I. Tầm quan trọng của phương pháp thuyết minh- Phương pháp thuyết minh là một hệ thống những cách thức mà người thuyết minh sử dụng nhằm đạt đựợc mục đích đặt ra.- Để làm tốt một bài văn thuyết minh cần hiểu rõ ràng, chính xác, đầy đủ về sự vật, hiện tượng cần thuyết minh để truyền đạt những tri thức ấy cho người đọc (nghe).
II.Một số phương pháp thuyết minh
1. Các phương pháp thuyết minh.- Ngoài các phương pháp thuyết minh (nêu định nghĩa, liệt kê, nêu ví dụ, dùng số liệu, so sánh, phân loại, phân tích) còn có những phương pháp như thuyết minh bằng cách chú thích; thuyết minh bằng cách giảng giải nguyên nhân - kết quả.- Đọc các đoạn trích (SGK) và cho biết:a. Tác giả mỗi đoạn trích đã sử dụng những phương pháp thuyết minh nào?- Đoạn trích (1) thuyết minh về Trần Quốc Tuấn của Ngô Sĩ Liên: Phương pháp nêu ví dụ.- Đoạn trích (2) thuyết minh về Ba-sô của Hàn Thủy Giang: Phương pháp nêu định nghĩa.- Đoạn trích (3) thuyết minh về vấn đề Con người và con số: Phương pháp dùng số liệu.- Đoạn trích (4) thuyết minh về nhạc cụ trong điệu hát trống quân: Phương pháp phân tích.b. Tác dụng của từng phương pháp trong việc làm cho sự vật hay hiện tượng được thuyết minh càng thêm chuẩn xác, sinh động và hấp dẫn.- Đoạn trích (1) trong Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên thuyết minh về công lao tiến cử người tài giỏi cho đất nước của Trần Quốc Tuấn. Sử dụng phương pháp nêu ví dụ, những tên tuổi được nêu (Dã Tượng, Yết Kiêu, Phạm Ngũ Lão, Trần Thị Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực) làm cho vấn đề được thuyết minh trở nên rõ ràng, thuyết phục.- Đoạn trích (2) trong Thi sĩ Ba-sô và "Con đường hẹp thiên lí" thuyết minh về các bút danh của Ba-sô. Từ bút danh Mu-nê-phu-sa, Tô-sây đến Ba-sô đã giúp người đọc biết ý nghĩa của các bút danh. Nhờ việc sử dụng phương pháp nêu định nghĩa để thuyết minh mà các bút danh của Ba-sô được giải thích rõ ràng.- Đoạn trích (3) Con người và con số thuyết minh về cấu tạo phức tạp và đồ sộ của tế bào trong cơ thể người. Với phương pháp dùng số liệu, người viết đã đi từ số lượng tế bào (40-60000 tỉ) đến số lượng phân tử cấu tạo nên tế bào (ở triệu tỉ phần tử), rồi số lượng nguyên tử cấu tạo nên phân tử (tỉ tỉ nguyên tử). Để giúp người đọc dễ hình dung, người viết đã liên hệ tới các số liệu như số lượng cư dân, số lượng các vì tinh tú... và kết luận “Nếu mỗi nguyên tử dài 1mm, một tế bào sẽ dài 10 cm, thì một người cao 1,75m sẽ biến thành người khổng lồ với chiều cao 1.750 km! May thay, điều này không xảy ra vì nguyên tử là cực nhỏ". Sức hấp dẫn của đoạn thuyết minh là các số liệu đã tạo nên ấn tượng sâu sắc, khó quên ở người đọc.Đoạn trích (4) trong Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng thuyết minh về các loại nhạc cụ dùng trong hát trống quân. Nhà văn đã sử dụng phương pháp thuyết minh phân tích để làm rõ tính giản dị của nhạc cụ dùng trong hát trống quân: Các loại "hết thảy đều là đồ bỏ”, cách sử dụng vô cùng dân dã, nhưng âm thanh thật "giòn giã". Phương pháp thuyết minh này đã giúp người đọc hiểu được ý nghĩa của đối tượng.
2. Một số phương pháp thuyết minh.a. Thuyết minh bằng cách chú thích:- Đọc lại câu văn "Ba-sô là bút danh” (SGK), câu này không sử dụng phương pháp định nghĩa vì không đặt Ba-sô vào một loại lớn hơn, cũng không chỉ ra yếu tố nói lên đặc điểm bản chất của nhà văn. Phương pháp được sử dụng là phương pháp chú thích.- Phương pháp chú thích và phương pháp định nghĩa đều có cấu trúc cơ bản "A là B" nhưng phương pháp định nghĩa có những đòi hỏi chặt chẽ hơn. Phần B trong định nghĩa phải đạt được hai yếu tố (đặt đối tượng định nghĩa vào một loại lớn hơn, chỉ ra yếu tố nói lên đúng đặc điểm bản chất của đối tượng để phân biệt nó với các đối tượng cùng loại khác). Phương pháp chú thích không buộc thỏa mãn hai yêu cầu đó, tuy mức độ chuẩn xác không cao nhưng bù lại phương pháp chú thích có khả năng mềm dẻo hơn, dễ sử dụng hơn.b. Thuyết minh bằng cách giảng giải nguyên nhân - kết quả.- Trong đoạn trích giới thiệu về thi sĩ Ba-sô (SGK) đã thuyết minh về niềm say mê cây chuối của Ba-sô và lí do lấy bút danh Ba-sô. Mục đích thuyết minh tại sao có bút danh Ba-sô là chủ yếu mặc dù được nói ngắn hơn niềm say mê cây chuối của ông. Đây là mối quan hệ nhân - quả. Dù nguyên nhân được trình bày dài hơn nhưng nội dung thông báo chính vẫn là kết quả. Niềm say mê cây chuối là nguyên nhân dẫn đến bút danh Ba-sô.- Đoạn trích được trình bày hợp lí và hấp dẫn bởi vì người viết đã sử dụng phương pháp thuyết minh phù hợp đối tượng thuyết minh. Nhờ đó mà hình ảnh thi sĩ Ba-sô cùng bút danh của ông hiện lên sinh động, sâu sắc.
III. Yêu cầu khi vận dụng phương pháp thuyết minhLựa chọn, vận dụng, phối hợp các phương pháp thuyết minh cần tuần theo nguyên tắc: không xa rời mục đích thuyết minh; làm nổi bật bản chất và đặc trưng của sự vật, hiện tượng; làm cho người đọc (nghe) tiếp nhận dễ dàng và hứng thú.
1 Muốn làm tốt bài văn thuyết minh, người viết phải nghiên cứu, tìm hiểu sự vật, hiện tượng cần thuyết minh, nhất là phải nắm bắt được bản chất, đặc trưng của chúng, để tránh sa vào trình bày các biểu hiện không tiêu biểu, không quan trọng.
2 Để bài văn thuyết minh có sức thuyết phục, dễ hiểu, sáng rõ, người ta có thể sử dụng phối hợp nhiều phương pháp thuyết minh như: nêu định nghĩa liệt kê, nêu ví dụ, dùng số liệu, so sánh đối chiếu, phân tích, phân loại…
A. HƯỚNG DẪN TÌM HIỂU BÀI
I. Quan sát, học tập, tích luỹ tri thức để làm bài văn thuyết minh
Muốn viết được một văn bản thuyết minh đạt hiệu quả cao, ngưòi viết cần phải có những hiểu biết về đối tượng thuyết minh. Hiểu biết càng sâu sắc, thấu đáo thì nội dung văn bản thuyết minh càng hàm súc, mạch lạc và rõ ràng. Bởi vậy, việc tìm hiểu về đối tượng trước khi thuyết minh là hết sức cần thiết.
Đọc lại các văn bản thuyết minh: Cây dừa Bình Định, Tại sao lá cây có màu xanh lục, Huế, Khởi nghĩa Nông Văn Vân, Con giun đất, ta thấy các loại văn bản đó đã sử dụng các kiến thức về địa lí, sinh học, sử học.
Hiểu biết của con người không phải tự nhiên mà có được. Muốn có hiểu biết về một đối tượng nào đó, cá nhân phải học hỏi, phải tích luỹ kinh nghiệm sống, phải đọc sách báo, phải ghi chép… Đồng thời, phải biết quan sát, nghĩa là phải biết nhìn nhận, biết đánh giá, nhận xét về đốì tượng. Chỉ khi nào có hiểu biết về đối tượng thật kĩ càng, mối có thể viết được văn bản thuyết minh.
II. Phương pháp thuyết minh
Để nêu bật đặc điểm bản chất, tiêu biểu của sự vật, hiện tượng ngưòi ta thường sử dụng các phương pháp thuyết minh sau:
1. Phương pháp nêu định nghĩa, giải thích
Đây là phương pháp được viết theo kiểu cấu trúc: s là p.
Ví dụ:
– Cụm danh từ là loại tổ hợp từ do danh từ với một số từ ngữ phụ thuộc nó tạo thành. (Ngữ văn 6, tập một)
– Di truyền là hiện tượng truyền đạt các tình trạng của bố mẹ, tổ tiên cho các thế hệ con cháu. Còn biến dị là hiện tượng con cháu sinh ra khác với bố mẹ và khác nhau về nhiều chi tiết.
(Sinh học 9, SGK thí điểm)
Dùng phương pháp định nghĩa, giải thích như cách viết trong ví dụ trên thường xác định được đốì tượng một cách cụ thê loại nào, kiểu gì, đặc điểm cơ bản của sự việc, hiện tượng ra sao, tránh việc giải thích quá rộng hoặc quá hẹp về đối tượng.
2. Phương pháp liệt kê
Đây là phương pháp kể ra, đưa ra một loạt những tính chất, những đặc điểm nào đó của đốì tượng nhằm khẳng định hay nhấn mạnh cho một điều gì đó, một đặc tính nào đó cần thuyết minh, làm rõ.
Ví dụ: Cây dừa cống hiến tất cả của cải của mình cho con người: thân cây làm máng, lá làm tranh, cong lá chẻ nhỏ làm vách, gốc dừa già làm chõ đồ xôi; nước dừa đề uống, đê kho cá, kho thịt, nấu canh, làm nước mắm..,(Cây dừa Bình Định)
3. Phương pháp nêu ví du
Đây là phương pháp dẫn ra, đưa ra những dẫn chứng lấy từ sách, báo chí, từ đời sống thực tiễn để làm sáng rõ cho điều mình trình bày. Dẫn chứng càng mang tính phổ biến bao nhiêu càng có giá trị cao bấy nhiêu.
Ví dụ: Ngày nay, đi các nước phát triển, đâu đâu củng nôi lên chiến dịch chống thuốc lá. Người ta cấm hút thuốc ở tất cả những nơi công cộng, phạt nặng những người vi phạm (ở Bỉ, từ năm 1987, vi pham lần thứ nhất phạt 40 đô la, tái phạm phạt 500 đô la)
4. Phương pháp dùng số liệu (con số)
Đây là phương pháp đưa vào văn bản những con số mang tính chất định lượng chính xác để giải thích, chứng minh hay giới thiệu về một sự vật, hiện tượng nào đó.
Ví dụ: Với tỉ lệ hằng năm tăng 1,73% như mười lăm năm trước và 1,57% năm 1990 thì dân số hành tinh của chúng ta năm 2015 sẽ là hơn 7 tỉ người. (Bài toán dân số)
5. Phương pháp so sánh
Đây là phương pháp đem so sánh, đổi chiếu một sự vật, hiện tượng nào đó trừu tượng, chưa thật sự gần gũi, còn mới mẻ với mọi người với nhiều sự vật, hiện tượng thông thường, dễ gặp, dễ thấy để giúp người đọc nhận thức, hiểu về sự vật, hiện tượng đó một cách cụ thể, dễ dàng hơn.
Ví dụ: Biển Thái Bình Dương chiếm một diện tích lớn gần bằng ba đại dương khác cộng lại và lớn gấp 14 lần diện tích biển Bắc Băng Dương là đại dương bé nhất.
6. Phương pháp phân lọai, phân tích
Đây là phương pháp chia ra từng loại, từng bộ phận, từng mặt khi mà sự vật quá đa dạng hay có nhiều bộ phận cấu tạo, có nhiều mặt để thuyết minh.
Ví dụ: Văn bản Huế trong SGK, trang 115 – 116 trình bày các đặc điểm của thành phố Huế theo những mặt:
– Huế là một trong những trung tâm văn hoá, nghệ thuật lớn của Việt Nam.
– Huế là sự kết hợp hài hoà của núi, sông và biển.
– Huế đẹp vối cảnh sắc sông núi.
– Huế có những công trình kiến trúc nổi tiếng.
Ngữ văn có nghĩa là: - Khoa học nghiên cứu một ngôn ngữ qua việc phân tích có phê phán những văn bản lưu truyền lại bằng thứ tiếng ấy.
Nguồn : TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆTLớp 7 - Năm thứ hai ở cấp trung học cơ sở, một cuồng quay mới lại đến vẫn bước tiếp trên đường đời học sinh. Học tập vẫn là nhiệm vụ chính!
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK