nhà trải có `13` đời gồm các đời sau
Gia Long (`1802 - 1820 )`
Minh Mạng `(1820 - 1841)`
Triệu Trị `(1841-1847)`
Tự Đức `(1847-1883)`
Dục Đức `(1883`)
Hiệp Hòa `(1883)`
Kiến Phúc `(1883-1884)`
Hàm Nghi` (1884-1885)`
Đồng Khánh `(1885-1889`)
Thành Thái (`1889-1907)`
Duy Tân `(1907-1916)`
Khải Định `(1916-1925)`
Bảo Đại `(1926-1945)`
Triều Nguyễn, triều đại Phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, đã tồn tại trong suốt hơn 143 năm (1802-1945) với 13 đời vua Nguyễn. Thông thường các vua Nguyễn sau khi mất, bài vị được đưa vào thờ tại Thế Miếu, có Miếu hiệu ứng với tên của các đỉnh đồng đúc dưới thời Minh Mạng (1835), trừ các vua bị phế truất và các vua bị Pháp đày ra khỏi nước.
1. Gia Long hoàng đế (1802 – 1819)
Nguyễn Ánh lấy lại được Gia Định năm Mậu Thân (1788) tuy đã xưng vương mà chưa đặt niên hiệu riêng, vẫn dùng niên hiệu vua Lê. Tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802) lấy lại được toàn bộ đất đai cũ của các chúa Nguyễn, Nguyễn Vương Phúc ánh cho lập đàn tế cáo trời đất, thiết triều tại Phú Xuân, đặt niên hiệu Gia Long năm thứ nhất. Lê Quang Định được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh xin phong vương và đổi tên nước là Nam Việt. Nhà Thanh cho rằng tên nước là Nam Việt sẽ lẫn với nước của Triệu Đà (gồm cả Đông Việt, Tây Việt) nên đổi là Việt Nam. Thế là năm Giáp Tý (1804) án sát Quảng Tây Tề Bồ Sâm được vua Thanh phái sang phong vương cho Gia Long và nước ta có tên là Việt Nam. Năm Bính Dần (1806), Gia Long chính thức làm lễ xưng đế ở điện Thái Hòa và từ đây qui định hàng tháng cứ ngày rằm và mồng một thì thiết đại triều, các ngày 5, 10, 20 và 25 thì thiết tiểu triều.
2. Minh Mệnh hoàng đế (1820 – 1840)
Vua húy là Hiệu, lại có tên là Đởm, sinh ngày 23 tháng giêng năm Tân Hợi (1789), là con thứ tư của vua Gia Long. Tháng giêng năm Canh Thìn (1820), Hoàng thái tử Đởm lên ngôi vua, đặc quốc hiệu là Đại Nam, niên hiệu là Minh Mệnh, 30 tuổi
3. Thiệu Trị hoàng đế (1841 – 1847)
Trong số rất nhiều vợ của Minh Mệnh, có bà vợ cả họ Hồ, con gái lớn của công thần Hồ Văn Bôi, quê huyện Bình An, tỉnh Biên Hòa. Hồ Văn Bôi đã có công theo giúp vua Gia Long từ buổi đầu. Gia Long và bà Nhị phi đã chọn kỹ và cưới cô gái họ Hồ về làm vợ Hoàng tử Đởm. Là người trang kính, chín chắn, thận trọng, hiền hòa, trinh nhất… được Minh Mệnh hết lòng yêu kính, phong là Thuận đức Thần phi. Bà sinh Hoàng thái tử Dong được 13 ngày thì mất. Hoàng tử Dong được các cung nữ khác nuôi nấng. Năm Quí Mùi (1832), theo phép đặt tên của đế hệ. Hoàng tử Dong có tên mới là Miên Tông. Miên Tông là con trưởng trong số 78 hoàng tử của Minh Mệnh nên được nối ngôi. Tháng giêng năm Tân Sửu (1841) Miên Tông lên ngôi ở điện Thái Hòa, đặt niên hiệu là Thiệu Trị, vừa đúng 34 tuổi.
5. Dục Đức (làm vua ba ngày)
Trước ngày đăng quang, Dục Đức bàn với ba đại thần phụ chánh là Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và Trần Tiến Thành sẽ không đọc một đoạn nhận xét về mình trong di chiếu tại lễ lên ngôi. Cả ba vị phụ chính đều đồng ý. Ngày hôm sau, khi Trần Tiến Thành đọc đến đoạn ấy, hạ giọng xuống hầu như không ai nghe rõ, thì Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết nổi giận bảo Nguyễn Trọng Hợp đọc lại rồi chia quân túc vệ canh gác trong ngoài thành thật nghiêm ngặt và bắt gọn 10 người thân tín của vua nối ngôi trong đó có Nguyễn Như Khuê
6. Hiệp Hòa (6.1883-11.1883)
Tên thật là Hồng Dật, con thứ 29 và là con út của Thiệu Trị, sinh tháng 9 năm Thiệu Trị thứ 7 tức năm Bính Ngọ (1846). Năm ất Sửu (1865) Tự Đức 18 tuổi được phong Văn Lãng công. Tự Đức thứ 31 tức năm Kỷ Mão (1879) được tấn phong Lãng Quốc công.
7. Kiến Phúc (12.1883-8.1884)
Húy là Hạo, tự là Ưng Hỗ, lại có tự là Ưng Đăng, con nuôi thứ 3 của Tự Đức, sinh ngày 2 tháng Giêng năm Canh Ngọ (1870). Năm lên hai, (1871) vì Tự Đức không có con, Hạo được kén vào cung, sung làm Hoàng thiếu tử, do học phi Nguyễn Thị Chuyên nuôi dưỡng. Từ nhỏ Hạo đã sớm hiểu biết, ôn hòa, lặng lẽ và sạch sẽ, cẩn thận lời nói và việc làm. Vì thế, Tự Đức rất khen và tỏ ý yêu dấu khác thường. Mùa thu năm Nhâm Ngọ (1882) được tới nhà đọc sách gọi là Dưỡng Thiệu đường và được vua sai kèm cặp đạo làm vua. Trong di chiếu, Tự Đức tỏ ý muốn nhường ngôi nhưng vì nhỏ tuổi (mới 14 tuổi) đành thôi.
8. Hàm Nghi (8.1884-8.1885)
Hàm Nghi tên thật là Ưng Lịch, em ruột Kiến Phúc. Sau khi Kiến Phúc bị giết, Ưng Lịch mới 13 tuổi và được đưa lên ngôi ngày 1/8 năm Giáp Thìn (1884). Lúc đó, hòa ước Giáp Thân (6.6.1884) đã được ký kết.
9. Đồng Khánh (10.1885-12.1888)
Sau khi đày Hàm Nghi, thực dân Pháp bàn với đại thần cơ mật Nguyễn Hữu Độ và Phan Đình Bình lập Kiến Giang quận công làm vua mới.
10. Thành Thái (1.1889-7.1907)
Sáu người con trai của Đồng Khánh đều còn quá nhỏ.Vâng ý chỉ của Lưỡng Tôn Cung (Nghi thiên chương Hoàng hậu – vợ Thiệu Trị và Lê Thiên anh Hoàng hậu – vợ Tự Đức) triều đình đón người con thứ 7 của Dục Đức (đã bị phế truất) là Hoàng tử Bửu Lân khi đó mới 8 tuổi lên làm vua.
11. Duy Tân (1907-1916)
Gạt xong Thành Thái, thực dân Pháp định dùng con của Thành Thái là Hoàng tử Vĩnh San mới 8 tuổi lên làm vua để dễ bề thao túng. Chúng không ngờ được rằng vị vua trẻ này còn có thái độ chống lại kiên quyết và tích cực hơn vua cha.
12. Khải Định (1916-1925)
Khải Định tên thật là Bửu Đảo còn gọi là Hoàng thân Phụng Hóa, con Đồng Khánh, sinh năm 1884. Từ 1907, sau khi phế truất Thành Thái, thực dân Pháp định đưa Bửu Đảo lên ngôi vua để nối tiếp dòng vua bù nhìn Đồng Khánh. Khi giải quyết vấn đề này, nhiều đình thần tỏ ý không muốn đặt lên ngai vàng một người “vô hậu” (tuyệt tự). Pháp đành phải chấp nhận Duy Tân. Duy Tân bị đi đày, Pháp đưa Bửu Đảo lên ngôi, lấy niên hiệu là Khải Định, 32 tuổi.
13. Vị hoàng đế cuối cùng Bảo Đại (1926-1945)
Khải Định qua đời, Toàn quyền Đông Dương và hội đồng phụ chính đã ký một bản “qui ước” ghi rõ: trong khi vua còn ở nước ngoài, Hội đồng phụ chính được quyền thay mặt điều hành mọi việc triều đình, đồng thời từ nay chỉ những lệ định có liên quan đến điển lệ, ân thích, ân xá, tặng phong các hàm tước, chức sắc… thì do hoàng đế ban dụ. Mọi việc khác đều thuộc quyền nhà nước Bảo hộ. Văn bản này còn sáp nhập ngân sách Nam Triều vào ngân sách Trung Kỳ và mọi cuộc họp bàn của Hội đồng thượng thư phải do Khâm sứ Trung Kỳ chủ tọa. Như vậy là bằng văn bản trên, thực dân Pháp đã hoàn toàn thâu tóm mọi quyền lực của Nam Triều ngay cả trên địa bàn Trung Kỳ. Triều đình Huế chỉ còn là bộ máy tay sai do thực dân trả lương mà th
$ #Haiphongphan111212 $
Lịch sử là môn khoa học nghiên cứu về quá khứ, đặc biệt là những sự kiện liên quan đến con người. Đây là thuật ngữ chung có liên quan đến các sự kiện trong quá khứ cũng như những ghi nhớ, phát hiện, thu thập, tổ chức, trình bày, giải thích và thông tin về những sự kiện này. Những học giả viết về lịch sử được gọi là nhà sử học. Các sự kiện xảy ra trước khi được ghi chép lại được coi là thời tiền sử.
Nguồn : Wikipedia - Bách khoa toàn thưLớp 4 - Năm thứ bốn ở cấp tiểu học, kiến thức ngày một tăng, sắp đến năm cuối cấp nên các em cần chú đến học tập nhé!
Nguồn : ADMIN :))Xem thêm tại https://loigiaisgk.com/cau-hoi or https://giaibtsgk.com/cau-hoi
Copyright © 2021 HOCTAPSGK