêm giá rét. Mối tình tri kỉ, sâu sắc bắt nguồn từ đó. Hai từ “ đồng chí” trở thành dòng thơ riêng như sự kết tinh cảm xúc từ tình đồng đội tri kỉ nâng thành tình.“ đồng chí” thiêng liêng, cao quí, lớn lao của những người cùng chung lý tưởng. 2 từ nàycó chức năng như bản lề nối 2 đoạn thơ (khép lại 7 dòng đầu và mở ra những biểu hiện của tình đồng chí ở đoạn thơ kế ).
Những biểu hiện của tình đồng chí trong cuộc sống chiến đấu gian lao: Họ cảm thông chia sẻ tâm tư, nỗi nhớ quê ( nhớ giếng nước gốc đa), cảnh ruộng nương nhà cửa gieo neo:
“ Ruộng nương….., gió lung lay”
" Từ “ mặc kệ” thể hiện sự cứng cỏi, kiên quyết, dứt khoát lên đường đi chiến đấu của người lính, nhưng giọng điệu lời thơ thật thắm thiết. Tình yêu quê hương cũng góp phần hình thành, gắn bó tình đồng chí, tạo sức mạnh tinh thần để người lính vượt qua gian khổ, hiểm nguy. Họ cùng chia sẻ gian lao thiếu thốn: Những cơn sốt rét rừng nguy hiểm “ Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh”. Chia sẻ những vất vả, thiếu thốn, khó khăn trong chiến đấu: áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày, nhưng lòng đầy lạc quan qua hình ảnh “ Miệng cười buốt giá”. Câu kết đoạn qui tụ cảm xúc vào hình ảnh thơ: “ Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Tình đồng chí truyền hơi ấm cho nhau cùng nhau vượt qua bao gian lao, bệnh tật.
Đoạn thơ như lời kể chân thành, cụ thể về cuộc sống, tâm trạng của người lính trong chiến đấu. Nghệ thuật liệt kê, hoán dụ giúp ta hình dung về cuộc sống gian lao của người lính trong kháng chiến chống Pháp
Tình đồng chí trong chiến hào chờ giặc, hình ảnh đầy chất thơ: Hoàn cảnh chờ giặc căng thẳng, rét buốt: không gian là rừng hoang, sương muối, thời gian đêm khuya. Những người lính sát cánh bên nhau chung chiến hào, chung nhiệm vụ: chờ giặc đến. Câu thơ cuối kết tinh cảm xúc và hình ảnh thơ thật đẹp: “ Đầu súng trăng treo”. Súng: gần, hình ảnh thực tại chỉ người lính; Trăng: xa, thơ mộng, tượng trưng cho hòa bình, cho thơ ca (nghệ thuật) " chiến sĩ – thi sĩ hài hòa trong tâm hồn người lính; chất chiến đấu và trữ tình trong thơ ca.
Nghệ thuật: Bài thơ có sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn hun đúc hồn thơ người lính. Ngôn ngữ hàm súc, mộc mạc, thành ngữ, hình ảnh ca dao được vận dụng linh hoạt tạo chất thơ dung dị. Thể thơ tự do, giọng thơ sâu lắng, trữ tình.
Ý nghĩa: Bằng bút pháp hiện thực xen lãng mạn, hình ảnh , ngôn từ giản dị chân thật, giàu sức biểu cảm, bài thơ thể hiện hình ảnh người lính với tình cảm gắn bó keo sơn. Nó góp phần tạo sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần cho người lính trong cuộc kháng chiến.Đề tài về người lính là đề tài dễ khô khan nhưng Chính Hữu đã biểu hiện một cách cảm động, sâu lắng do tác giả khai thác chất thơ từ cái bình dị của đời thường. Đây là sự cách tân về đề tài người lính trong thơ kháng chiến. Cùng với bài “ Nhớ” ( Hồng Nguyên); “ Tây Tiến” ( Quang Dũng),.. Chính Hữu góp thêm một tiếng thơ đặc sắc về hình tượng người lính trong kháng chiến chống Pháp. Đặc biệt Đồng Chí có ý nghĩa lớn lao, giúp người lính có thêm sức mạnh, niềm tin, vượt qua gian khổ để chiến đấu và chiến thắng trong kháng chiến chống Pháp.
2)
Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ Mới trước CM/8 mang đậm triết lí suy tư với nỗi buồn nhân thế. Sau CM/8 thơ Huy Cận dào dạt niềm vui hướng về nhân dân , đất nước trong cuộc sống mới. Năm 1958, nhân chuyến đi thực tế ở Quãng Ninh, bài thơ được HC sáng tác rất nhanh trong những buổi chiều trên vùng biển Hạ Long.Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp khỏe khoắn của con người lao động mới hăng say đánh bắt cá trên biển và vẻ đẹp tráng lệ của thiên nhiên kì vĩ.
Bài thơ ca ngợi cuộc sống của những con người lao động mới bằng sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn về thiên nhiên vũ trụ. Bài thơ được bố cục theo hành trình một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá
Cảnh đoàn thuyền ra khơi và tâm trạng náo nức của con người: (Hai khổ đầu)
Bốn câu đầu: cảnh thiên nhiên trên biển lúc hoàng hôn và đoàn thuyền ra khơi.Khúc hát mở đầu hào hứng, phấn chấn tiển đoàn thuyền ra khơi vào lúc hoàng hôn: tác giả sử dụng phép nhân hóa và hình ảnh so sánh độc đáo “ Mặt trời xuống biển”, mặt trời như hòn lửa đỏ rực đang lặn dần vào lòng đại dương mênh mông. Màn đêm buông xuống kết thúc một ngày, biển đêm như ngôi nhà vũ trụ, sóng như là những cái then cài cửa. " 2 câu đầu ca ngợi cảnh biển tráng lệ lúc hoàng hôn bằng cảm hứng vũ trụ, biện pháp tu từ so sánh , ẩn dụ, nhân hóa tạo những vần thơ đẹp gợi nhiều ấn tượng cho người đọc. Con người phấn chấn bắt tay vào công việc của mình, họ không đi lẻ tẻ mà cả đoàn trong nhịp điệu lao động đã ổn định qua cụm từ khẳng định “ lại ra khơi”.
“ Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi” Câu hát căng buồm cùng gió khơi” Tâm trạng náo nức của con người lao động:Tiếng hát thể hiện niềm vui của người lao động hòa cùng gió thổi căng buồm của người lao động đưa đoàn thuyền ra khơi. Tiếng hát cầu mong đi biển gặp nhiều may mắn.Tiếng hát ca ngợi tài nguyên thiên nhiên của biển: cá bạc, cá thu biển Đông như đoàn thoi dệt biển muôn luồng sáng. Đoạn thơ có những hình ảnh ẩn dụ và so sánh sáng tạo đem đến cho người đọc liên tưởng thú vị về thiên nhiên và cảnh lao động của con người trên biển.
Khúc hát ca ngợi về biển và đoàn thuyền đánh cá trong đêm trăng trên biển Hạ Long : Đoàn thuyền có gió làm lái, có trăng làm buồm lướt nhanh trên mặt biển. Ca ngợi những con người làm chủ cuộc sống đang lao động say sưa. Cuộc đánh bắt cá như vào trận đánh, mỗi ngư dân là chiến sĩ: “ Dàn đan thế trận lưới vây giăng”. Người lao động với những đôi tay cuồn cuộn kéo lên những mẻ lưới trĩu nặng
“ Ta kéo xoăn tay chùm cá nặngVẫy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”
Ca ngợi biển giàu có và vẻ đẹp lung linh diệu kì của nó trong đêm . Nhà thơ liên tưởng so sánh cá thu “như đoàn thoi đêm ngày dệt biển”
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Sự phong phú về tài nguyên thiên nhiên:
“ Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe Đêm thở sao lùa nước Hạ Long.” Nghệ thuật nhân hoá biển đêm phập phòng hơi thở như sự sống của con người.
+ Tác giả so sánh biển với lòng mẹ, từ đó nói lên lòng tự hào của người dân chài với biển quê hương:
“ Biển cho ta cá như lòng mẹ”.
Tác giả còn sử dụng nghệ thuật liệt kê các loài cá, sự liên tưởng so sánh, nhân hóa độc đáo về biển trong cái nhìn lãng mạn tạo bức tranh đẹp về biển đêm.
Khúc hát ca ngợi những thành quả lao động khi đoàn thuyền trở về: Tiếng hát vang lên niềm vui thắng lợi “ câu hát căng buồm cùng gió khơi” . Hình ảnh nhân hóa và thậm xưng thật đẹp trong tư thế cn người thách thức thiên nhiên. Đoàn thuyền đánh cá phóng như bay về bến đua với thời gian: “ Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt…” Và “ Mặt trời đội biển” thể hiện một sức sống mới thật mãnh liệt bật vươn lên trong cuộc sống mới. Nghệ thuật hoán dụ tả “ Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi” vẻ lên cảnh mùa cá bội thu và cuộc sống ấm no của nhân dân vùng biển.
NGHỆ THUẬT:Bài thơ có bố cục theo trình tự ra khơi của đoàn thuyền đánh cá, có nhiều từ hát, cả bài là một khúc tráng ca về cuộc sống lao động của ngư dân trên biển với giọng điệu khỏe khoắn, sôi nổi bay bổng trong cảm hứng lãng mạn. Những hình ảnh thơ có sự liên tưởng, tưởng tượng độc đáo bằng các biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, thậm xưng.Nghệ thuật gieo vần biến hóa, linh hoạt tạo sự vang xa bay bổng,…
Ý nghĩa: Bằng cảm hứng lãng mạn về thiên nhiên vũ trụ và nghệ thuật điêu luyện , bài thơ miêu tả bức tranh thiên nhiên tráng lệ và khung cảnh lao động phấn chấn của con người đang làm chủ cuộc đời. Bài thơ được xem là thành công lớn của tác giả trong cảm hứng viết về con người mới, cuộc sống mới.
3)
Kim Lân là nhà văn rất thành công ở thể loại truyện ngắn và viết rất hay về đề tài làng quê VN với hình ảnh nông thôn và người nông dân với cuộc sống khốn khổ, cùng cực của họ ở chế độ cũ và sự đổi đời của họ nhờ CM.Truyện ngắn Làng được viết năm 1948, thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.Qua câu chuyện ông Hai, tp ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn: tình yêu làng quê hoà nhập với tình yêu nước của người nông dân VN trong thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
Trong kháng chiến, ông Hai là người làng chợ Dầu buộc phải rời làng đi tản cư. Ở nơi tản cư, ông luôn nhớ và tự hào về làng của mình: ông khoe làng có cảnh đẹp, có sinh phần của viên quan Tổng đốc, phong trào khởi nghĩa, phục vụ cho kháng chiến rất sôi nổi. Ông hay nghe tin kháng chiến qua các bản thông tin và luôn vui sướng hãnh diện về tinh thần kháng chiến anh dũng của dân làng.
Một buổi trưa, từ phòng thông tin trở về, ông bất ngờ nghe tin sét đánh: làng chợ Dầu có Việt gian bán nước đã theo Tây. Từ đó, “cổ ông nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân”, về nhà nằm vật ra giường, nhìn các con mà nước mắt cứ trào ra.. Ông luôn mang nỗi ám ảnh nặng nề về tin dữ nầy, lòng đau xót và nhục nhã “cúi gầm mặt mà đi” . Suốt mấy ngày liền , ông không ra khỏi nhà. Mụ chủ nhà ngụ ý đuổi ông vì ông là người làng chợ Dầu. Ông Hai rợn người nghĩ: “ Làng thì yêu thật nhưng nếu làng theo Tây thì phải thù”, hơn nữa không thể phản bội cụ Hồ.
Vài ngày sau, tin làng chợ Dầu theo Tây được cải chính không theo Tây, ông vui sướng như trẻ con, tươi vui rạng rỡ, chạy sang hàng sớm bô bô đi khoe làng.
Diễn biến tâm trạng và hành độngcủa ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo Tây:
Giới thiệu về ông Hai: Ông là người nông dân làng chợ Dầu rất yêu và tự hào về làng của mình. Ông thường khoe làng mình sầm uất như tỉnh, đường lát toàn lá xanh, có phòng thông tin sáng sủa, chòi phát thanh thì cao, có cả sinh phần của viên quan tổng đốc to nhất làng. Khi phải xa làng đi tản cư, ông nhớ “..không khí đào đường, đấp ụ, xẻ hào, khuân đá,..”. Ông ham thích theo dõi tin tức kháng chiến, náo nức trước tin thắng lợi mọi nơi.
Tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu theo Tây: Một buổi trưa từ phòng thông tin về, ông nghe tin sét đánh: Làng chợ Dầu có Việt gian bán nước. Ông bàng hoàng sững sờ: “ cổ ông nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân”. Ông nghi ngờ cố chưa tin. Nhưng khi cái tin ấy được khẳng định từ chính những người tản cư dưới xuôi lên thì ông không thể không tin. Ông bị nỗi ám ảnh day dứt là kẻ phản bội, nghe tiếng chửi là kẻ Việt gian, ông” cúi gằm mặt xuống mà đi”. Về nhà, ông nằm vật ra giường tủi thân nhìn các con “ chúng nó là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?” Suốt mấy ngày, ông không dám đi đâu. Ông Hai tiếp tục bị đẩy vào tình huống thử thách căng thẳng khi mụ chủ nhà có ý không chứa người làng chợ Dầu. Ông cảm nhận hết nỗi nhục nhã và lo sợ “đi đâu bây giờ?, “ rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao?”. Ông nghĩ hay là quay về làng,.. Nhưng về làng là chịu làm nô lệ cho thằng Tây, tức là phản bội cụ Hồ”. Ông Hai dứt khoát lựa chọn “ Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Suy nghĩ này cho thấy tình yêu nước rộng lớn bao trùm lên tình cảm làng quê.Trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắt, Ông Hai chỉ còn biết trút nỗi lòng mình vào lời thủ thỉ tâm sự với đứa con út ngây thơ: “ Qua những lời tâm sự với đứa con nhỏ, cũng là lời tự nhủ với mình, lời giải bày lòng mình cho thấy :Tình yêu sâu nặng của ông Hai đối với làng chợ Dầu.Tấm lòng thủy chung của ông với kháng chiến, với Bác Hồ sâu nặng, bền vững, thiêng liêng : “..Cái lòng của bố con ông thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết, bao giờ dám đơn sai”...”
Tình huống truyện làm bộc lộ sâu sắc tình yêu làng quê và lòng yêu nước của nhân vật ông Hai:Đó là tình huống ông Hai tình cờ nghe tin làng Chợ Dầu theo Tây, cái làng yêu quí của ông trở thành Việt gian phản bội lại cụ Hồ, phản bội lại kháng chiến.Ông Hai dứt khoát lựa theo cách của mình: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Điều này chứng tỏ lòng yêu nước của ông rộng lớn bao trùm lên tình cảm yêu làng quê.
Làng là một đơn vị hành chánh, là một khái niệm về quê hương đất nươc. Đặt tên tác phẩm “ Làng”, tác giả không chỉ nói riêng về làng chợ Dầu của ông Hai mà nói về bao nhiêu làng quê khác trên đất nước VN thời kháng chiến, họ hướng về cách mạng, về cụ Hồ kiên quyết không đội trời chung với kẻ thù.Đặt nhan đề là ông Hai thì không thể nói được những người ở lại trong làng, không thể hiện được sự vùng lên của các làng quê VN. Làng gợi hình ảnh nông dân và nông thôn, họ gắn bó trong tình yêu làng và yêu nước, đó là làng chợ Dầu có tình yêu và niềm tự hào vô bờ bến.
Nghệ thật: Xây dựng cốt truyện có tình huống truyện đặc sắc. Thành công ở nghệ thuật xây dựng nhân vật với diễn biến tâm lí, tâm trạng tinh tế, sắc sảo qua những diễn biến nội tâm thể hiện ở ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ. Cách trần thuật linh hoạt , tự nhiên; Ngôn ngữ nhân vật sinh động giàu tính khẩu ngữ và nghệ thuật độc thoai nội tâm cũng sắc sảo.
Ý nghĩa:Qua nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng, tp thể hiện tình yêu làng quê và lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến của người nông dân chân thực, sâu sắc và cảm động. Tác phẩm rất thành công khi xây dựng hình ảnh người nông dân VN buổi đầu đi theo kháng chiến.
4)
Viễn Phương tên thật là Phan Thanh Viễn ( sinh năm 1928 quê ở An Giang). Ông là một trong những cây bút có mặt rất sớm tham gia văn học giải phóng miền Nam thời chống Mỹ. Bài thơ được viết năm 1976 sau khi miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, lăng Bác cũng vừa được khánh thành. Lần đầu tiên, tg ra thăm miền Bắc vào lăng viếng Bác trong niềm xúc động vô bờ.Bài thơ thể hiện lòng thành kính, niềm xúc động thiêng liêng, lòng biết ơn , tự hào pha nỗi đau xót của nhà thơ và mọi người với Bác Hồ khi vào lăng viếng Bác.Mạch cảm xúc theo trình tự cuộc vào lăng viếng Bác. Mở đầu là cảm xúc về cảnh bên ngoài lăng; tiếp theo là cảm xúc về hình ảnh dòng người như bất tận ngày ngày vào lăng viếng Bác; đoạn kế là cảm xúc và suy nghĩ về Bác gợi từ hình ảnh mang tính biểu tượng mặt trời và vầng trăng; cuối cùng là niềm mong ước thiết tha của tg muốn được mãi bên lăng Người.
Khổ 1: Tâm trạng xúc động của nhà thơ khi đến lăng Bác nhìn cảnh ngoài lăng:Câu thơ mở đầu giống chỉ gọn như lời thông báo. Nhưng lại gợi ra tâm trạng xúc động của người con từ chiến trường miền Nam sau bao năm mong mỏi giờ mới được ra viếng Bác.Hình ảnh hàng tre qua cảm nhận của tg thành biểu tượng có ý nghĩa sâu sắc: đó là tình cảm của nhân dân gắn bó với Bác, biểu tượng cho dân tộc Việt Nam kiên có sức sống bền bỉ, mạnh mẻ, kiên cường bất khuất “ Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Khổ 2: Cảm xúc về Bác và dòng người ngày ngày vào lăng viếng Bác.
2 câu đầu: Hình ảnh mặt trời câu trên là thực, hình ảnh mặt trời trong lăng là hình ảnh ẩn dụ nói lên sự vĩ đại của Bác ( như mặt trời) thể hiện sự tôn kính, biết ơn của nhân dân với Bác.
2 câu kế: Hình ảnh dòng người là thực nhưng hình ảnh “ kết tràng hoa dâng bảy mươi chính mùa xuân” là hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ rất sáng tạo chỉ tuổi thọ khi Bác qua đời và sự thành kính thiêng liêng của nhân dân với Bác.
Khổ 3: Cảm xúc và suy nghĩ của tg khi vào trong lăng.
Khung cảnh và không khí trong lăng thanh tịnh, trang nghiêm với ánh sáng dịu nhẹ trong trẻo. Hình ảnh vầng trăng gợi lên tâm hồn trong sáng cao đẹp của Bác:
“ Bác nằm trong lăng……………… Giữa một vầng trăng sáng trong…….” Hình ảnh ẩn dụ thể hiện tâm trạng xúc động của tg “ trời xanh là mãi mãi”. Trời xanh tượng trưng cho tên tuổi sự nghiệp của Bác sẽ sống mãi, Bác đã hoá thân vào thiên nhiên, tin rằng Bác vẫn sống mãi nhưng giữa niềm tin và thực tại vẫn không tránh khỏi nỗi đau mất Bác “ Mà sao nghe nhói ở trong tim”. " Tóm lại khổ thơ thể hiện tâm hồn cao đẹp của Bác, sự trang nghiêm trong trẻo nơi Bác yên nghĩ và nỗi đau không nén được trước sự ra đi của Bác.Khổ 4: thể hiện nguyện ước của tg được mãi mãi bên Bác.
Cụm từ “thương trào nước mắt” gợi lên tâm trạng xót xa, lưu luyến, vương vấn của nhà thơ khi phải về miền Nam xa Bác. Điệp ngữ “ muốn làm” thể hiện cảm xúc chân thành, tha thiết của tg ước muốn hoá thân vào những cảnh vật, sự vật: làm con chim cất cao tiếng hót, làm đoá hoa toả hương đâu đây và nhất là muốn làm “cây tre trung hiếu” để có thể ở mãi bên Bác. Hình ảnh cây tre kết thúc bài thơ gợi phẩm chất con người miền Nam trọn trung trọn hiếu. Khổ thơ như lời chào thành kính của người con miền Nam đối với vị lãnh tụ kính yêu, niềm xúc độnng của tg cũng là tình cảm tha thiết của nhân dân miền Nam trước sự ra đi vĩnh viễn của Bác.
Nghệ thuật:Thể thơ tám chữ, nhịp điệu chậm rãi diễn tả sự trang nghiêm, thành kính. Bài thơ được phổ nhạc bởi ý thơ sâu lắng, cảm xúc. Ngôn ngữ thơ trong sáng, hình ảnh thơ đặc sắc, sáng tạo kết hợp hình ảnh thực, hình ảnh ẩn dụ, hình ảnh biểu tượng giàu chất suy tưởng.
Ý nghĩa:Bài thơ tuy giản dị, mộc mạc trong hình ảnh ngôn từ nhưng giàu chất suy tưởng nhưng thể hiện tình cảm chân thành tha thiết của nhà thơ và của nhân dân VN đối với Bác. Nhà thơ đã mang đến cho người đọc một cảm xúc sâu lắng để cùng ngưỡng mộ, trân trọng vị cha già kính yêu đã trọn đời hi sinh cho Tổ quốc, nhân dân VN.
$@#Hoidap247$
$@#Nganle$
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 9 - Là năm cuối ở cấp trung học cơ sở, sắp phải bước vào một kì thi căng thẳng và sắp chia tay bạn bè, thầy cô và cả kì vọng của phụ huynh ngày càng lớn mang tên "Lên cấp 3". Thật là áp lực nhưng các em hãy cứ tự tin vào bản thân là sẻ vượt qua nhé!
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK